Luận văn Thạc sĩ Triết học: Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của Nho gia tiên Tần
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, trên cơ sở phân tích một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần, luận văn chỉ ra những khía cạnh hữu dụng, có ý nghĩa của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần đối với quản lý kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của Nho gia tiên Tần
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------o0o------ NGUYỄN PHƯƠNG THẢO MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẾ CỦA NHO GIA TIÊN TẦN LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2008
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------o0o------ NGUYỄN PHƯƠNG THẢO MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG KINH TẾ CỦA NHO GIA TIÊN TẦN Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. Nguyễn Tài Thư HÀ NỘI - 2008
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 PHẦN NỘI DUNG 10 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHO GIA TIÊN TẦN TRONG VIỆC GIẢI 10 QUYẾT VẤN ĐỀ KINH TẾ 1.1. Nhân tính luận trong Nho gia Tiên Tần 11 1.2. “Ái nhân” - Tư tưởng quản lý xã hội mang tinh thần nhân đạo sâu 16 sắc 1.3. “Đạo chi dĩ đức” - Quan điểm về cơ chế điều hành quản lý của 21 Nho gia Tiên Tần 1.4. “An nhân” - Mục tiêu quản lý của Nho gia Tiên Tần 29 Chương 2: VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TƯ TƯỞNG KINH TẾ CỦA NHO 37 GIA TIÊN TẦN VỚI VIỆC QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI 2.1. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên 37 Tần 2.2. Những vấn đề đạo đức có tính định hướng cho hoạt động kinh tế 59 của Nho gia Tiên Tần và ý nghĩa của nó trong quản lý kinh tế hiện đại PHẦN KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nho gia là một hệ thống tư tưởng lớn, có vị trí quan trọng trong văn hoá truyền thống của Trung Quốc và các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam. Tuy phải trải qua nhiều thăm trầm nhưng về cơ bản, Nho gia đã chiếm vị trí thống trị trong xã hội phong kiến trước đây, là công cụ để giai cấp thống trị quản lý quốc gia. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta cũng không thể phủ định sự tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống tư tưởng này đối với mọi mặt của đời sống. Do đó, việc nhận thức, nghiên cứu và chọn lọc tiếp thu những tinh hoa tư tưởng để phục vụ cho con người, xã hội hiện đại là một vấn đề rất cần thiết và có tính chiến lược lâu dài. Về mặt lý luận, tư tưởng của Nho gia, đặc biệt là tư tưởng của Khổng Tử đã và đang được quan tâm nghiên cứu rất sôi nổi. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại này như: Nho gia và kết cấu nhân cách lý tưởng, Nho gia và hình tượng người trí thức, Nho gia và vấn đề tu dưỡng cá nhân, Nho gia và luân lý gia đình và Nho gia với quản lý hiện đại,... Mục đích của những nghiên cứu này là góp phần khai thác tinh hoa truyền thống, làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn và phát triển bền vững. Hiện nay nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho gia đã nghiên cứu kết hợp giữa tư tưởng kinh tế của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng với kinh tế hiện đại, nhằm tạo ra phương cách quản lý phù hợp với hoàn cảnh văn hoá, xã hội đặc thù của nước mình. Và Việt Nam hiện nay cũng đã bước đầu quan tâm, đề cập đến đề tài này ở một số góc độ, trong đó có góc độ kinh tế. Tư tưởng Nho gia Tiên Tần chứa đựng những lý luận kinh tế và nguyên tắc quản lý kinh tế rất có giá trị, mặc dù họ chỉ xem kinh tế là một thuộc tính của tư tưởng chính trị - đạo đức, là điều kiện để đạt đến mục tiêu chính trị. Nhà Nho 1
