intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Một số tư tưởng triết học ngôn ngữ của Noam Chomsky

Chia sẻ: Tri Nhân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

21
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu một số tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky, cụ thể là: Chomsky bàn về bản chất ngôn ngữ; ý thức/hoạt động trí não và vấn đề thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Một số tư tưởng triết học ngôn ngữ của Noam Chomsky

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------------------------------- VƢƠNG THỊ PHƢƠNG MỘT SỐ TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ CỦA NOAM CHOMSKY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- VƢƠNG THỊ PHƢƠNG MỘT SỐ TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ CỦA NOAM CHOMSKY Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn HÀ NỘI – 2015
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn. Vì vậy, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Phòng Sau đại học cùng các thầy, cô trong khoa Triết học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã giúp đỡ cho tôi trong học tập và nghiên cứu luận văn. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô phản biện đã đọc, góp ý và sửa chữa cho luận văn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè cùng gia đình luôn đồng hành cùng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Vƣơng Thị Phƣơng
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn. Tôi cũng xin cam đoan đề tài này không trùng với bất kì đề tài luận văn thạc sĩ nào đã được công bố ở Việt Nam. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đề tài. Người cam đoan Vƣơng Thị Phƣơng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ VÀ CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP CỦA NOAM CHOMSKY ...............................................................11 1.1. Khái quát về triết học ngôn ngữ .........................................................................11 1.1.1. Triết học ngôn ngữ là gì? ................................................................................11 1.1.2. Khái lược lịch sử triết học ngôn ngữ ..............................................................12 1.2. Noam Chomsky: cuộc đời và sự nghiệp ............................................................35 1.2.1. Cuộc đời ..........................................................................................................35 1.2.2. Sự nghiệp .........................................................................................................38 Tiểu kết Chương 1 .....................................................................................................46 Chƣơng 2. NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ CƠ BẢN CỦA NOAM CHOMSKY ................................................................................................47 2.1. Chomsky bàn về ngôn ngữ .................................................................................47 2.1.1. Quan niệm của Chomsky về bản chất ngôn ngữ .............................................47 2.1.2. Các quy tắc tạo sinh câu .................................................................................55 2.2. Chomsky bàn về ý thức/ hoạt động trí não ..........................................................64 2.2.1. Chủ nghĩa duy lí và quan điểm của Chomsky ...................................................64 2.2.2. Cơ chế bộ não sinh ra ngôn ngữ.......................................................................71 2.3. Chomsky bàn về thụ đắc ngôn ngữ ....................................................................75 2.3.1. Thiết bị thụ đắc ngôn ngữ ...............................................................................75 2.3.2. Cơ chế trẻ em thụ đắc ngôn ngữ .....................................................................80 Tiểu kết Chương 2 .....................................................................................................92 KẾT LUẬN...................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................95 1