- rất coi trọng đạo đức con người và xã hội. Tinh thần này ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng kinh tế của họ. Họ cho rằng tăng trưởng kinh tế ngoài biện pháp kinh tế còn phải cần đến các biện pháp khác như chính trị, đạo đức. Về mặt thực tiễn, sản xuất hàng hoá và cơ thế thị trường là động lực làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng đồng thời cũng có thể là nguyên nhân cho con người bị tha hoá, bị biến chất, chỉ biết quyền lợi ích kỷ của bản thân. Hơn một thập kỷ trở lại đây, trước những biến động hết sức phức tạp của đời sống xã hội, không chỉ ở nước ngoài, trong giới nghiên cứu Việt Nam đã có xu hướng đặt lại, nghiên cứu trở lại vấn đề Nho gia trên tinh thần phê phán nhằm gạn lọc, tiếp thu những nhân tố hợp lý, những giá trị chung của Nho gia. Trong thời đại hiện nay, kinh doanh không chỉ đơn thuần là hoạt động để sinh ra lợi nhuận mà còn để nâng cao đời sống cho con người cả về vật chất và tinh thần, hướng tới yếu tố văn hoá. Thực tế cho thấy chỉ có con đường phát triển nền kinh tế gắn liền với văn hoá, đạo đức mới đảm bảo sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm quan trọng của văn hoá, đạo đức ngày càng được khẳng định vững chắc hơn. Ngày nay, chính phủ các quốc gia trên thế giới đều ý thức được rằng chỉ có thể đạt được sự phát triển bền vững trên nền tảng một xã hội có văn hoá, đạo đức. Nếu muốn đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thì nhà kinh doanh không chỉ phải trang bị kiến thức, công nghệ mà còn cần trang bị một nền tảng văn hoá, đạo đức vững chắc cho chính mình. Đó chính là vấn đề xây dựng đạo đức trong kinh tế thị trường, mà tư tưởng Nho gia là một hướng được quan tâm. Vì vậy, lựa chọn đề tài “Một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của Nho gia tiên Tần”, tác giả hy vọng sẽ khai thác được những yếu tố tích cực của kho tàng tri thức Nho gia vô giá, từ đó giúp cho chúng ta có được một nguồn vốn 2
- nhân văn đa tầng, đa diện có ý nghĩa đối với quá trình phát triển, hoàn thiện các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam ngày nay, trong đó có lĩnh vực kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu Các đề tài về sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội hiện đại, sự kết hợp giữa tư tưởng Nho gia với các lĩnh vực trong thực tiễn cuộc sống đã được giới học thuật nghiên cứu, bàn luận rất sôi nổi trong một thời gian dài gần đây. Tư tưởng Nho gia với kinh tế hiện đại cũng là một trong số những vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm, chú ý. Ở Trung Quốc quê hương của Khổng Tử và Nho gia, vấn đề cũng đã được tích cực nghiên cứu với mục tiêu kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, trên cơ sở đó tìm ra phương hướng cho lý luận và phương thức quản lý kinh tế mang đặc sắc Trung Quốc. Cho tới nay, các học giả Trung Quốc đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu về tư tưởng Nho gia và kinh tế hiện đại có giá trị. Nho gia và sự phát triển kinh tế là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, chú ý đặc biệt là từ sau khi Nhật Bản, một nước có truyền thống Nho giáo, có sự phát triển thần kỳ về kinh tế và nhất là từ khi xuất hiện bốn con rồng kinh tế mới ở châu Á. Thực tế cho thấy Nhật Bản và bốn nước công nghiệp phát triển trên - vốn là những nước tôn sùng Nho gia trong quá khứ và hiện nay - có sự phát triển kinh tế nhanh chóng, trong khi các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á - phê phán Nho gia - lại có nền kinh tế phát triển chậm. Chính hiện tượng này đã dẫn đến hai quan điểm trái ngược nhau: * Quan điểm thứ nhất phủ nhận vai trò tích cực của Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. Phần nhiều các học giả của Việt Nam nghiêng theo quan điểm này. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho rằng Nho gia từ Khổng Tử trở đi ít bàn, ít quan tâm đến vấn đề kinh tế, đến lợi ích vật chất mà chỉ tập 3
- trung vào vấn đề chính trị, đạo đức. Trong "Nho giáo xưa và nay", tác giả Trần Đình Hượu cho rằng: "Những vấn đề kinh tế không được đặt ra theo góc độ kinh tế mà theo góc độ chính trị xã hội, được giải quyết không theo cách kinh tế mà theo cách đạo đức, hành chính. Nếu không làm được cho mọi người no ấm hơn thì cũng làm cho mọi người vui với cảnh nghèo khổ trong trật tự phận vị" [18, 100]. Giáo sư Hoàng Việt cũng có tư tưởng tương tự, ông cho Nho gia không thể đóng vai trò gì trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam [18, 206 - 216]. Tác giả Tương Lai, trong bài viết "Đạo đức và vấn đề thực hiện ba lợi ích", tạp chí Văn hoá Nghệ thuật số 5, 1982 nói rằng: "Nho giáo đối lập đạo đức với lợi ích, đặc biệt là lợi ích vật chất". Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng: "Nho giáo với tính chất giáo điều duy tâm và bảo thủ như trên, vốn là sản phẩm của trì trệ đất nước, lại trở thành nhân tố củng cố thêm sự trì trệ ấy. Tóm lại, nó cùng với chế độ quan liêu và nền kinh tế xã hội Việt Nam tạo nên cái kiềng ba chân của tình trạng lạc hậu lâu dài trên đất nước Việt Nam" [18, 336]. Giáo sư Trần Văn Giàu, trong bài viết "Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam", Tạp chí Triết học số 1, 1987 cho rằng Nho gia cản trở tiến trình hiện đại hoá. Có tác giả cho rằng Nho gia về cơ bản mâu thuẫn với văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam và chữ Hán, Nho gia không thuộc truyền thống dân tộc. Tác giả Hà Thúc Minh thì khẳng định: "Không thể cho Nho giáo là động lực phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay được" và "đối với các nước đang trong tình trạng kinh tế chậm phát triển, thực ra không cần kỳ vọng gì vào động lực Nho giáo" [28, 24]. Ông cho rằng Nho gia vào thời kỳ của nó cũng chưa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, thì ngày nay, đối với nền kinh tế thị trường thì càng khó có thể coi Nho gia là một động lực phát triển 4
- kinh tế. Nho gia đối lập đạo đức với kinh tế "Vi nhân bất phú, vi phú bất nhân", Nho gia đã cho rằng có cái nọ thì không có cái kia. Như vậy, nhìn chung các học giả của Việt Nam phủ nhận vai trò tích cực của Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. * Quan điểm thứ hai: Một số nhà nghiên cứu thế giới thì lại có quan điểm khác. Nhà Đông phương học người Pháp, L.Vandermensch cho rằng Nho gia đã làm cho kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc phát triển nhanh, còn Việt Nam sở dĩ kinh tế phát triển chậm vì Nho gia ở Việt Nam không phát triển bằng hai nước trên [18, 84]. Một giáo sư trường Đại học Kim Sơn, Hàn Quốc, ông Kim Nhật Tân nói: "Nho giáo là nền văn hoá quan trọng nhằm thúc đẩy kinh tế các nước Đông Á phát triển" [18, 303]. Một giáo sư Viện Dân tộc Trung ương của Đài Loan, ông Ngưu Kim Chung, cho rằng: "Nho giáo ít nhất không gây trở ngại cho việc hiện đại hoá và thậm chí nó còn có tác dụng tích cực" [18, 304]. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Michi Morishima, trong cuốn "Chủ nghĩa tư bản và Nho giáo", cho rằng Nho gia nằm trong di sản văn hoá, nếu khinh rẻ nó thì sẽ không có sự phát triển [18, 300]. Song nhiều người cho rằng Nho gia không phải là động lực trực tiếp đối với kinh tế, nhưng theo họ, nó tác động một cách gián tiếp đến sự phát triển kinh tế thông qua con người. Điều đó thể hiện ở chỗ nó góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của con người, nó góp phần xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Nho gia không đề cao chủ nghĩa cá nhân mà đề cao tính cộng đồng, Nho gia không đề cao cuộc sống hưởng thụ mà đề cao tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cống hiến (Nghĩa) cho xã hội, chứ không phải ý thức đòi hỏi hưởng thụ (Lợi). Thực tế phát triển kinh tế của Nhật Bản và bốn con rồng châu Á, hoặc nhiều, hoặc ít đã chứng minh điều đó, và cho thấy đặc 5
- điểm của hoạt động kinh tế theo kiểu phương Đông là kết hợp kinh tế thị trường với đạo đức Nho gia. Tóm lại, hai quan điểm trên mâu thuẫn với nhau và mỗi loại đều có lý riêng của nó. Tuy nhiên hai khuynh hướng tư tưởng này có điểm chung là chưa được trình bày một cách có hệ thống và có luận điểm còn khiên cưỡng. Tất cả đều đang đòi hỏi được phân tích sâu và hệ thống lại có cơ sở hơn. Ở Việt Nam, mặc dù vấn đề Nho gia vẫn rất được quan tâm nhưng đề tài Nho gia với phát triển kinh tế còn khá mới mẻ và chưa được đi sâu nghiên cứu nhiều. Hiện mới chỉ có một số tác phẩm dịch có liên quan đến đề tài như cuốn: “Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại” của tác giả Trung Quốc Phan Nải Việt, “Đạo của quản lý” của tác giả Trung Quốc Lê Hồng Lôi,... Những tác phẩm này tuy có đề cập đến tư tưởng Khổng Tử và