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Noam Chomsky được cả thế giới biết đến là một giáo sư ngôn ngữ học người Mỹ nổi tiếng có ảnh hưởng lớn trong thời đại chúng ta. Vị trí của Chomsky trong khung cảnh trí tuệ thế giới là độc nhất vô nhị. “Theo cứ liệu thống kê của “Arts and Humanities Citation Index”, trong khoảng thời gian 1980-1992, Chomsky là một trong những học giả được trích dẫn nhiều nhất” [4, tr. 40]. Và theo cuộc bầu chọn những người trí tuệ trên thế giới vào năm 2005 do tạp chí Prospect của Anh thực hiện thì “Noam Chomsky là người có trí tuệ nhất thế giới” [12, tr.175]. Ông là nhân vật hàng đầu trong cuộc cách mạng tri nhận (cognitive) của những năm 1950 và 1960 đồng thời chi phối lĩnh vực ngôn ngữ học kể từ đó. Tên tuổi của ông gắn liền với ngữ pháp cải biến – tạo sinh (Generative –Transformational Grammar), là một tấm biển chỉ đường, là nguồn cổ vũ cho nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới và là điểm so sánh cho hầu hết các học giả. Đôi khi, ông còn được coi là “cha đẻ” của ngôn ngữ học hiện đại. Chomsky được biết đến không chỉ trong ngôn ngữ học mà trong cả triết học ngôn ngữ. Trong triết học ngôn ngữ, ông bàn đến những vấn đề: sự đối lập giữa ngữ năng/ năng lực ngôn ngữ (linguistic compentence) và ngữ thi/ sự thực hiện ngôn ngữ (linguistic performance). Chính ở đó ngữ năng của con người và tri thức ngôn ngữ có quan hệ rất chặt chẽ trong các biểu đạt. Tư tưởng của Chomsky tập trung vào các cơ chế ngữ pháp của ngôn ngữ nói chung, sự hiểu biết có tính ngầm ẩn và bản năng của chúng ta. Cơ chế này gắn liền với hoạt động trí não (mind) của con người, đó là những hoạt động có ý thức. Bằng việc đưa ra một sự phân biệt quan trọng ngữ năng và ngữ thi, Chomsky xem ngữ pháp của một ngôn ngữ là cơ chế hợp thành ngữ năng. Theo ông, nghiên cứu ngôn ngữ là nghiên cứu ngữ năng có tính chất chung, phổ quát cho mọi ngôn ngữ, không phải là lí thuyết về ngữ thi. Từ đó, Chomsky đặt ra những vấn đề rất đáng chú ý như: ngữ pháp phổ quát (Universal grammar) và ngữ pháp đặc thù (Particular grammar), các quy tắc tạo sinh (genernative rules), sự khác biệt giữa ngôn ngữ nội tại (Internal language- viết tắt là I-language) nằm trong người học và ngôn ngữ 2
  7. ngoại tại (External language- viết tắt là E-language) nằm ngoài người học và vấn đề thụ đắc ngôn ngữ (language acquisition) ở trẻ em. Chính những nghiên cứu này của Chomsky đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu khác như: vấn đề thụ đắc ngôn ngữ trong tâm lý học, nghiên cứu trong trí tuệ nhân tạo và khoa học máy tính, việc dạy và học ngoại ngữ. Chomsky đã làm một “cú hích” cho sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics), một lí thuyết đi sâu vào việc khảo sát các quá trình trí não trong việc sử dụng tri thức và nhận thức ngôn ngữ. Đối với triết học ngôn ngữ (philosophy of language), ông cũng có những đóng góp có giá trị. Triết học ngôn ngữ là một lĩnh vực của triết học có nhiệm vụ không chỉ nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, chức năng của ngôn ngữ, mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ mà còn làm rõ vấn đề bản chất ý nghĩa, sử dụng ngôn ngữ, nhận thức ngôn ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tại. Triết học ngôn ngữ của Chomsky tập trung vào ngữ năng nhằm làm rõ bản chất sáng tạo (creative), di truyền (genetic), chuyển đổi (transformational) của ngôn ngữ loài người. Ông luận chứng cho quan điểm nghiên cứu ngôn ngữ chính là nghiên cứu cách tổ chức và hoạt động của thực thể vật chất là trí não trong quá trình sinh ra các phát ngôn (utterance). Đó là những hoạt động có ý thức giúp chúng ta chuyển ngôn ngữ bên trong bộ não thành ngôn ngữ bên ngoài thông qua một hệ thống các quy tắc tạo câu. Theo ông, không có một khái niệm ngôn ngữ tường minh nào nằm ngoài ý thức của con người. Do vậy, nghiên cứu ngôn ngữ phải lấy kiến trúc tinh thần làm trọng tâm, kiến trúc hình thành nên kiến thức ngôn ngữ của chúng ta. Vì vậy, hệ vấn đề ngôn ngữ của Chomsky liên quan đến ngữ pháp phổ quát, ngôn ngữ hình thức bên trong trí não, tính bẩm sinh và thụ đắc ngôn ngữ, những vấn đề liên quan trực tiếp đến ngữ năng nhằm làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ý thức (ý thức ở đây là hoạt động của trí não) mà lâu nay các nhà nghiên cứu thiếu hẳn những suy ngẫm dành cho nó. Khi nghiên cứu ngôn ngữ, Chomsky đã sử dụng một loạt phương pháp của toán học và các phương pháp của chủ nghĩa phân bố (distributionism) nhằm xây dựng một lí thuyết ngôn ngữ sao cho nó có thể lường trước được số lượng vô hạn các câu của ngôn ngữ tự nhiên bằng một tập hợp các quy tắc hữu hạn. Do đó, ông 3