quản lý kinh tế hiện đại nhưng chưa được đầy đủ và còn thiếu tính hệ thống. Trong luận văn này, người viết sẽ đi sâu phân tích các quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần, trên cơ sở đó vận dụng vào lĩnh vực quản lý kinh tế ở Việt Nam, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Mặc dù đây mới chỉ là những nghiên cứu hoàn toàn trên phương diện nhận thức, nhưng người viết hy vọng luận văn của mình sẽ là đóng góp có ý nghĩa cho những nghiên cứu về khoa học kinh tế của chúng ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích nghiên cứu: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, trên cơ sở phân tích một số vấn đề đạo đức trong kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần, luận văn chỉ ra những khía cạnh hữu dụng, có ý nghĩa của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần đối với quản lý kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ các vấn đề chủ yếu sau: 6
- - Cơ sở lý luận của Nho gia Tiên Tần trong giải quyết vấn đề kinh tế. - Các quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần và vai trò của chúng trong quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Triết học Mác - Lênin về xã hội và con người. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Triết học Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp liên ngành khoa học xã hội. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu : một số quan niệm đạo đức trong tư tưởng kinh tế của Nho gia Tiên Tần có ý nghĩa đối với sự vận hành kinh tế hiện đại. Phạm vi nghiên cứu : - Tài liệu nghiên cứu về các nhà Nho Tiên Tần, trong đó chủ yếu là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử. - Tài liệu gốc có liên quan như sách Tứ thư, sách Tuân Tử. - Luận văn chủ yếu tập trung khai thác một số phương diện đạo đức tích cực, phù hợp với thời đại và có giá trị của tư tưởng kinh tế Nho gia Tiên Tần, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn khẳng định và làm rõ một số phương diện đạo đức có giá trị trong tư tưởng kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần đối với quản lý kinh tế hiện đại. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về quản lý kinh tế và sự chuyển biến mới của Nho gia trong xã hội hiện đại. 7
- 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. 8
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NHO GIA TIÊN TẦN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KINH TẾ Tư tưởng quản lý xã hội của Nho gia ra đời từ rất sớm và theo các nhà Nho, tư tưởng ấy có vai trò quan trọng và hiển hiện trong việc quản lý quốc gia, xã hội cổ đại. Trong tư tưởng quản lý của mỗi nhà Nho tuy có những điểm khác nhau, song đều mang đậm màu sắc nhân văn, đó là những lý luận quản lý mang tính chất phổ quát với đặc điểm xuyên suốt là “dĩ nhân vi bản” – lấy con người làm gốc. Ở Nho gia, vấn đề kinh tế vẫn chưa tách khỏi chính trị - đạo đức, nói cách khác, kinh tế chỉ được nhìn nhận trên cơ sở chính trị - đạo đức. Do vậy, các nhà Nho Tiên Tần quan niệm rằng, động lực chủ yếu, đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội là ý thức, tư tưởng chính trị - đạo đức. Các nhà Nho Tiên Tần xem kinh tế là một lĩnh vực của tư tưởng chính trị - đạo đức. Vì vậy, người viết sẽ đi sâu phân tích các vấn đề mang tính lý luận trong tư tưởng chính trị - đạo đức của các nhà Nho Tiên Tần làm cơ sở cho tư tưởng kinh tế của họ. Bên cạnh đó, người viết cũng chú ý đến các quan điểm, phương pháp quản lý cụ thể rất đa dạng và rất có giá trị với quản lý kinh tế hiện đại. Trước tiên, xét nền tảng nhân tính luận trong tư tưởng của Khổng Tử. Trong nhân tính luận, ông cho rằng, tính của con người vốn lành, ngây thơ, mộc mạc nhưng không phải là nhất thành bất biến mà có thể thay đổi, uốn nắn được và khuynh hướng của nó là hướng về tính thiện và con người thông qua giáo dục, tu dưỡng để đạt được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đề ra tư tưởng chung cho quản lý xã hội với tinh thần nhân đạo 9
- sâu sắc “nhân giả ái nhân” - nhấn mạnh ý nghĩa của tình cảm yêu thương, tôn trọng lẫn nhau giữa con người với con người. Về cơ chế quản lý, Khổng Tử đề ra “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ” với mong muốn khuyến khích, khiến cho con người có thể tự giác tuân thủ theo các quy định, nguyên tắc quản lý và chủ động, tích cực trong công việc. Khổng Tử còn đưa ra mục tiêu quản lý của mình, đó là “an nhân”. Mục tiêu quản lý này đóng vai trò là một loại mục tiêu quản lý trừu tượng, có tính phổ biến và tinh thần của nó phù hợp với hoạt động quản lý của các thời đại khác nhau và trong các xã hội khác nhau. Đây là những điểm nổi bật nhất trong lý luận quản lý “dĩ nhân vi bản” của Khổng Tử và đó chính là cơ sở để giải quyết những vấn đề kinh tế của Nho gia Tiên Tần. 1.1. Nhân tính luận trong Nho gia Tiên Tần Lịch sử của hoạt động quản lý cũng lâu đời như nền văn minh của nhân loại, mọi hoạt động của con người đều cần có sự quản lý. Quản lý suy cho cùng đều là quản lý con người. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của hoạt động quản lý. Vì vậy, trong thực tiễn quản lý lâu dài của mình, loài người đã nhận ra rằng: việc nghiên cứu con người, nhận thức con người là một điều rất quan trọng để thực hiện mục tiêu quản lý, tiến hành quản lý, khiến cho những người bị quản lý tự giác tuân thủ các quy định, phát huy tính chủ động và năng động của mình. Những điều này đều có liên hệ rất mật thiết với góc độ chính xác và sâu sắc của nhận thức nhân tính. Các nhà tư tưởng đã phải tốn rất nhiều tâm sức vào việc nhận thức con người, tìm hiểu về nhân tính và cũng đã đưa ra nhiều học thuyết về vấn đề này. Mặt khác, nhân tính cũng là tiền đề tất yếu của lý luận quản lý. Trên thực tế, bất kỳ lý luận nào cũng lấy một nhân tính luận nhất định làm tiền đề cơ bản của mình. Các nhà tư tưởng Trung Quốc từ rất sớm đã đi sâu tìm hiểu và có được một hệ thống quan niệm khá hoàn chỉnh về con người, về nhân tính và mối quan hệ giữa con người và phương pháp quản lý con người. Trong số đó 10
- không thể không nói đến tư tưởng Khổng Tử và những lý thuyết về nhân tính đa dạng của Nho gia. Quan niệm nhân tính mà Khổng Tử đưa ra là tính của con người có thể đào luyện, uốn nắn được. Xuất phát từ đó, các nhà Nho đã đưa ra nhiều lý luận nhân tính khác như: “Tính thiện luận” của Mạnh Tử, “Tính ác luận” của Tuân Tử, “Tính không thiện không ác luận” của Cáo Tử và “Tính có thiện có ác luận” của Thế Thạc,... Với các đặc điểm riêng cơ bản của tư tưởng Nho gia Tiên Tần, những lý luận này đã đề cập tới vấn đề nhân tính từ góc độ khác nhau. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu con người và nhân tính luận của các nhà Nho Tiên Tần có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định chính xác tư tưởng kinh tế của họ. Nhân tính là sự thống nhất giữa tính tự nhiên, tính xã hội và tính tinh thần. Bản chất của con người người bao hàm trong tính xã hội của con người còn tính tự nhiên cũng là “tự nhiên” đã bị xã hội hoá. Có thể thấy, nhân tính khiến con người thoát khỏi tự nhiên, là thuộc tính đặc hữu của loài người, do vậy, con người là quý giá nhất, linh thiêng nhất trong vũ trụ. Người ta đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về con người, ví dụ: “Con người là động vật lý tính”, “con người là động vật chính trị”, “con người là động vật tôn giáo”, “con người là động vật văn hoá”, “con người là động vật kinh tế”,... nhưng nhận thức của loài người về bản thân vẫn còn mông lung, nhận thức về nhân tính vẫn còn ở những biểu hiện bề ngoài, chưa thật sự đi sâu vào bản chất bên trong của nó. Con người là tồn tại xã hội phức tạp, nhân tính cũng là một vấn đề vô cùng phức tạp. Nhận thức về con người và nhân tính có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và các nhà tư tưởng từ trước đến nay vẫn không ngừng theo đuổi, nghiên cứu về nó. Trong tác phẩm “C. Mác, Ăngghen toàn tập”, tập 3, trang 11, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 1995, Các Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận điểm của 11