  8. đã đem đến cho triết học một diện mạo mới, một khuynh hướng độc đáo trong sự phát triển của tư duy nhân loại ở thế kỷ thứ XXI. Có thể khẳng định rằng, các tư tưởng Chomsky về ngôn ngữ có tầm quan trọng và tác động lớn. Trên thế giới, có nhiều học giả đã, đang và vẫn nghiên cứu về những quan điểm lí thuyết ngôn ngữ của ông nhưng ở Việt Nam mới chỉ có một số công trình nghiên cứu rất lẻ tẻ và rời rạc về Chomsky. Riêng về tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky thì cho đến nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Vì vậy, nghiên cứu triết học ngôn ngữ của Chomsky sẽ là một vấn đề quan trọng và cần phải đặt ra. Đúng như nhà ngôn ngữ học người Anh, John Lyons nhận xét: “Bất luận lí luận ngữ pháp của Chomsky có chính xác hay không thì rõ ràng đó vẫn là lí luận ngữ pháp có sức sống nhất, có ảnh hưởng nhất hiện nay. Bất kì một nhà ngôn ngữ nào nếu không muốn tụt hậu trong xu thế phát triển của ngôn ngữ học đều không thể xem nhẹ cách xây dựng lí luận của Chomsky” [35, tr. 341]. Với những lí do như trên, tôi chọn vấn đề “Một số tư tưởng triết học ngôn ngữ của Noam Chomsky” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Lí thuyết ngôn ngữ của Chomsky đã được nhiều học giả ở cả trong nước và thế giới nghiên cứu từ nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu đặc biệt là trong các sách giáo trình ngôn ngữ học, sách về lịch sử ngôn ngữ học đều nhắc tới lí thuyết cải biến - tạo sinh của ông. Do lí luận ngôn ngữ của Chomsky rất phức tạp, đa dạng, lại liên tục phát triển và đổi mới cộng thêm nguồn tài liệu ít ỏi và hiếm, lại chủ yếu bằng tiếng Anh nên vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu về tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky rất khó khăn. Trên thế giới, vào những năm 50-60 của thế kỷ trước, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Chomsky là Syntactic Structures (Các cấu trúc cú pháp) đã được xuất bản năm 1957. Công trình này được nhiều tác giả tham chiếu và được đánh đánh giá là một trong những là một trong những thành tựu trí tuệ của thế kỷ XX. Nó làm thay đổi phương pháp tư duy, đánh dấu bước chuyển sang tư duy mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác. Trong tác phẩm 4
  9. này, ông trình bày mục đích của lí thuyết ngôn ngữ về cơ bản là miêu tả cấu trúc cú pháp. Cấu trúc cú pháp bị quy định bởi những thuộc tính bẩm sinh của trí tuệ con người chứ không phải bởi các cấu trúc trong giao tiếp. Ông coi cú pháp là hệ thống tự trị (autonomous) không gắn với xã hội, dân tộc và văn hóa. Cấu trúc cú pháp gắn liền với cấu trúc bộ não. Về sau, Chomsky phát triển lý thuyết này trong công trình Aspects of the theory of syntax (Các bình diện của lý thuyết cú pháp) xuất bản năm 1965 với tham vọng rằng lý thuyết ngôn ngữ phải nhằm mục đích giải thích tất cả các mối quan hệ ngôn ngữ giữa hệ thống âm thanh với hệ thống nghĩa của ngôn ngữ đó. Hai cuốn sách đó của Chomsky luôn tạo hứng thú cho các nhà nghiên cứu, một cuốn được coi là công trình báo trước “cuộc cách mạng Chomsky”, khởi xướng những ý tưởng mới đột phá trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải thích về sự sáng tạo trong ngôn ngữ và giới thiệu ngữ pháp cải biến của riêng mình như là một cách giải thích có sức thuyết phục hơn về việc con người tạo ra các câu nói như thế nào. Và cuốn sách còn lại cũng là sự tiếp nối tinh thần ấy nhưng ông đã tiến lên một bình diện khác cao hơn. Cả hai cuốn đều giúp chúng ta hiểu biết khái quát về quan điểm ngôn ngữ của Chomsky và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ của ông. Tiếp đó, trong các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, tư tưởng ngôn ngữ của Chomsky đã được giới thiệu tương đối sâu sắc. Tiêu biểu là: The Philosophy of language (Triết học ngôn ngữ) của A.P.Martinich xuất bản 1996; The Chomsky - Foucault Debate on human nature (Tranh luận giữa Chomsky- Foucault về bản chất con người) của The New Express xuất bản năm 2006 và The Cambridge Companion to Chomsky (Sách hướng dẫn về Chomsky) của Mc Gilvgray xuất bản năm 2007. Trong các tác phẩm này, các tác giả đã cho thấy vị trí của Chomsky trong khung cảnh trí tuệ thế giới hiện đại. Ông mở đường cho một tư duy mới bằng sự mô tả toán học chính xác về một số đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ loài người. Đồng thời, ông cũng thiết lập một cách giải thích độc đáo với luận điểm then chốt cho rằng có một cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh xác định khuôn mẫu bên trong ý thức, hoạt động của trí não. Ngôn ngữ được đánh thức trong trí não, theo một tiến trình đã xác định từ trước, giống như các thuộc tính sinh học 5