- Mác đã tiến thêm một bước đi sâu vào bản chất con người, đồng thời chỉ ra một phương hướng đúng đắn cho những nghiên cứu sau này. Học thuyết của Nho gia Tiên Tần, tiêu biểu là học thuyết của Khổng Tử có bao hàm tư tưởng kinh tế rất phong phú. chúng còn có giá trị rất lớn trong thời kỳ hiện đại của Trung Quốc. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng rất lớn đến các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapo và Việt Nam. Tư tưởng kinh tế Khổng Tử mang màu sắc nhân bản rõ nét, nó xuất phát từ việc coi trọng con người, lấy nhân tính thiện làm nền tảng, lấy trật tự đạo đức làm hạt nhân, lấy an dân, phú dân làm mục tiêu quản lý, từ đó xây dựng nên mô thức quản lý đầy nhân tính. Việc nghiên cứu những tư tưởng của Nho gia Tiên Tần về con người và nhân tính trong quản lý thật sự có ý nghĩa đối với vấn đề kinh tế hiện nay. Khổng Tử rất coi trọng vị trí và tác dụng của con người trong xã hội. Trước tiên, ông luôn khẳng định giá trị của con người, thừa nhận nhân cách độc lập của con người. Trong “Hiếu kinh - Chương Thánh trị” có dẫn câu nói của Khổng Tử: “Thiên địa chi tính, nhân vi quý” (giữa các loài có tính trong trời đất, con người là quý nhất). Có thể nói, tư tưởng “quý nhân” của Khổng Tử trong câu nói này chính là quan niệm nền tảng của quan điểm kinh tế của Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần. Khổng Tử luôn nhấn mạnh giá trị của con người. Con người quý hơn đạo, “Tử viết: Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” (Khổng Tử nói: Người phát huy được đạo, chứ đạo không phát huy được người) [30, 487]; con người quý hơn quỷ thần: “Tử viết: Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ” ( Khổng Tử nói: “Chưa biết thờ người, làm sao có thể thờ quỷ” [30, 393]; Trong sách Lễ ký - Lễ vận viết con người quý hơn cả trời đất: “Cố nhân giả, thiên địa chi tâm dã, ngũ hành chi đoan đã, thực vị, biệt thanh, bị sắc nhi sinh giả dã” (Con người là tâm của trời đất, đầu mối sinh ra ngũ hành, sinh ra biết 12
- phân biệt mùi vị, âm thanh, màu sắc”. Tóm lại, theo Khổng Tử, con người là quý giá nhất trên thế giới này, là linh hồn của vạn vật trong vũ trụ. Thái độ khẳng định, đề cao giá trị con người này của Khổng Tử có ý nghĩa trong mọi thời đại, đặc biệt là đối với xã hội bấy giờ. Bởi khi đó vẫn còn tồn tại phổ biến những tư tưởng coi thường con người, coi thường giá trị của con người. Người cai trị có thể sai khiến, đánh đập, thậm chí giết hại dân, đối xử với dân như súc vật. Quản Tử từng chủ trương: “Người cai trị như nước, nuôi dưỡng con người như nuôi dưỡng lục súc, dùng người như dùng cây cỏ” (Quản Tử - Thất pháp). Khổng Tử còn thừa nhận, mỗi con người đều có ý chí độc lập của riêng mình, và ý chí, nhân cách của con người cần phải được tôn trọng, không thể bị làm tổn thương hoặc chà đạp. Về vấn đề nhân tính, Khổng Tử đã đề xuất ra chủ trương tính con người có thể xây dựng, rèn luyện và uốn nắn được. Đây chính là đặc điểm lớn nhất trong nhân tính luận của Khổng Tử và các nhà Nho Tiên Tần khác. Khổng Tử nói: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” [30, 514]. Ý của câu này là: Thiên tính (bản tính trời cho) của con người vốn là gần gũi với nhau, không có sự phân biệt gì lớn lắm, nhưng khi trải qua những hoàn cảnh, tập nhiễm sau này, giữa con người với con người sẽ dần dần kéo dài khoảng cách, không còn giữ nguyên như trước nữa. Ở đây, Khổng Tử chưa đề cập đến nhân tính của con người rốt cuộc là thiện hay ác. Ông chỉ khẳng định nhân tính có thể cải biến được. Bản tính con người được trời trao cho, khi mới sinh ra hoàn toàn không có hình thái cố định và có thể được xây dựng, rèn luyện, biến đổi bởi hoàn cảnh sau này. Hoàn cảnh khác nhau thì trạng thái tính cách cũng khác (hoặc là ác hoặc là thiện). Đối với Khổng Tử mà nói, đương nhiên ông mong muốn nhân tính sau khi tập nhiễm là tính thiện, đây cũng chính là căn cứ lập luận và mục đích cơ bản của “nhân học” của ông. Lý luận nhân tính với khuynh hướng thiện của Khổng Tử đã trở thành nền tảng chung trong các nhân tính luận của phái Nho gia. Trên cơ sở đó, các 13