  10. khác. Cấu trúc này gắn liền với ngữ pháp phổ quát. Với kiến thức bẩm sinh về hệ thống ngữ pháp phổ quát, đứa trẻ nhập tâm, tiếp nhận ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ thông qua kinh nghiệm. Ở Việt Nam, sớm nhận thức được tầm quan trọng và ảnh hưởng của Chomsky, một số học giả đã chú ý tới ông nhưng nghiên cứu tương đối rời rạc, tiêu biểu là các công trình: Ngôn ngữ học, khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm (Tập I) xuất bản năm 1984 và Ngôn ngữ học, khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm (tập II) của Đái Xuân Ninh - Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang-Vương Toàn, (Nxb Khoa học xã hội), xuất bản năm 1986. Trong hai cuốn sách này, một số khái niệm cơ về ngữ pháp cải biến tạo sinh của Chomsky được trình bày rải rác. Sau này, những khái niệm này được GS. TS Đỗ Hữu Châu đề cập đến trong Đại cương Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 1993. GS. TS Đỗ Hữu Châu không nghiên cứu tư tưởng ngôn ngữ của Chomsky. Phần lí thuyết về ngữ pháp tạo sinh của Chomsky trong cuốn sách này được GS. TS Đỗ Hữu Châu trích dịch từ Bách Khoa thư ngôn ngữ ra. Nó giới thiệu một cách đại cương về ngữ pháp tạo sinh của Chomsky, đó là: cơ sở của ngữ pháp tạo sinh, một số giả thuyết có tính chất tiên đề và ba giai đoạn ngữ pháp cải biến, bước đầu khảo sát một cách có hệ thống những khái niệm và các quy tắc chuyển đổi câu... mà tập trung chủ yếu về mặt cú pháp. Nghiên cứu một cách tương đối hệ thống lý thuyết ngữ pháp tạo sinh của Chomsky, phải kể đến công trình: Ngữ pháp tạo sinh của Nguyễn Đức Dân. Công trình này đã được xuất bản thành sách vào năm 2012, Nxb ĐHQG Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách này, tác giả mới chỉ quan tâm đến tư tưởng của Chomsky ở giai đoạn đầu từ năm 1957-1965, toàn bộ giai đoạn sau trong tư tưởng ngôn ngữ của Chomsky không được tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, những nội dung cơ bản về ngữ pháp tạo sinh của Chomsky đã được phân tích một cách rõ ràng. Nguyễn Đức Dân cho rằng mô hình lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của Chomsky là lí thuyết về năng lực ngôn ngữ. Trên nền tảng đó, ông đưa ra những tư liệu bổ ích về ba mô hình ngôn ngữ của Noam Chomsky: ngữ pháp hữu hạn trạng thái, ngữ pháp thành tố trực tiếp và ngữ pháp tạo sinh. Đồng thời, ông cũng trình bày có hệ 6
  11. thống về quy tắc tạo sinh câu và quá trình hình thành ngữ pháp chuyển đổi của Chomsky chủ yếu qua hai tác phẩm: Syntactic Structures (1957) (Các cấu trúc cú pháp) và “Aspects of the theory of Syntactic” (1965) (Các bình diện của lý thuyết cú pháp). Tác phẩm thứ nhất nhấn mạnh lý thuyết cú pháp là xây dựng các nguyên lí tạo câu, tác phẩm sau bổ sung thêm thành phần ngữ nghĩa trong miêu tả ngữ pháp, tác giả đã khái quát được những phát triển gần đây của ngữ pháp tạo sinh liên quan đến vấn đề ngữ nghĩa của câu từ đó chỉ ra hai khuynh hướng đối lập của ngữ pháp tạo sinh giai đoạn hiện nay là: lí thuyết chuẩn mở rộng (Extended Standard Theory) và ngữ nghĩa học tạo sinh (generative semantics). Tiếp theo, giới hạn trong đề tài cá nhân: Sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em, một số trường phái lý thuyết chính của tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình (2003- 2004), Viện ngôn ngữ học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, đã giới thiệu khái quát về thụ đắc ngôn ngữ theo mô hình bẩm sinh luận của Chomsky. Tuy nhiên, đây là một đề tài cá nhân cho nên tác giả chưa đi sâu vào những khía cạnh triết học ngôn ngữ trong tư tưởng của Chomsky. Trong cuốn Ngôn ngữ học (ghi chép và suy nghĩ) của Trần Văn Cơ, ngôn ngữ học của Chomsky được giành một mục nhỏ khi tác giả bàn đến ba hình hệ khoa học về ngôn ngữ. Trần Văn Cơ cũng không nghiên cứu về Chomsky, ông chỉ đề cập đến quan điểm của Chomsky từ góc độ tri nhận có nghĩa là nghiên cứu ngữ pháp cần gắn liền với ngữ nghĩa. Nghiên cứu nghĩa là nghiên cứu cơ chế nhận thức, là nghiên cứu tri nhận. Hiện nay, cũng có một số tài liệu bằng tiếng Việt quan tâm chú ý tới ngữ pháp tạo sinh của Chomsky. Chúng có thể được coi là cơ sở cho nghiên cứu những tư tưởng ngôn ngữ của Chomsky, tiêu biểu là: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ của Nguyễn Thiện Giáp, Nxb Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2012. Đây là một tài liệu hữu ích. Tác giả đã khái quát cơ sở triết học và nhận thức luận của lí thuyết cải biến – tạo sinh của Chomsky, nêu những tư tưởng ngôn ngữ cơ bản của Chomsky qua ba giai đoạn: mô hình ngôn ngữ thứ nhất (1957- 1965), Lí thuyết chuẩn (1965-11970) và Lí thuyết chuẩn mở rộng (từ 1970 trở đi). Công trình này chỉ rõ phương pháp nghiên cứu của lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của 7