- nhà Nho Tiên Tần sau này đã đưa ra những nhân tính luận khác nhau, tiêu biểu là “Tính thiện luận” của Mạnh Tử, “Tính ác luận” của Tuân Tử. Mạnh Tử chủ trương “Luận tính thiện”, cho rằng thiên tính mà con người được ban cho là lương thiện. Con người sinh ra đã có lòng trắc ẩn (thương xót), tu ố (biết hổ thẹn), từ nhượng (từ chối không tiếp nhận) và thị phi (biết phân biệt phải trái); khi đem mở rộng và phát triển chúng thì chúng sẽ trở thành những bản tính lương thiện: nhân, nghĩa, lễ, trí. Do đó, theo Mạnh Tử, con đường tạo dựng xây đắp nhân tính, dẫn dắt con người làm điều thiện là ở chỗ “tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính” (Bảo tồn lương tâm mình, nuôi dưỡng bản tính của mình) [30, 755]. Nổi bật lên ở đây là chữ “dưỡng”. Tồn tâm dưỡng tính trước tiên phải bắt đầu từ người quản lý và nó cũng có quan hệ rất lớn với người bị quản lý. Mạnh Tử chỉ ra: “Dĩ thiện phục nhân giả, vị hữu năng phục nhân giả dã. Dĩ thiện dưỡng nhân, nhiên hậu năng thiên hạ. Thiên hạ bất tâm phục nhi vượng giả, vị chi hữu dã” (Người quản lý dựa vào điều thiện để khiến cho mọi người phải phục tùng thì chưa đủ, còn cần phải dựa vào điều thiện đó để giáo dục, bồi dưỡng họ, sau đó mới có thể làm cho họ phục tùng. Việc mọi người không tin phục người quản lý thì không thể tạo ra được sự thịnh vượng) [30, 719], ý muốn đem cái thiện của nhân, nghĩa, lễ, trí để đào luyện giáo dưỡng con người, như thế mới có thể làm cho người trong thiên hạ thực sự quy phục. Vì vậy, “tồn tâm dưỡng tính” cho đến “dưỡng nhân vi thiện” là con đường duy nhất để quản lý quốc gia. Tuân Tử thì chủ trương “Tính ác luận”, cho rằng con người sinh ra vốn đã có bản tính “cơ nhi dục bão, hàn nhi dục noãn, lao nhi dục tức, hiếu lợi nhi ố hại” (Đói thì muốn ăn no, rét thì muốn ấm, mệt thì muốn nghỉ, thích lợi mà ghét hại), nếu thuận theo tự nhiên, không tiến hành hạn chế thì sẽ dẫn đến loạn. Vì vậy, con đường nhào nặn xây dựng nhân tính, dẫn dắt nhân dân làm điều thiện chính là ở “hoá tính khởi nguỵ”, ở đây nổi bật là chữ “hoá”. Nội dung của “hoá tính” ở đây bao gồm phương thức cử chỉ và phong tục tập 14
- quán. Trong hoàn cảnh nhất định và tập quán hành vi nhất định, qua sự góp nhặt, rèn luyện lâu ngày thì bản tính của con người có thể dần được cải biến. Người quản lý hiểu đạo lý “hoá tính” nói trên thì cần đảm nhiệm trách nhiệm giáo hoá lễ nghĩa, xây dựng nhân cách một cách tự giác. Tính người vốn là ác, nhưng thông qua giáo hoá lễ nghĩa của người quản lý thì có thể tiến hành những hạn chế cần thiết đối với tính, dẫn dắt tính theo cái thiện. Tuy có mang dấu ấn của chế độ đẳng cấp phong kiến; nhưng việc Tuân Tử coi sự bồi dưỡng tạo dựng con người làm nhân tố quan trọng của sự phát triển xã hội là rất có ý nghĩa. Nhân tính luận mà Khổng Tử đề xướng không chỉ chi phối tư tưởng của các học giả thuộc phái Nho gia là Mạnh Tử và Tuân Tử mà cũng còn ảnh hưởng đến các tư tưởng nhân tính của các biệt phái Nho gia khác. Ví dụ “Luận tính vô thiện vô bất thiện” của Cáo Tử, “Luận tính hữu thiện hữu ác” của Thế Thạc,... Trong tư tưởng của các nhà Nho Tiên Tần, vấn đề nhân tính không chỉ là tiền đề tất yếu của quan điểm kinh tế, mà hơn nữa là trọng tâm, hạt nhân của toàn bộ hoạt động kinh tế. Mặc dù luận nhân tính chưa trực tiếp khẳng định bản tính thiện của nhân tính, nhưng Khổng Tử luôn đề cao việc học tập, tu dưỡng, cải tạo nhân tính để hướng tới nhân tính thiện. Định hướng đó đã quy định phương pháp giáo dục, tu dưỡng đối với con người và đồng thời cũng quy định các tư tưởng kinh tế của các nhà Nho Tiên Tần. 1.2. “Ái nhân” - Tư tưởng quản lý xã hội mang tinh thần nhân đạo sâu sắc “Ái nhân”, theo Nho gia Tiên Tần là mục đích, ước vọng cao nhất của con người và trong quan hệ giữa con người với con người. Tình cảm yêu thương, tương thân tương ái là tiền đề của hài hoà, đoàn kết, hợp tác và cũng là tiền đề của sự hoà hợp xã hội, sự hoà hợp giữa các thành viên trong cộng đồng. Nếu con người mất đi lòng nhân ái, nhân tính trở nên tà ác, thì xã hội sẽ 15