  12. Chomsky nhưng vẫn chưa đi vào vấn đề triết học ngôn ngữ của ông. Bên cạnh đó, còn có một số tư liệu dịch như: Những cơ sở triết học ngôn ngữ do Trúc Thanh dịch, Nxb Giáo dục xuất bản năm 1984, dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt, Các trường phái ngôn ngữ học phương Tây của Lưu Nhuận Thanh do Đào Hà Ninh dịch, Lược sử ngôn ngữ học của R. H. Robins do Hoàng Văn Vân dịch, và hai cuốn sách: Language and mind (1968)( Ngôn ngữ và ý thức) và New Horizons in the Studies of Language and Minds-(2000) (Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức) của Noam Chomsky cũng do Hoàng Văn Vân dịch. Các tài liệu này đề cập tới tư tưởng của Chomsky một cách trực tiếp. Trong đó, Chomsky đã lý giải ngôn ngữ theo cách nội hiện về khả năng ngôn ngữ của loài người. Ý tưởng của Chomsky cho rằng, kiến thức ngôn ngữ có tính cá thể nằm trong bộ não, tư duy con người. Ông luận giải sở dĩ con người thụ đắc ngôn ngữ mẹ đẻ một cách nhanh chóng là do trong trí não chúng ta có hệ thống các qui tắc ngữ pháp của ngữ pháp phổ quát bẩm sinh. Quan điểm này của Chomsky đã đưa ra một thách thức mới và gây phấn khích trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức. Ý thức ở đây, được Chomsky hiểu toàn bộ quá trình tinh thần bên trong bộ não góp phần sinh ra các phát ngôn. Năm 2002, Noam Chomsky tiếp tục nghiên cứu về các khía cạnh của ngôn ngữ và bộ não cũng như mối quan hệ giữa chúng với công trình On nature and language (Về tự nhiên và ngôn ngữ), tác giả luận văn đã tiếp cận được công trình này. Ngoài những công trình bàn trực tiếp về Chomsky, có một số cuốn sách giới thiệu trực tiếp về tư tưởng triết học ngôn ngữ có liên quan đến Chomsky, đó là cuốn: Philosophy of language a contemporary introduction (Triết học ngôn ngữ sự giới thiệu đương đại) của W. Lycan xuất bản năm 2000. Với công trình này, W.Lycan trình bày rõ các chủ đề của triết học ngôn ngữ đương đại là: nghĩa và quy chiếu, vấn đề tên riêng, ngữ nghĩa chân – ngụy và các vấn đề khác về ẩn dụ và phép loại suy mà trong đó định vị được triết học ngôn ngữ nói chung và tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky nói riêng trong bối cảnh hiện đại. Từ sự tổng quan các tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng các tài liệu nghiên cứu về Chomsky chủ yếu được dịch từ Tiếng Anh ra tiếng Việt và mới chỉ trình bày 8
  13. và phân tích tư tưởng của Chomsky dưới góc độ ngôn ngữ, tâm lý, triết học và logic, chưa đi vào vấn đề triết học ngôn ngữ. Trong mảng luận văn, luận án, cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào liên quan triết học ngôn ngữ của Chomsky. Do vậy, tác giả bước đầu tìm hiểu và nghiên cứu một vài tư tưởng triết học ngôn ngữ chính của Chomsky. Đây là một đề tài rất mới mà đến nay khi đề cập đến tư tưởng triết học ngôn ngữ của ông vẫn là một vấn đề không đơn giản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: tìm hiểu một số tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky, cụ thể là: Chomsky bàn về bản chất ngôn ngữ; ý thức/ hoạt động trí não và vấn đề thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em. Để thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nhiệm vụ: + Trình bày khái quát về triết học ngôn ngữ: khái niệm, một vài nét lịch sử của triết học ngôn ngữ, các trào lưu chính và các chủ đề của triết học ngôn ngữ hiện đại. + Trình bày khái quát về cuộc đời và hoạt động sáng tạo của Noam Chomsky. + Khảo sát và nghiên cứu một số tư tưởng triết học ngôn ngữ chính của Chomsky về: bản chất ngôn ngữ; ý thức/ hoạt động trí não con người và thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng triết học ngôn ngữ của Chomsky, cụ thể là: quan điểm của ông về bản chất ngôn ngữ, ý thức gắn liền với hoạt động bộ não và thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em. Phạm vi nghiên cứu: thuộc hai nguồn. Nguồn thứ nhất là một số tác phẩm gốc của Chomsky, cụ thể là: Syntactic Structures (Các cấu trúc cú pháp) xuất bản năm 1957, Aspects of the theory of syntax (Các bình diện của lý thuyết cú pháp xuất bản năm 1965, Language and mind (Ngôn ngữ và ý thức) xuất bản năm 1968 và New Horizons in the Studies of Language and (Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức) xuất bản năm 2000. Nguồn thứ hai là những tài liệu thứ cấp trong ngôn ngữ học bao gồm các nghiên cứu đánh giá của những người đi trước 9
  14. về Chomsky. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những khái niệm, phạm trù, quy luật của triết học ngôn ngữ. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học của Chomsky đã có trong lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ. Luận văn sử dụng các phương pháp như: đọc tài liệu về Chomsky, tổng thuật lại, phân tích – tổng hợp và đánh giá. 6. Cái mới của Luận văn Luận văn giới thiệu đến bạn đọc một cách khái quát về triết học ngôn ngữ và một số tư tưởng triết học ngôn ngữ chủ yếu của Chomsky, về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, ý thức. Từ đó, tác giả luận văn mong muốn cung cấp những vấn đề mới mẻ và lý thú cho người đọc, người nghiên cứu quan tâm đến tư tưởng triết học ngôn ngữ của Noam Chomsky. Vì thế, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên nghiên cứu về triết học ngôn ngữ và các tư tưởng khác của ông. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản của luận văn gồm 2 chương 5 tiết. 10
  15. Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ VÀ CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP CỦA NOAM CHOMSKY 1.1. Khái quát về triết học ngôn ngữ 1.1.1. Triết học ngôn ngữ là gì? Ngôn ngữ là một chủ đề luôn tạo được sự quan tâm và lôi cuốn đối với các nhà nghiên cứu. Triết học ngôn ngữ gắn liền với lý thuyết ngôn ngữ học. Bàn về bản chất và vai trò của ngôn ngữ đã được các nhà triết học đề cập đến từ thời cổ đại và việc nghiên cứu ngôn ngữ cho đến nay phản ánh rõ ràng lập trường nghiên cứu của họ đối với các vấn đề cơ bản của triết học. Triết học ngôn ngữ trước hết là một lĩnh vực của triết học nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ. Triết học ngôn ngữ xem xét hoạt động ngôn ngữ như một đối tượng đã biết và tìm hiểu mối quan hệ của nó với những đối tượng khác, được coi là khu biệt với nó. Nó đi vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ học và triết học, giữa ngôn ngữ và tư duy, giữa ý thức và hiện thực khách quan, đi vào nguồn gốc và sự phát triển lịch sử của ngôn ngữ, bản chất và vai trò và giá trị của ngôn ngữ cũng như sự phụ thuộc về mặt thế giới quan và phương pháp luận của các công trình nghiên cứu triết học về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, v.v... tức là nó nghiên cứu mặt bên ngoài của ngôn ngữ. Triết học ngôn ngữ cũng được hiểu là sự nghiên cứu về mặt triết học các quy luật bên trong của sự cấu tạo và sử dụng ngôn ngữ. Lĩnh vực này đặt trọng tâm vào phân tích ngôn ngữ, khảo sát những vấn đề của cú pháp logic, ngữ nghĩa logic, giao tiếp ngôn ngữ hoặc cái gọi là “hàng rào ngôn ngữ”... Đặc biệt gần đây sự lạm dụng tên gọi của các công trình triết học phân tích được mệnh danh là triết học ngôn ngữ đã gây ra những hướng suy nghĩ không đúng về triết học ngôn ngữ. Cũng có ý kiến phân biệt triết học ngôn ngữ, lĩnh vực chủ yếu đi sâu những vấn đề của nhận thức với triết học của ngôn ngữ học, vốn quan tâm đến vấn đề lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Cách phân chia như thế không cơ bản vì không thể tách rời nhận thức với lý thuyết và phương pháp. Triết học ngôn ngữ cần phải được nhận thức lại cho phù hợp với vị trí và vai trò của nó trong triết học, trong 11
  16. ngôn ngữ học cũng như trong lịch sử các khoa học nói chung. Theo chúng tôi, triết học ngôn ngữ theo nghĩa rộng là tập hợp những luận điểm, những quan niệm triết học về nguồn gốc, bản chất và chức năng hoạt động của ngôn ngữ, bản chất của ý nghĩa (meaning), và nhận thức ngôn ngữ đồng thời luận chứng cho mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ý thức, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới. Theo nghĩa hẹp, triết học ngôn ngữ còn được xem như một lĩnh vực nghiên cứu của triết học có nhiệm vụ không chỉ nghiên cứu mối liên hệ qua lại giữa tư duy và ngôn ngữ mà còn làm rõ vai trò xây dựng của ngôn từ câu cú trong các hình thức tranh biện khác nhau, trong nhận thức và trong cấu trúc của ý thức và tri thức. Để hiểu được những nét cơ bản của triết học ngôn ngữ với tư cách là một lĩnh vực của triết học trước hết chúng ta hãy điểm qua lịch sử hình thành và phát triển của nó. 1.1.2. Khái lược lịch sử triết học ngôn ngữ Thuật ngữ “triết học ngôn ngữ” do P. I. Zitexki (1900), A. Marty (1910), K. Vossler (1925), Q. Funker (1928), M. M Baxtin và V.N Volosilow (1929) đề xuất và được phổ biến rộng rãi vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, chủ yếu ở Đức, Anh, Mỹ, và một số nước Đông Âu… với các đại diện tiêu biểu như Carnap, Quine, Tarski, Wittgenstein hậu kỳ... Tuy nhiên, những tư tưởng về triết học ngôn ngữ đã có từ thời Cổ đại. Nó gắn liền với lý thuyết ngôn ngữ. 1.1.2.1. Thời Cổ đại Triết học ngôn ngữ có lẽ cũng có một lịch sử lâu dài như chính lịch sử triết học vậy. Ngay từ thời cổ đại, một số triết gia đã có những suy ngẫm mang tính triết học về ngôn ngữ. Ở Phương Tây, nghiên cứu về ngôn ngữ trải dài trở lại thế kỷ thứ V TCN với Socrates (470-399 TCN), Plato (429-347 TCN), Aristotles (384-322 TCN), và các nhà khắc kỷ (trường phái triết học Stoics). Trong các nghiên cứu của họ, ngôn ngữ có một vị trí quan trọng. Đến nay, chúng ta không biết nhiều về các nghiên cứu của Socrates. Ông không để lại tác phẩm nào. Chỉ có thể tìm thấy quan điểm của ông trong một số tác phẩm của Xenophone (430-355 TCN) hay của Plato, song cũng 12
  17. khó có thể nói được đâu là quan điểm của Socrates. Ở Hy Lạp cổ đại, các triết gia tranh luận chủ yếu xoay quanh hai đề tài: nguồn gốc ngôn ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Xoay quanh đề tài thứ nhất, có hai quan niệm trái ngược nhau: một số (các nhà ngụy biện và khắc kỷ thuộc trường phái triết học Stoics) cho rằng ngôn ngữ xuất hiện một cách tự nhiên; số khác lại cho rằng ngôn ngữ nảy sinh theo thói quen. Một bên là chủ trương từ của ngôn ngữ là do tự nhiên, do bản tính của sự vật mà có, và một bên là chủ trương từ do quy ước mà có. Các quan điểm này xuất phát từ tranh luận về mối quan hệ giữa tên gọi (từ) và sự vật. Aristotles, nhà triết học vĩ đại thời cổ đại, theo quan điểm thứ hai, cho rằng: “Ngôn ngữ hình thành do thói quen vì tự nhiên không đẻ ra tên gọi… Lời nói là sự thể hiện của tư tưởng kinh nghiệm, còn văn tự là sự thể hiện của lời nói. Chủng tộc khác nhau thì lời nói và chữ viết không giống nhau. Nhưng sự phản ánh của tư tưởng con người là giống nhau, từ vựng của một ngôn ngữ là dấu hiệu tư tưởng” [trích theo 35, tr. 22]. Platon (427-347 tr.CN), nhà triết học duy tâm khách quan, là học trò của Socrates. Ông đã nhớ lại lời dạy của thầy và viết thành nhiều quyển sách dưới hình thức đối thoại. Trong các đối thoại, Cratylus là tác phẩm bàn kỹ nhất về ngôn ngữ. Plato đã có nhiều đóng góp có giá trị khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tên gọi và vật. Trong đối thoại Cratylus, Plato đặt ra câu hỏi liệu tên các sự vật được xác định theo quy ước hay theo tự nhiên? Tên biểu hiện một thuộc tính nào đó của đối tượng được gọi tên. Ông phê phán quan điểm quy ước vì hậu quả dẫn đến của nó là mọi vật đều có thể được gọi tên theo quy ước. Do đó, nó không thể giải thích việc ứng dụng chính xác hoặc không chính xác của một tên gọi. Ông tuyên bố rằng có một tính đúng đắn tự nhiên cho các tên. Ông chỉ ra rằng từ ghép và cụm từ sẽ có một loạt các tính đúng đắn. Ông cũng cho rằng tên nguyên thủy đã có một đúng đắn tự nhiên, bởi vì mỗi âm vị đại diện các ý tưởng cơ bản hay những cảm xúc. Tên gọi là hình mẫu, cho nên nó không biểu hiện toàn bộ đối tượng mà chỉ biểu hiện những thuộc tính có sẵn, gọi là bản tính của vật. Gọi tên đúng bản tính của vật, biểu hiện việc sử dụng đúng các vật (ứng với bản tính của chúng) trong hoạt động ngoài ngôn ngữ. Ngoài ra, ông cũng bàn đến mối quan hệ giữa tư tưởng và lời nói. Platon cho rằng có sự thống 13
  18. nhất giữa tư tưởng và sự biểu đạt bằng lời nói. Cái khác duy nhất là sự biểu đạt bằng lời kèm theo âm thanh. Theo ông: “ý kiến là sự biểu đạt bằng lời, nhưng nếu không có sự tham gia của giọng nói và nếu không nói với người khác chỉ yên lặng, hướng về bản thân (Thêêtet)” [trích theo 36, tr. 145]. “Bởi vậy, tư tưởng và lời nói là một, ngoại trừ cuộc nói chuyện của tinh thần với chính mình, chỉ nảy ra ở bên trong nó và không thành tiếng, mà ta gọi là tư duy” (Sophist)” [trích theo 36, tr. 145]. Hạn chế của ông là chỉ phân tích cấu trúc phán đoán logic biểu đạt bằng ngôn ngữ, chưa đi sâu vào phân tích ngữ pháp. Aristotles không chỉ bàn về nguồn gốc ngôn ngữ mà còn khẳng định rằng từ tự thân có ý nghĩa nhất định nhưng không thể chia thành những thành tố nhỏ hơn. Nghĩa của từ được cho gián tiếp qua ý niệm về sự vật trong ý thức con người. Ông cũng quan tâm đến mối quan hệ giữa tư tưởng và lời nói. Ông nghiên cứu ngôn ngữ bằng việc gắn logic với sự biểu đạt tư duy bằng ngôn ngữ. Theo Aristotle, từ là biểu đạt của những khái niệm trong trí óc và không trực tiếp là hình ảnh âm thanh của sự vật. Từ đó, ông quan niệm rằng hình thức ngôn ngữ cũng là hình thức của tư duy, vì các phạm trù ngữ pháp và các phạm trù logic gắn chặt nhau. Tư tưởng của Zenon (496-429 TCN) cũng giống tư tưởng của Aristotle, ông cho rằng nghiên cứu hình thức tư duy không thể tách rời việc nghiên cứu các biểu đạt ngôn ngữ, vì nói đúng và tư duy đúng đều là việc của cùng một người. Epicure (341-270 TCN), nhà duy vật nổi tiếng thời kỳ Hy Lạp hóa đã đi sâu vào mặt xã hội của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. Từ không phải được tùy tiện đặt ra mà bản chất của con người trong mỗi dân tộc có cách thể hiện riêng thành tiếng những cảm nghĩ của mình, trong đó sự khác biệt về nơi cư trú cũng có vai trò nhất định. Dần dần các dân tộc chấp nhận những quy ước sử dụng chung, hạn chế tính đa nghĩa của phát ngôn, làm cho nó ngắn và sát yêu cầu sử dụng hơn. Trường phái Stoics là một trường phái triết học hoạt động từ thế kỷ thứ III TCN đến thế kỷ thứ IV SCN. Họ là những người phản đối quan điểm của Aristotles. Họ cho rằng ngôn ngữ có nguồn gốc tự nhiên. Quan điểm ngôn ngữ của trường phái này được tổng kết như sau: “Con người ta khi sinh ra, bộ não giống như một trang 14
  19. giấy trắng, có thể viết được chữ trên đó” [trích theo 35, tr. 26]. Điều đó rất gần với “thuyết bảng trắng” sau này. Bản thân ngôn ngữ không là trí tuệ nhưng là sự thể hiện của trí tuệ. Họ phân biệt một cách rõ ràng ranh giới giữa hai ngành nghiên cứu logic của ngôn ngữ và nghiên cứu ngữ pháp. Họ sử dụng các thuật ngữ ngữ pháp chính xác hơn. Trường phái này cho rằng, ngôn ngữ gồm ba bình diện: ngữ âm – một loại ký hiệu; ý nghĩa các ký hiệu ngôn ngữ, tức là nội dung và các sự vật trong thế giới tự nhiên được các từ thể hiện. Sau này, Saussure tiếp tục phát triển ý tưởng này. Xuất phát từ nhu cầu con người cần xác lập vị trí của mình trước mọi sự vật xung quanh, các triết gia cổ đại đã có thế giới quan duy vật cổ đại với những yếu tố của phép biện chứng, của tư tưởng về sự phát triển không ngừng của sự vật. Tư tưởng khoa học và triết học duy vật này ảnh hưởng to lớn đến thời kỳ Trung cổ và Phục hưng cũng như các nhà duy vật Khai sáng Anh và Pháp, đặc biệt đến các nhà triết học ngôn ngữ Hobbes (1588-1679), Locke (1632 - 1704) và Condillac (1715-1780). Ở phương Đông, Ấn Độ là cái nôi của ngôn ngữ học lớn và tiến bộ. Người Ấn Độ cổ quan tâm đến ngôn ngữ trước hết vì lí do tôn giáo. Bộ kinh Veda nổi tiếng của đạo Brahmin cần được bảo lưu, sau đó là vốn văn học dân gian tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) cũng cần phải được giữ gìn. Tư tưởng triết học về ngôn ngữ ở Ấn Độ xoay quanh bốn vấn đề: ngữ pháp hình thức (bao gồm nghĩa và ngữ pháp), sử dụng ngôn ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện thực, giữa ngôn ngữ và tư tưởng. Mọi hệ thống triết học ngôn ngữ dù chính thống hay không chính thống đều đề cập đến ngôn ngữ, đến khả năng của ngôn ngữ “nắm bắt” và biểu thị hiện thực. Thế kỷ V-VI, Bhatriari viết tác phẩm Vàkya padìya (Về từ và câu), trong đó theo quan điểm duy tâm truyền thống, ông cho rằng Brahman – hiện thực cao nhất, không có bắt đầu, không có kết thúc- sản sinh ra mọi sự vật hiện tượng dưới hình thức từ. Tư tưởng và mọi sự hiểu biết ngay từ đầu đã phải gắn bó khăng khít với từ. Sự gắn bó ấy cũng tồn tại ngay ở trẻ sơ sinh, song ở thời kỳ này, trẻ mới chỉ có những mầm mống hiểu và biết, đó là vết tích còn lại của kiếp trước; trong quá trình lớn lên, nhờ tác dụng của nghị lực, trẻ hiểu ngôn ngữ và biết làm như người lớn. Cũng do đó, 15
  20. giáo dục không thể truyền cho trẻ khả năng mà chỉ thúc đẩy khả năng. Mọi hoạt động của con người đều dựa trên quan hệ khăng khít giữa ý thức và từ. Mọi sự giao tiếp tư tưởng phụ thuộc vào sự gắn bó ấy,và nếu không có sự truyền đạt tư tưởng một cách đúng đắn, thành công thì không thể có sự phát triển khoa học, văn hóa, tài hoa. Ý kiến đồng nhất giữa từ và tư tưởng của Bhartrihari đã gây nên sự thảo luận sôi nổi trong những người đi sau ông. Một phái cho rằng: không có ý thức nào không thể hiện ra ngôn từ, tuy hai hiện tượng đó không thể tồn tại có cái này mà không có cái kia nhưng chúng không đồng nhất. Luận cứ của họ là: từ tồn tại một cách logic trước khi có ý thức cá nhân, được thực tại hóa mỗi khi lóe lên một tia trực giác và ban cho ý thức ấy một cấu trúc nhất định. Một phái khác cho rằng ý thức là bản chất tiềm ẩn trong từ, do đó từ không những là cấu trúc của ý thức mà còn là của bản thân ý thức nữa. Bhartrihari ủng hộ những người theo quan điểm thứ hai. Bhartrihari còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc coi câu như là tượng trưng không thể cắt bỏ của ngôn ngữ. Việc phân tách câu thành những từ, việc chia cắt chúng thành những loại động từ, danh từ, v.v... và việc phân chia căn tố với các phụ tố là biện pháp thuận tiện để nghiên cứu ngôn ngữ. Về mặt ngữ pháp, người Ấn Độ cổ đã biết nhận diện thành phần câu và tìm cách đánh dấu câu trên văn bản. Ngữ pháp của ngôn ngữ Ấn Độ cổ gắn liền với việc truyền bá Ấn Độ giáo. Cũng như tiếng Phạn hậu kỳ gắn liền với bộ kinh sách Phật. Trong khi phương Tây nhắc tới Aristotle như đại diện cho ngữ pháp Hy Lạp cổ đại thì ở Ấn Độ có nhắc đến tên của Panini, nhà ngữ pháp học đại diện tiêu biểu và kiệt xuất cho giới nghiên cứu ngôn ngữ học Ấn Độ cổ đại, với bộ ngữ pháp cổ của ông có tên là Ashtadhyayi gồm tám phần chính. Đây bộ sách tiếng Phạn nổi tiếng tổng kết các quan niệm ngữ pháp, được viết ra vào khoảng thế kỉ thứ V TCN. Bloomfield đã gọi tác phẩm của Panini là “một trong những cột mốc quan trọng và vĩ đại nhất của trí tuệ nhân loại. Tác phẩm của ông đã miêu tả một cách tỉ mỉ từng loại biến hình, từng hiện tượng phái sinh, cấu trúc các tổ hợp và cách dùng của loại cú pháp. Cho đến nay, vẫn chưa có nhà ngôn ngữ học nào có thể miêu tả ngữ pháp tỉ mỉ hơn ông” [36, tr. 73]. Panini có ảnh hưởng rất lớn đến chủ nghĩa cấu trúc trong ngôn 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2