- đầy rẫy tội lỗi và bạo lực. Tình thương yêu giữa con người với con người là một tiêu chí của xã hội văn minh, là điều kiện quan trọng không thể thiếu để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, khi xét đến động lực bên trong của quản lý, trước tiên cần phải đề cập đến tư tưởng “nhân giả ái nhân” của Nho gia Tiên Tần. Trong toàn bộ học thuyết của Khổng Tử, chữ “nhân” chính là tư tưởng hạt nhân, đồng thời đó cũng chính là sợi dây xuyên suốt lý luận quản lý của ông, “nhân” là đối tượng trong quản lý. Theo Nho gia, bản chất của quản lý là “trị nhân” (trị người), tiền đề của quản lý là “nhân tính”. Tóm lại, tất cả đều không thể xa rời “nhân”. Trong sách “Luận ngữ” của Khổng Tử, chữ “nhân” được xuất hiện hơn 109 lần. “Thuyết văn” giải thích chữ “nhân” như sau: “Nhân, thân dã, tòng nhân tòng nhị”- kết cấu chữ “nhân” bao gồm chữ “nhân” là người và chữ “nhị” là hai, ý nghĩa chỉ mối quan hệ giữa hai con người, giữa con người với con người, thể hiện là: thừa nhận cả ta và người đều là hai con người như nhau, hai con người có nhân cách độc lập, thể hiện quan hệ giữa con người với con người. Con người là sinh vật xã hội hoá, không phải là những cá thể sống đơn độc mà luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại, liên hệ lẫn nhau. Vì vậy, quan hệ xã hội giữa con người với con người là mối quan hệ cơ bản nhất của con người, của xã hội. Không có sự quan hệ qua lại, hợp tác giữa con người với con người thì sẽ không có xã hội, quy luật xã hội, Khổng Tử đã sớm thấy được tầm quan trọng của các mối quan hệ này. Vì vậy ông đặt trọng tâm nghiên cứu của mình vào “con người”, mối quan hệ giữa họ và đưa ra khái niệm “nhân”, tạo ra nền tảng tinh thần cho toàn bộ nền văn hoá Trung Hoa. Nội hàm của “nhân” vô cùng phong phú, nhưng cơ bản nhất là “ái nhân”. Như học trò Phàn Trì hỏi Khổng Tử “nhân” là gì, Khổng Tử đã trả lời: “Ái nhân” [30, 418]. Ái nhân theo Khổng Tử, ông yêu cầu giữa con người với 16
- người phải yêu thương nhau, tôn trọng nhau. Tư tưởng ái nhân này của Khổng Tử trước tiên được thể hiện ở sự khẳng định giá trị con người trong xã hội. Trong “thiên Hương đảng, sách Luận ngữ” có ghi câu chuyện như sau: Một hôm chuồng ngựa nhà Khổng Tử bị cháy, Khổng Tử mãn chầu trở về, biết tin này liền vội vàng hỏi: “Người giữ ngựa có bị thương không?” chứ không hỏi đến ngựa. Trong xã hội lúc bấy giờ, những người nô lệ không có được các quyền của một con người, lại càng không được tôn trọng như một con người. Họ bị coi như loài vật, bị sai bảo, đem buôn bán, biếu tặng, thậm chí là giết hại. Giá trị của một nô lệ không bằng giá trị của một con ngựa. Nhưng ở đây, khi chuồng ngựa bị cháy, Khổng Tử quan tâm hỏi đến trước tiên là người giữ ngựa chứ không phải là ngựa. Điều này chứng tỏ, ông đặc biệt coi trọng con người. Khổng Tử còn kịch liệt lên án và phản đối chế độ tuẫn tàng người, cho đó là hành động bất nhân, vô nhân đạo. Trong “chương Lương Huệ Vương thượng, sách Mạnh Tử” có viết: Khổng Tử trách mắng kẻ dùng hình người để chôn theo người chết sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn. Tóm lại, ý nghĩa căn bản đầu tiên trong tư tưởng “nhân giả ái nhân” là khẳng định giá trị của con người. Trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, tư tưởng này của Khổng Tử có lẽ khó được tiếp nhận, nhưng nó thật sự có ý nghĩa tiến bộ và có giá trị cho đến tận ngày nay. Mặt khác, Khổng Tử cho rằng, “ái nhân” phải được bắt đầu từ trong gia đình, gia tộc, từ việc hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng, thương yêu anh em. Trong “thiên Học nhi, sách Luận ngữ” có viết: Khổng Tử nói với học trò Hữu Nhược: “Hiếu đễ dã giả, kỳ vị nhân chi bản dã” - hiếu đễ chính là gốc của “nhân”. Vì vậy, Khổng Tử rất chú trọng giáo dục đức “hiếu” cho các học trò của mình. Trong “Luận ngữ” có ghi lại rất nhiều lời dạy bảo của Khổng Tử về đức hiếu đễ, chẳng hạn như: “Khi phụng dưỡng cha mẹ, nếu cha mẹ sai thì khuyên can nhẹ nhàng, thấy ý cha mẹ không theo thì vẫn phải kính trọng mà không được làm trái nghịch, chịu khó nhọc mà không oán giận” [30, 273] 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 480 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 7 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 6 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 7 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 87 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn