intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn Thạch Lam - Truyện ngắn Pauxtốpxki - Sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

365
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học "Truyện ngắn Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki - Sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật" bao gồm những nội dung về Thạch Lam – Pauxtốpxki - con người và quan niệm nghệ thuật, nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki, nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn Thạch Lam - Truyện ngắn Pauxtốpxki - Sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thắm TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM – TRUYỆN NGẮN PAUXTỐPXKI: SỰ GẶP GỠ CỦA PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị Phương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành bản luận văn này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Nam Phong, người đã dịch và cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, phòng Quản lí sau đại học – trường Sư phạm TP. HCM, Ban giám hiệu nhà trường – trường Dự bị đại học TP. HCM, tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học. TP. HCM, ngày 02 tháng 12 năm 2010 Trần Thị Thắm
  3. DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Quá trình toàn cầu hóa diễn ra từ cuối thế kỉ XX, đồng đều ở mọi lĩnh vực, hầu như đã xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nước, làm cho các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Trong bối cảnh ấy, văn học so sánh ra đời nhằm khám phá mối liên hệ văn học giữa các quốc gia, bổ sung quan trọng cho hướng nghiên cứu văn học dân tộc biệt lập từ trước đến nay. Quả thật, ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc trên thế giới là khác nhau, nhưng tư duy, tình cảm, tâm lí, thẩm mĩ lại có nhiều điểm tương đồng. Nghiên cứu văn học Việt Nam trong mối tương quan với văn học thế giới giúp chúng ta ý thức về vị thế, thân phận, tư cách của văn học dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó còn là con đường khám phá bản sắc dân tộc. Một điều không thể phủ nhận là mặc dù cách xa nhau hơn “nửa vòng trái đất” nhưng Việt – Nga có quan hệ “thâm tình”, gắn bó. Văn hóa của hai nước phương Đông – phương Tây này có nhiều điểm tương đồng. Hơn nữa, cả hai dân tộc đều có số phận lịch sử thật lắm thăng trầm: từng chịu nhiều khổ đau, mất mát, từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và cũng từng lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, ghi dấu son chói lọi trong trang sử hào hùng của mỗi dân tộc. Vì thế mà mặc dù đến Việt Nam muộn hơn văn học Trung Quốc và văn học Pháp, song văn học Nga vừa gặp đã trở nên gắn bó, thân quen. Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam đóng góp ở nhiều thể loại. Mặc dù ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, với một số lượng tác phẩm chưa đạt đến mức “đồ sộ”, nhưng nhà văn đã sớm xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi có tầm vóc, một người viết truyện ngắn xuất sắc, không thể thay thế. Nhìn sang văn học Nga, ta thấy có sự “hội ngộ bất ngờ” giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki trong địa hạt văn xuôi trữ tình, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nổi tiếng với những truyện ngắn “không có chuyện”. Tác phẩm của Pauxtốpxki được đón nhận một cách nồng nhiệt ở Việt Nam. Bình minh mưa và Bông hồng vàng trở thành tập sách gối đầu giường của độc giả yêu văn học, nhất là giới trẻ. Truyện ngắn của ông đã đi vào thơ của nhiều cây bút người Việt, những tâm
  4. hồn đã tìm thấy ở đây sự đồng cảm, chia sẻ, những rung động mãnh liệt, chẳng hạn Bằng Việt, Thúy Toàn, Phạm Ngọc Lan… Với bản thân người viết, những trang sách của Pauxtốpxki luôn là “áng mây ngũ sắc ngủ trong đầu” 1, là người bạn trong hành trình tuổi trẻ và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ viết về tình yêu và cuộc sống. Trong cuộc sống xô bồ, nhộn nhịp hôm nay, những truyện ngắn của Thạch Lam – Pauxtốpxki vẫn luôn là những món ăn tinh thần quý giá, là bến nước trong êm ả, an lành cho tâm hồn mỗi chúng ta tìm về neo đậu. Đặt truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki bên cạnh nhau trong thế đối sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về hai tác giả, đồng thời vẻ đẹp văn hóa của mỗi dân tộc cũng được phát hiện, tôn tạo thêm. Trên đây là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn “Truyện ngắn Thạch Lam – truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ của phong cách nghệ thuật” làm đề tài nghiên cứu cho bản luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề Thạch Lam và Pauxtốpxki lâu nay đã chiếm lĩnh được nhiều tình cảm của độc giả Việt Nam. Từ những năm 30 trở đi, xuất hiện với 3 tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Thạch Lam được coi như một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ thập niên 50, qua các bản dịch của Vũ Minh Thiều, Bửu Kế, Cẩm Tâm, Kim Ân, Mộng Quỳnh, Phan Hồng Giang…, bạn đọc Việt Nam biết đến Pauxtốpxki như một tài năng đoản thiên tự sự, làm không ít người bất giác liên tưởng đến Thạch Lam. Một thực tế rằng ở Việt Nam, từ trước 1945 đến nay, các công trình, bài nghiên cứu về Thạch Lam khá đồ sộ. Khoảng mười năm trở lại đây, có nhiều công trình có quy mô, tầm cỡ nghiên cứu về đặc trưng truyện ngắn của Thạch Lam. Truyện ngắn của ông đã được khám phá từ mọi giác độ, mọi bình diện: tư tưởng, quan điểm của tác giả, nội dung phản ánh, nghệ thuật thể hiện, phong cách văn xuôi nghệ thuật… Số lượng công trình, bài viết về Pauxtốpxki, so với Thạch Lam, “mỏng” hơn nhiều. Những vấn đề liên quan đến đặc trưng phong cách nghệ thuật Pauxtôpxki không phải là quá mới mẻ, ở những bài giới thiệu khái quát, hầu hết các dịch giả trên đều đề cập đến. Riêng việc nghiên cứu truyện ngắn Thạch 1 Thơ Bằng Việt
  5. Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn Pauxtốpxki thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng tôi xem vấn đề này là một mảnh đất trống đầy hấp lực và thách thức trong việc tìm hiểu, khám phá nó. Vì tránh sự trùng lặp không cần thiết với công việc nhiều nhà nghiên cứu đã làm, ở đây chúng tôi xin phép không bàn đến những công trình nghiên cứu về truyện ngắn ở mỗi tác giả (Thạch Lam hoặc Pauxtốpxki) mà chỉ quan tâm đến các tài liệu trực tiếp đề cập đến đề tài. Phan Hồng Giang, một trong những dịch giả có đóng góp rất lớn với việc đưa tác phẩm của Pauxtốpxki đến với người đọc Việt Nam, trong bản dịch của tập tiểu luận Một mình với mùa thu, đã có những nhận xét rất xác đáng về Pauxtốpxki: “Có thể coi là một tấm gương cùng soi chung của tâm hồn hai dân tộc Nga – Việt. Ông đã là biểu hiện cụ thể cho cái đồng cảm, đồng điệu giữa tâm hồn hai dân tộc vốn có rất nhiều điểm chung trong số phận lịch sử hình thành và phát triển” (Chúng tôi nhấn mạnh) [64, tr. 325]. Bùi Việt Thắng trong cuốn Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại cho rằng: “Đọc văn Thạch Lam chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà sinh thành. Nhân vật của ông nhận biết hết thế giới xung quanh và giao hòa được với người khác cũng chủ yếu nhờ vào cảm giác. Đọc Thạch Lam ta nhớ tới A. Đôđê (Pháp), Pauxtốpxki (Nga), A. Môroa (Pháp) – những nhà văn có sức mạnh của trực giác trong văn” (Chúng tôi nhấn mạnh) [ 80, tr. 187]. Đó là những nhận xét mang tính mở đường, gợi dẫn mà chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trong bản luận văn. Tóm lại, chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu truyện ngắn Thạch Lam trong thế đối sánh với truyện ngắn của Pauxtốpxki. Tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi trước, vừa nỗ lực tìm kiếm một hướng khám phá mới, chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn Thạch Lam – Truyện ngắn Pauxtốpxki: sự gặp gỡ về phong cách nghệ thuật với hi vọng bổ sung vào phần khiếm khuyết, góp thêm một tiếng nói khiêm nhường trong việc nghiên cứu truyện ngắn của hai tác giả này, tuy chắc chắn không thể toàn diện. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu đã có, luận văn của chúng tôi nhằm tìm hiểu và xác lập những đặc trưng thẩm mĩ của kiểu truyện ngắn “không có truyện” ở Thạch Lam và Pauxtốpxki. Trên cơ sở đó, chúng tôi soi chiếu vào văn hóa của mỗi nước để thấy được đâu là “phần giao thoa” văn hóa giữa hai quốc gia, đâu là bản sắc dân tộc của mỗi nước.
  6. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki. Từ những hiện tượng văn học gần gũi nhau, chúng tôi xác định đặc trưng thẩm mĩ của loại truyện ngắn làm nên phong cách của hai nhà văn. Về Thạch Lam, chúng tôi tìm hiểu và khảo sát 33 truyện ngắn của ông. Về Pauxtốpxki, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu đã được dịch, chọn lọc trong các tập “Bông hồng vàng” và “Bình minh mưa”. Giữa các ấn phẩm của Thạch Lam và Pauxtốpxki, chúng tôi tin tưởng chọn hai cuốn: Thạch Lam – 33 truyện ngắn, Nxb. Văn học, 2009 và cuốn Pauxtốpxki , Bông hồng vàng và Bình minh mưa (dịch giả Kim Ân và Mộng Quỳnh dịch), Nxb Văn học, 2003 làm tư liệu khảo sát chính. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những nét đặc sắc trong phong cách truyện ngắn ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Luận văn cũng đặt ra một hướng đi mới mẻ trong việc tiếp cận truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki cũng như cung cấp một số kiến thức bổ ích về văn hóa của nước ta và nước bạn. Ý nghĩa thực tiễn: Thêm một tiếng nói khiêm nhường đưa truyện ngắn của hai nhà văn đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn Pauxtốpxki trong trường phổ thông và đại học. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: – Phương pháp so sánh: đặt truyện ngắn của Thạch Lam và Pauxtốpxki trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy mối quan hệ trực tiếp giữa hai tác giả, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh loại hình, lí giải các tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, chúng tôi đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với một số nhà văn xuất hiện cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học. – Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi tiết nghệ thuật, biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong truyện ngắn Thạch Lam và
  7. Pauxtốpxki, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích nghiên cứu. – Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm có 167 trang. Ngoài phần Dẫn nhập (8 trang), Kết luận (3 trang), Phụ lục (18 trang), Thư mục tham khảo (8 trang), phần nội dung chính của luận văn gồm 130 trang, được triển khai trong ba chương: Chương 1: Thạch Lam – Pauxtốpxki: con người và quan niệm nghệ thuật Ngoài phần giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp, những tác phẩm chính, chúng tôi trình bày sự gặp gỡ về quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtôpxki ở các phương diện: đối tượng của văn chương (cái đẹp), nghề văn, sứ mệnh nhà văn. Từ sự tương đồng về quan niệm nghệ thuật, họ đã có sự gặp gỡ ở hình thức thể loại, cụ thể là loại truyện ngắn trữ tình “phi cốt truyện”. Đây là tiền đề quan trọng của sự “giao thoa” về phong cách truyện ngắn đặc sắc giữa họ. Chương 2: Nội dung tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki Từ những tiền đề của chương trước, chương này nhằm cụ thể hóa những vấn đề về nội dung tác phẩm Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki Tiếp theo chương 2, chương này chỉ ra sự giống và khác nhau ở những đặc điểm về hình thức và kĩ thuật kiến tạo truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki.
  8. Chương 1: THẠCH LAM – PAUXTỐPXKI: CON NGƯỜI VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT 1.1. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Con người Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân. Ông sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức quê gốc ở Quảng Nam. Còn Kônxtantin Pauxtôpxki (1892 – 1968) sinh ra tại Mátxcơva, trong một gia đình gốc Côdắc miền Dapôrôgiê. Giữa hai nhà văn thuộc hai quốc gia, hai nền văn hóa khác nhau lại có những điểm gặp gỡ tình cờ trên những chặng đường đời. 1.1.1. Hoài niệm tuổi thơ Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng sinh trưởng trong gia đình yêu thích văn chương nghệ thuật. Cả hai trải qua những năm tháng tuổi thơ khá êm đềm bên những người thân yêu trong gia đình, nơi đã vun trồng nên nhân cách và tài năng cho họ. Thủa nhỏ, cậu bé Nguyễn Tường Vinh (tên thật của Thạch Lam), chịu ảnh hưởng tích cực từ hai người anh trai học giỏi, ngoan ngoãn (sau này là hai nhà văn nổi tiếng Nhất Linh, Hoàng Đạo). Khi lên bảy, Tường Vinh mất cha nên cậu bé lớn lên hầu như trong sự yêu thương, chăm lo của bà nội và mẹ. Hình ảnh người bà hiền từ, rất mực yêu thương con cháu và người mẹ đảm đang, tháo vát với nghề buôn gạo nuôi con đã chạm khắc vào trái tim nhà văn từ tấm bé. Còn Pauxtốpxki lại chịu ảnh hưởng nhiều từ người cha lãng mạn và vui tính, vốn là một người thích “xê dịch” và giàu mơ ước. Cụ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Sau khi làm việc ở Matxcơva, cụ xin đổi đi Vinnô, rồi Pơxcốp và cuối cùng mới định cư tương đối lâu dài ở Kiép. Nhà cậu bé Kôchia đông người, đủ mọi tính nết khác nhau nhưng đều là những người yêu nghệ thuật. Cậu lớn lên trong những tiếng hát, những bản dương cầm, các cuộc tranh luận về âm nhạc, hội họa, văn chương. Cả hai nhà văn đều thông minh, nhạy cảm, có bản lĩnh độc lập và sớm phát lộ tài năng bẩm sinh. Theo các tư liệu tiểu sử và hồi kí của những người thân trong dòng họ Nguyễn Tường, tuổi thơ của Thạch Lam gắn với Cẩm Giàng quê ngoại – một phố huyện nghèo đã in đậm bóng dáng trong những trang văn của ông. Khi lên sáu tuổi, Thạch Lam theo gia đình rời Hàng Bạc (Hà Nội) về đây. Cũng từ đó, phố thị đông vui, huyên náo và đầy
  9. ánh sáng chỉ còn là một nơi xa xăm trong miền kí ức đẹp đẽ mà tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm như Thạch Lam đôi lúc vẫn khao khát tìm về. Thủa nhỏ, “người em thứ sáu” vốn là một đứa trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát, dạn dĩ, “thông minh và lãng mạn nhất nhà” [3, tr. 342]. Cậu bé có đôi mắt sâu trên gương mặt khôi ngô ấy lại có một tâm hồn rất nhạy cảm, biết thương yêu, sẻ chia với những người nghèo khổ quanh mình. Ngoài ra cậu còn học rất giỏi, từng khai tăng tuổi để học Ban thành chung. Tuy còn nhỏ, Tường Vinh sớm có ý thức phụ giúp gia đình. Công việc trông coi cửa hàng tạp hóa (cùng người chị gái) ngày ấy đã để lại những kỉ niệm khó phai mờ trong kí ức của nhà văn Thạch Lam về sau. Các tư liệu viết về Pauxtốpxki cho biết thủa nhỏ, cậu là đứa trẻ bản lĩnh, hoạt bát. Khi đang học lớp 6, gia đình cậu bị khánh kiệt. Đó cũng là thời điểm mở đầu cho cuộc sống tự lập của Pauxtốpxki. Việc làm nghề gia sư để tiếp tục con đường học vấn dang dở đã chứng tỏ nghị lực và ý chí phi thường đang sục sôi trong trái tim non trẻ của cậu thiếu niên ham học hỏi này. Ngoài ra, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki cùng ước mơ về những chuyến đi xa, khát khao khám phá những chân trời mới mẻ. Ngoài thú vui “đi chơi chân không quanh quẩn chỗ mẹ và bà ngồi” [3, tr. 342] trong những đêm sáng trăng hay “đi chơi quanh quẩn nơi xóm chợ” [3, tr. 344], cậu bé Tường Vinh còn có một sở thích đặc biệt là “xem tàu hỏa, ngày nào cũng ra đợi ngắm chuyến tàu kéo gạo hai giờ trưa” [3, tr. 344]. Với tính bạo dạn và hiếu kì, cậu đã chui cả vào gầm toa, sờ tay vào những vành bánh sáng loáng mặc dù mọi người ở ngoài được một phen thót tim. Còn cậu bé Kôchia vốn là một đứa trẻ ưa khám phá. Cậu say mê bản đồ địa lí đến mức có thể ngồi hàng tiếng đồng hồ liền với chúng. Chính Pauxtốpxki từng bộc bạch:“Tôi nghiên cứu dòng chảy của những con sông chưa bao giờ biết tới, những bờ biển kì cục, đi sâu vào rừng Taiga, nơi những trạm không tên tuổi chuyên mua da, lông thú của những người đi săn được đánh dấu bằng những vòng tròn tí xíu, hoặc nhắc đi nhắc lại những tên đất kêu như những vần thơ: Quả cầu Iugor, quần đảo Ebriđơ, Guađagama và Invécnetxơ, Onhêga và Koócđie. Dần dần tất cả những vùng đất đó sống dậy trong trí tưởng tượng của tôi rõ rệt đến nỗi tôi tưởng có thể viết nổi những cuốn nhật kí hành trình bịa đặt qua các lục địa và các xứ sở khác nhau.” [65, tr. 81]. 1.1.2. Biến động cuộc đời
  10. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều là chứng nhân của một thời đại bão táp gắn với những sự kiện trọng đại của lịch sử, bao đổi thay lớn lao của dân tộc. Mà ta biết, mọi ba động của đời tất thảy đều vang lên khác lạ trong tâm hồn nhạy cảm của người trí thức, nhất là những trí thức nghệ sĩ như họ. Thạch Lam sinh ra và lớn lên trong tình cảnh “sự đã rồi” của đất nước. Sau khi tạm “bình định” Việt Nam về mặt quân sự, từ đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Xã hội Việt Nam mặc nhiên phải chấp nhận bao sự đổi thay, mà đổi thay lớn nhất là cuộc sống “buổi giao thời” dưới chế độ thực dân thuộc địa. Bao làng quê yên ả, thanh bình với cốt cách “dĩ nông vi dân” nay bỗng chốc “làng xoay ra phố”, dung nạp thêm lối sống thị thành. Tư tưởng, văn hóa phương Tây hiện đại ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Được đào tạo bài bản như một trí thức Tây học, nhưng trước sau Thạch Lam vẫn là “một người Việt Nam sâu xa, một người Việt Nam thành thực” [3, tr. 357]. Còn Pauxtốpxki đến với cuộc đời giữa lúc xã hội Nga đang trong bầu không khí sục sôi của đêm trước Cách mạng tháng Mười. Ông là người đã kinh qua hai cuộc Thế chiến chấn động cả địa cầu, sống trong đói rách, giặc giã, cách mạng, nội chiến, hòa bình. Hai nhà văn có cách “ứng xử” khác nhau trước thời cuộc. Khi chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, Pauxtốpxki rời ghế nhà trường và lao vào các công việc: làm nhân viên đường sắt, phụ lái tàu điện, bán vé tàu điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương. Cuộc cách mạng tháng Hai bùng nổ khi Pauxtốpxki đang ở Matxcơva, ông bước vào ngành báo. Cũng ở đây, ông hạnh phúc được tham dự Cách mạng tháng Mười, nghe Lênin nói chuyện và tiếp tục chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Trong cuộc nội chiến, Pauxtốpxki gia nhập Hồng quân, nguyện hiến thân mình cho Tổ quốc. Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, một lần nữa, hiện thực bề bộn ấy đã cuốn theo nhà văn trong vai trò phóng viên mặt trận phía Nam. Nếu như Pauxtốpxki tích cực với các hoạt động chính trị, xã hội thì Thạch Lam dường như không tham gia một tổ chức chính trị nào. Cuộc đời ngắn ngủi của ông trôi qua trong bầu không khí tù đọng, bức bối của xã hội Việt Nam thời kì đêm trước cuộc cách mạng tháng Tám. Bao cuộc khởi nghĩa chống Pháp diễn ra sôi nổi, tuy có thất bại nhưng ngọn lửa đấu tranh vẫn âm ỉ cháy và được nhen nhóm để chờ thời cơ là bùng lên mạnh mẽ. Hầu hết giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đều mang tâm trạng cô đơn, bất lực trước thời
  11. thế bởi họ chưa tìm thấy lối đi hay còn đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” 1. Có người cho rằng tuổi đời Thạch Lam quá ngắn nên ông chỉ kịp sống trọn vẹn cuộc đời của một nghệ sĩ chân chính. Lại có ý kiến nhận xét Thạch Lam đã chịu ảnh hưởng của nhà văn A. Gide với một quan niệm tự do gần như tuyệt đối. Nếu Pauxtốpxki giống như cây kim bé nhỏ trước thỏi nam châm cuộc đời thì Thạch Lam tựa sợi tơ giăng ngang giữa một trời bão táp. Cả hai nhà văn đều có cuộc đời gắn với những chuyến đi. Trong cuộc đời “ở trọ trần gian” thoáng chốc, Thạch Lam cũng nhiều lần “xê dịch” trong phạm vi của đất nước: từ Hà Nội về Cẩm Giàng (Hải Dương), Tân Đệ (Thái Bình). Sau khi về lại Hà thành, Thạch Lam sống ở phố Hàng Bún, phố cầu Gỗ, rồi lần lượt chuyển đến Giám, Đỗ Hữu Vị, Hàng Bè, Quán Thánh… Ông cũng có vài năm theo Hoàng Đạo vào sống ở Sài Gòn. Thế nhưng ông sống và sáng tác chủ yếu ở một lớp nhà gỗ nhỏ ven Hồ Tây, có cây liễu rủ bóng thướt tha ngoài cửa sổ và khóm tre xanh mát đầu nhà, mộc mạc như ở chốn quê. Còn dấu chân Pauxtốpxki đã in khắp mọi miền Tổ quốc Nga, từ bán đảo Cônxki đến những sa mạc miền Trung Á, từ các thành phố băng tuyết miền cực Bắc đến bờ biển ấm áp vùng Krưm và những khu rừng Taiga rậm rạp của Xibêri... Ông đã nghe giọng nói âm vang và du dương của người Ôđétxa, ngỡ ngàng với những đêm trắng ở Karêli, uống nước của những hồ trong đầm lầy đen kịt ở vùng Mêsora, rảo chân lang thang trên những nẻo đường vùng Mikhailốp… Giữa những năm 50 của thế kỷ XX, Pauxtốpxki đã mở rộng biên độ xê dịch ra nước ngoài như đến thăm Tiệp Khắc, Ba Lan, Bungari, đi du lịch vòng quanh Châu Âu. 1.1.3. Sáng tạo nghệ thuật Thạch Lam và Pauxtốpxki là hai nhà văn đồng đại. Cùng được nuôi dưỡng với nguồn sữa nghệ thuật từ gia đình và mạch nguồn văn hóa dân tộc, các ông đã đến với văn chương như quy luật tất yếu của tình yêu và đam mê. Năm 21 tuổi, sau khi đỗ tú tài I, Thạch Lam thôi học, bắt đầu làm báo, viết truyện ngắn, luận thuyết văn học, thời đàm. Khi Nhất Linh sáng lập nhóm “Tự lực văn đoàn”, một tổ chức văn học nổi tiếng thời bấy giờ, Thạch Lam nhanh chóng trở thành một cây bút chủ chốt của báo Phong hóa, rồi Ngày nay (cơ quan ngôn luận của nhóm). Tuy cầm bút sáng tác theo tuyên ngôn của “Tự lực văn đoàn”, ông vẫn lặng lẽ kiếm tìm cho mình một lối đi riêng. Kết quả là sách của ông bán ế nhất bởi nó luôn đi bên lề của “mốt thời thượng”. Tuy vậy, thời gian – thước đo công bằng, khách quan nhất – đã trả lại cho văn chương ông giá trị đích thực vốn có. Ngày nay, những truyện ngắn của Thạch 1 Thơ Tố Hữu
  12. Lam vẫn là một thứ rượu quý, nhẹ nhàng thấm vào hồn người, ngọt ngào và say sưa. Bạn bè của Thạch Lam còn nhớ như in một con người khiêm nhường, nhỏ nhẹ, ít nói ở ngoài đời nhưng lại sâu sắc trong văn chương và rất nghiêm túc trong nghề nghiệp. Thạch Lam viết một cách thận trọng, khó khăn bởi mỗi trang văn được viết ra đều “có rất nhiều Thạch Lam ở trong đó” [3, tr. 148]. Năm 1940, khi đang ở vào thời kì sung sức nhất trong sáng tác, Thạch Lam phát hiện mình mang trong người căn bệnh lao phổi quái ác. Nhà văn đã bình tĩnh đón nhận điều không may và sống, làm việc như ngọn nến trong đêm cạn mình để cháy. Còn Pauxtốpxki sớm bộc lộ lòng đam mê văn chương với những truyện ngắn được đăng trong tạp chí Những ngọn lửa ở Kiép khi ông còn là học sinh năm cuối trung học, tuy nhiên nó chẳng để lại tiếng vang gì đáng kể. Với mục đích “đặt cuộc đời lên trên trang viết”, từ năm 1913 Pauxtốpxki đã thực hiện một cuộc sống lang thang gần như khắp nước Nga. Những chuyến đi khắp các vùng miền Tổ quốc trong bối cảnh đất nước trải qua những biến cố lớn đã cho Pauxtốpxki vốn sống phong phú, nguồn tư liệu đầy đặn, chân thực, đồng thời cũng bồi đắp cho quan điểm nghệ thuật tiến bộ ở ông. Ngoài ra, Pauxtốpxki còn là tấm gương tích cực học hỏi kinh nghiệm của thế hệ nhà văn tiền bối và các đồng nghiệp đương thời. Với tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy như dây đàn, luôn sẵn sàng rung lên trước những xung động của cuộc sống, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã dệt nên những trang văn nồng ấm hơi thở đời thường. Tất nhiên, với tuổi đời, tuổi nghề lớn hơn, Pauxtốpxki đã mở rộng độ xê dịch và để lại cho hậu thế khối lượng tác phẩm đồ sộ hơn. Với non mười năm cầm bút, Thạch Lam đã xác lập cho mình vị trí của một cây bút văn xuôi có tầm vóc, một phong cách truyện ngắn đặc sắc dù khối lượng tác phẩm chưa nhiều. Ông để lại các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết: Ngày mới (1939), tập tiểu luận phê bình: Theo dòng (1941); Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra còn có hai cuốn truyện viết cho thiếu nhi là Quyển sách, Hạt ngọc (1940), và một số truyện dài còn đang ở dạng bản thảo như Thập niên đăng hỏa, Huyền… Đó là kết quả của một hành trình miệt mài, cần mẫn chắt chiu cái đẹp bằng tất cả tấm lòng. Cuộc hành trình chắt chiu từng mảy bụi vàng của Pauxtốpxki đã kết thành “trái ngọt hoa thơm” – những tiểu thuyết, truyện dài, chân dung văn học, bút kí, tiểu luận, đặc biệt là truyện ngắn. Ông để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ: Những phác thảo biển khơi (1925), Những đám mây lấp lánh (1929), Vịnh Kara – Bunga (1932), Số phận Sáclơ Longxêvin (1933), Miền Cônkhiđa (1934), Hắc Hải (1936), Những ngày hè (1937), Ôrext
  13. Kiprenxki (1937), Câu chuyện phương Bắc (1938), Miền rừng Mêsora (1939), Bông hồng vàng (1955), Truyện cuộc đời (1967). Ở Việt Nam, những tác phẩm của Pauxtốpxki được đông đảo bạn đọc biết đến qua các bản dịch: Bông hồng vàng (in 1961, tái bản 1982), tập Truyện ngắn Pauxtốpxki (1962), Vịnh Mõm Đen (1978), Bình minh mưa (1982). Những nét tương đồng giữa Thạch Lam và Pauxtốpxki ngoài đời là tiền đề cho cuộc gặp gỡ thú vị trong nghệ thuật giữa họ mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần tiếp theo của luận văn. 1.2. Thạch Lam – Pauxtốpxki: Quan niệm nghệ thuật Sáng tác văn học nghệ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần, theo phương thức “cá thể”. Vì vậy, mỗi tác phẩm là một “chứng minh thư” tâm hồn của nhà văn, nó chịu sự chi phối sâu sắc của quan niệm nghệ thuật của ông ta. Thuật ngữ quan niệm nghệ thuật có nội hàm rộng, là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [25, tr.229]. Quan niệm nghệ thuật của một nhà văn là một phương diện quan trọng góp phần định dạng phong cách nghệ thuật của nhà văn ấy. Ở Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ trong quan niệm nghệ thuật về tác phẩm văn chương, về cái đẹp và vai trò của người nghệ sĩ. Những quan niệm ấy hé mở với người đọc cái nhìn độc đáo của các ông về thế giới và con người. 1.2.1. Văn chương đòi hỏi “sự thật và giản dị” Giá trị và ý nghĩa của nội dung tác phẩm văn học được đánh giá theo mức độ phản ánh chân thật và sâu sắc hiện thực đời sống. Do vậy, tính chân thật, giản dị là những phẩm chất không thể thiếu của một tác phẩm đích thực. Theo Thạch Lam, để có được điều đó, người nghệ sĩ phải “bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ, tìm cái giản dị, sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng” (Chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 322]. Thạch Lam từng nhắc lại câu nói của André Bellesort với sự chia sẻ sâu sắc: “Không gì bằng sự thực; sự sống là cái chuẩn đích, là mực thước của mọi vật” [43, tr. 328]. Quan niệm về tác phẩm văn học của Thạch Lam trực tiếp hé lộ mĩ cảm của nhà văn: cái đẹp là sự sống được cảm thấy. Nhà văn đã đề cao tính chủ thể trong việc phát hiện, thụ hưởng và miêu tả cái đẹp, cái thẩm mĩ. “Cái đẹp được cảm thấy” nghĩa là nó phải sống động, tự nhiên, giản dị và chân thật. Nó hoàn toàn xa lạ với cái trơ cũ, đoán định, sáo mòn. Nó là cái cốt lõi làm nên tác phẩm văn học. (Đành rằng văn chương không chỉ nói đến cái
  14. đẹp). Điều đó có nghĩa là phẩm chất chân thật, giản dị của tác phẩm văn học chỉ có thể được dưỡng nuôi từ tình cảm, sự rung động thành thực trong con tim tác giả. Đó là vì “cái gì nhà văn không cảm thấy mà bịa ra, nó vẫn có vẻ một vật thừa, một vật vô ích” [43, tr. 311]. Thạch Lam lưu ý“sự rung động thật với sự văn chương”. Khi được khơi nguồn, hoài thai từ cái đẹp được cảm thấy bởi tâm hồn nhà văn, tác phẩm tự bản thân nó đã mang một vẻ đẹp vô cùng – vẻ đẹp của sự sống xanh non. Thạch Lam thú nhận bản thân ông từng ca tụng hoa liễu, bắt chước những câu văn sáo rỗng “như người ta thường vẫn làm” nhưng rồi nhà văn sớm nhận ra sự tẻ nhạt, giả dối trong hành động đó. Không né tránh những mặt trái kém phần thi vị của cuộc đời, những góc khuất tăm tối trong hồn người, nhưng Thạch Lam cũng không tô đậm hay bôi đen chúng mà chuyển tải hiện thực đó lên trang văn của mình với thái độ chia sẻ, cảm thương. Cái đói khổ, túng quẫn của kẻ làm thuê; sự cay cực vì miếng ăn của người trí thức; việc mưu sinh khó khăn của người lao động nghèo… Tất cả hiện lên sống động, xác thực qua những truyện ngắn như Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Người bạn cũ, Đói, Người bạn trẻ… Không chỉ miêu tả hiện thực đời sống con người, Thạch Lam còn đi sâu vào cái chân thật trong cảm xúc, tâm trạng của họ. Đó là những tình cảm “phiền phức” nhưng hiện hữu ở con người: nỗi băn khoăn khó hiểu khi lần đầu làm cha (Đứa con đầu lòng); niềm hạnh phúc say sưa của cô gái lần đầu biết đến men say tình yêu (Tình xưa); cảm giác ngỡ ngàng khi suýt nữa chạm tay vào việc xấu (Sợi tóc), hay ân hận, dày vò vì đã trót làm điều ác (Một cơn giận)… Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki cho rằng tác phẩm văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng cần phải có “sự thật và giản dị” [65, tr. 45]. Ông chia sẻ kinh nghiệm viết truyện ngắn đầu tiên của mình: “Tôi vật lộn mãi với truyện ngắn này và không hiểu được vì sao khi viết ra nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt mặc dầu nội dung câu chuyện thật thê thảm” [65, tr. 44]. Để có một truyện ngắn đích thực, tác giả đã viết lại “và ngạc nhiên vì không sao đặt được vào trong truyện những từ cầu kì và đẹp” [65, tr. 45]. Pauxtốpxki nhấn mạnh: “Tôi viết không phải vì tôi đã đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì tâm hồn, trái tim, khối óc tôi đòi hỏi phải làm như vậy” [65, tr. 47]. Do vậy, ông đã mạnh dạn đưa “những cái tưởng chừng như vặt vãnh” vào truyện ngắn của mình và chúng đã phát huy hết nội lực. Một món quà, một cuộc gặp gỡ tình cờ, thoáng qua mà đầy dư âm dư vị… đã được diễn tả chân thực, cảm động qua các truyện ngắn Lẵng quả thông, Gió biển, Tuyết, Cây tường vi… Mặt khác, cái đẹp được cảm thấy theo Thạch Lam và Pauxtốpxki là cái đẹp mới mẻ, trong trẻo, thuần khiết như lần đầu được biết đến. Trong bài tiểu luận Chất thơ của văn xuôi,
  15. Pauxtốpxki cho rằng người nghệ sĩ phát hiện ra cái đẹp ấy nhờ “khả năng nhìn cuộc sống lúc nào cũng như mới, như lần đầu được thấy, trong tất cả dáng vẻ tươi nguyên và đầy ý nghĩa” [64, tr. 10]. Trong truyện ngắn Thạch Lam, vẻ đẹp thanh tân, tràn đầy sức sống của các thiếu nữ như Lan (Tình xưa), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Trăng sáng)… luôn được tác giả miêu tả qua sự rung cảm của các chàng trai trẻ – những thanh niên đang sống trong men say của mối tình đầu. Thạch Lam cũng nhiều lần nói đến cái sự sống bí ẩn mà thiêng liêng trong bản thân mỗi sự vật: “Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét” [44, tr. 88]; “Trong cái giờ khắc này, Tân như thấy cảnh vật đều có một tâm hồn, mà lớp sương mù kia là tâm hồn của đất màu đã nuôi hạt thóc cần cho sự sống của loài người” [44, tr. 100]; “Bông hoa vừa hé nở, cánh nhỏ còn khép giữ một giọt sương long lanh trong như ngọc. Từ đóa hoa bốc lên một mùi hương quen mến, mùi hương mộc mạc và đầm ấm của hồng nhà” [44, tr. 250]. Cùng quan niệm với Thạch Lam, Pauxtốpxki tập trung mô tả những tình cảm đột khởi trong tâm hồn con người: cái mới mẻ của tình yêu chợt đến (Tuyết, Suối cá hương, Cầu vồng trắng…), sự rung cảm kì lạ trước sức lay gọi mãnh liệt của âm nhạc (Lẵng quả thông, Người đầu bếp già)…v.v 1.2.2. Đi tìm cái đẹp tiềm tàng, khuất lấp Có thể nói người nghệ sĩ là tín đồ của cái Đẹp. Cái đẹp, cái thẩm mĩ là đích đến trong hành trình nghệ thuật của họ. Thế nhưng, quan niệm về cái đẹp của họ cũng muôn màu vạn vẻ như chiếc kính vạn hoa. Có người say đắm với cái đẹp của những giá trị văn hóa tinh thần một thời quá khứ huy hoàng đã qua, lại có kẻ thích cái đẹp ước lệ kiểu phong, hoa, tuyết, nguyệt… hay đi tìm cái đẹp kì bí, siêu phàm. Với Thạch Lam, “nhưng cái đẹp chỉ cứ ở hoa, ở liễu thôi đâu mà? Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường” (chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 326]. Quan niệm về cái đẹp của Thạch Lam tương đồng với quan niệm của Pauxtốpxki. Nhà văn xứ bạch dương cho rằng trong mọi sự vật bình thường đều tiềm ẩn bụi quý:“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và mỗi cái nhìn tình cờ ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa hướng dương đang bay hay lửa sao trong một vũng nước đêm – tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng” [65, tr. 20]. Đó chính là cái đẹp khuất lấp, tiềm tàng trong đời sống hằng ngày. Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mở ra nguồn “chất liệu” phong phú và vô tận của tác phẩm văn chương. Quả thật, cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm
  16. mĩ phong phú nhất và phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Có cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp của những sản phẩm do con người tạo ra, cái đẹp trong hoạt động của con người, cái đẹp của con người và cái đẹp trong nghệ thuật. Những “mảy bụi vàng” ấy hiện diện quanh ta, kể cả những nơi tưởng chừng khó tìm thấy nhất nhưng chúng vốn khuất lấp, ẩn chìm. Chúng đòi hỏi người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, sự dấn thân để khám phá và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm để phát hiện, lĩnh hội. Thạch Lam và Pauxtốpxki đã đề cao việc phát hiện nhân tố mới của cái đẹp, cái thẩm mĩ. Ngược lại, chúng cũng xác lập vị trí, yêu cầu đối với nghề văn – một hình thái lao động đặc thù – là “phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn, thưởng thức” (chúng tôi nhấn mạnh) [43, tr. 26], hay: “Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng không phải là một thứ công việc”, đó chính là “cái lao động tuyệt mĩ nhưng cay cực” [65, tr. 24]. Quan niệm về nghề văn của Thạch Lam và Pauxtốpxki gần gũi với quan niệm của Nam Cao. Cây bút truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam cho rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. 1 Thạch Lam đã phát hiện cái đẹp trong cái nên thơ, bình dị, yên ả của những làng quê, phố huyện nghèo ở Việt Nam (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Tình xưa, Nắng trong vườn), còn Pauxtốpxki thiết tha với vẻ đơn sơ, trong lành mà đầy quyến rũ của các làng mạc, tỉnh lị xa xôi trên đất Nga (Tuyết, Bình minh mưa, Cây tường vi, Bình nguyên tuyết phủ). Một buổi sớm mai tươi mát, trong lành, một con đường làng mấp mô bước chân trâu, cánh đồng lúa rập rờn theo làn gió, khu rừng bạch dương màu trắng bạc, ngọn núi phủ tuyết khi đông về… tất cả đều được các nhà văn khơi dậy cái chất sống tươi mới bên trong. “Bóng tối” thường tạo ra một ấn tượng kinh hoàng, lo sợ cho con người, nhưng Thạch Lam tìm thấy vẻ đẹp bí ẩn, mê hoặc của nó: “Trời đã bắt đều đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối” (Hai đứa trẻ) [44, tr. 149]. Dưới cái nhìn của Pauxtốpxki, bóng tối trở nên thân quen như một người bạn. Bóng tối trộn hòa với mưa bụi, tạo ra một không gian êm dịu, những giọt âm thanh khẽ khàng, xôn xao (Bình minh mưa). Bóng tối bao bọc và làm thăng hoa tình cảm thiêng liêng của con người (Suối cá hương). Nếu như Thạch Lam phát hiện ra cái đẹp ở những đối tượng mà khi nhắc đến họ, người ta nghĩ ngay đến cái xấu, cái ác như Huệ và Liên (Tối ba mươi), bà cả (Đứa con), bà 1 Theo sách Văn học 11, tập 2, Sách chỉnh lí hợp nhất 2000, trang 198.
  17. đầm (Bà đầm), thì trong con người đại diện cho quyền lực quân đội, Pauxtốpxki tìm thấy một tâm hồn nhạy cảm, khát khao tình yêu (Suối cá hương). Với Thạch Lam và Pauxtốpxki, cái đẹp không chỉ toát ra ở những cô gái đôi mươi, trẻ trung, ngời ngời xuân sắc như Nga (Dưới bóng hoàng lan), Hậu (Nắng trong vườn), Mai (Đêm sáng trăng), Đanhi (Lẵng quả thông), Masa (Cây tường vi), Maria Tsernưi (Suối cá hương) mà ngay cả những phụ nữ đứng tuổi, có vẻ ngoài thô kệch như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), Mađam Bôvê (Lời cầu nguyện của Mađam Bôvê) cũng nổi bật với nét mặn mà, đằm thắm, đặc biệt là vẻ đẹp của lòng nhân hậu, vị tha. Quả thật, trong bất cứ hoạt động nào con người cũng đều sáng tạo “theo quy luật của cái đẹp”,1 nhưng không ở đâu quy luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc tìm tòi và phát hiện ra những nhân tố mới của cái đẹp lại chiếm một vị trí quan trọng đến như vậy trong nghề văn. Những nhà văn tận tụy, tâm huyết với nghề sẽ biết cách chọn cho mình một đường hướng phù hợp, tránh sa vào lối mòn và tạo ra “những đứa con tinh thần” xơ cứng, yểu mệnh. Và nghề văn sẽ dẫn dắt người nghệ sĩ đến với chân trời vô tận của cái đẹp nếu họ có năng lực nhìn cuộc sống bằng cặp mắt “xanh non”. 1.2.3. Chắt chiu “bụi quý”, đúc “bông hồng vàng” Sứ mệnh cao cả của nhà văn là nghệ thuật hóa cái đẹp mà mình đã khổ công chắt chiu, gom góp trong đời sống thường nhật, biến chúng thành những “bông hồng vàng” (theo cách nói hình tượng của Pauxtốpxki). Một khi đã “tìm được hạt nhân tiêu biểu chứa đựng trong từng điều vặt vãnh” [64, tr. 19], nhà văn làm đầy vốn sống của mình bằng sự cần mẫn chắt chiu từng mảy “bụi vàng”. Với hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chính họ đã làm cho cái đẹp thăng hoa, bất tử. Bởi “nghệ thuật không phải là nơi độc quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của xã hội” [48, tr. 155], nên vai trò, vị trí và tư chất của người nghệ sĩ luôn được đưa lên hàng đầu. Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều nêu cao vai trò của nhà văn trong hành trình chiếm lĩnh và sáng tạo cái đẹp. Dù Thạch Lam nêu ra trực tiếp: “Chúng ta không cần bắt chước ai (mà công việc bắt chước không phải là công việc sáng tác). Chúng ta cứ việc diễn tả tâm hồn (An Nam) của chúng ta, những tư tưởng, những ý nghĩ mà chúng ta ấp ủ trong thâm tâm” [43, tr. 318] hay Pauxtốpxki phát biểu gián tiếp bằng hình tượng: “Chúng ta, những 1 Chữ dùng của Mác, dẫn theo Lê Ngọc Trà [ 48, tr. 155]
  18. nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng (bụi vàng) trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim rồi từ hợp kim đó ta đánh ‘bông hồng vàng’ của ta, truyện, tiểu thuyết hay là thơ” [65, tr. 20], thì sự sáng tạo của người nghệ sĩ luôn được các ông đặt lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là từ vô vàn hạt bụi vàng quý hiếm – nguồn chất liệu sống, cái “vốn” của nhà văn – sẽ có những “bông hồng vàng” được khai sinh bằng tài năng và cảm xúc của họ. Mỗi nhà văn có những “bông hồng vàng” – tác phẩm – của riêng mình. Chúng có số phận hoàn toàn khác nhau nhưng cái thành quả ấy một mặt chứng tỏ nhà văn đã chạm đến “đích” của hành trình nghệ thuật, mặt khác xác lập vị trí và sự đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà (và cả trên thế giới). Vì vậy, sự sáng tạo là điều kiện tiên quyết để nhà văn sản sinh ra cái đẹp trong nghệ thuật. Ở bài tiểu luận Niềm vui sáng tạo, Pauxtốpxki đã chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao của nhà văn khi dấn thân trên hành trình nghệ thuật: “Nhà văn đi rất sâu vào mỗi cuốn sách của mình, như các nhà thám hiểm và chinh phục đi đến miền đất bao la của xứ sở xa lạ. Nhà văn nhiều khi không biết cái gì đang đợi anh, dòng sông, cánh rừng, dãy núi nào anh sẽ ghi lại trên bản đồ, những con người bất ngờ nào anh sẽ gặp, những sự kiện nào anh sẽ may mắn chứng kiến” [64, tr. 54]. Còn Thạch Lam chỉ rõ hậu quả của việc chạy theo lối mòn: “Những nhà văn nào ồ ạt theo thời chỉ tạo ra được những số phận mỏng manh. Bởi họ chỉ nghe theo tiếng gọi của sự háo hức, lòng hám danh, sự chiều lòng công chúng” [43, tr. 313]. Ngoài sự sáng tạo, bản lĩnh, cá tính là nhân tố không thể thiếu trong lao động nghệ thuật của một nhà văn. Đó là “cái can đảm mình dám là mình” như Thạch Lam chia sẻ [43, tr. 319] hay việc “thể hiện mình một cách đầy đủ nhất và rộng rãi nhất trong bất cứ tác phẩm nào, dù chỉ ở một truyện ngắn nhỏ” [65, tr. 45] mà Pauxtốpxki tâm đắc tỏ bày. Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, thì đó là một sự tự sát trong văn học. Bởi văn học làm giàu cho xã hội không phải ở số lượng của cải như sản xuất vật chất mà ở những giá trị về mặt tinh thần. Nếu như chân lí mà khoa học mang lại chỉ mang tính khách quan, duy nhất thì chân lí của văn học còn xuyên thấm những sắc thái chủ quan. Quan niệm trên của Thạch Lam và Pauxtốpxki có sự gặp gỡ với quan niệm L. Tônxtôi. Đại văn hào Nga vĩ đại này từng cho rằng: “Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ. Anh ta có gì khác với tất cả những người mà tôi biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc sống chúng ta như thế nào” (dẫn theo Lê Ngọc Trà [48, tr. 204]).
  19. Bên cạnh đó, hai nhà văn còn cho rằng sự sáng tạo trong nghệ thuật luôn song hành với “tiếng gọi trái tim”. Bởi chỉ có dấn bước trên hành trình sáng tạo, trái tim người nghệ sĩ mới đột khởi những tình cảm “phức tạp” trước những điều mới mẻ, kì lạ. Thạch Lam thường lưu ý người cầm bút nên có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của mình. Còn Pauxtốpxki lí giải cụ thể “niềm xúc động” của nhà văn: “Lo âu và mừng vui – hai tình cảm mạnh mẽ nhất ấy đã đi theo nhà văn trên suốt chặng đường” [64, tr. 54]. Nhà văn lo âu “liệu có tìm ra được những từ ngữ rõ ràng, đầy sức thuyết phục để kể lại tất cả những gì đã nhìn thấy, đã suy nghĩ, kể lại tất cả cho người dân, mà với nhà văn, thì anh luôn cảm thấy nhân dân là bạn”, hay “cảm thấy niềm vui từ sự quan sát cuộc sống, từ những điều nghiền ngẫm, từ tâm trạng căng thẳng và lặng lẽ đặc biệt bên trong vẫn thường thấy trước khi cuốn sách ra đời” [64, tr. 55]. Với tư chất nghệ sĩ sẵn có, Thạch Lam và Pauxtốpxki đã mang đến cho người đọc cái đẹp của sự sáng tạo từ quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, nghiêm túc. Với 32 năm ngắn ngủi ở cõi đời, Thạch Lam đã khẳng định vị trí không thể thay thế của mình trong dòng chảy của văn xuôi hiện đại Việt Nam, còn Pauxtốpxki cũng xác lập tên tuổi trên văn đàn bên cạnh những trụ cột của dòng văn học Nga đương thời như M. Gorki, A. Tônxtôi, A. Fađêep, M. Sôlôkhôp… Cuộc đời và hành trình nghệ thuật của hai nhà văn đã trở thành tấm gương của người nghệ sĩ chân chính. Cái đẹp của “sự thật và giản dị”, cái đẹp tiềm tàng khuất lấp, cái đẹp của sự sáng tạo là những nét đặc sắc trong quan niệm nghệ nghệ thuật của Thạch Lam và Pauxtốpxki, hé lộ cái nhìn độc đáo, tiến bộ của họ về thế giới và con người. 1.3. Thạch Lam – Pauxtốpxki: nhà văn của thể loại truyện ngắn 1.3.1. Sự gặp gỡ trong sở trường truyện ngắn Cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều cầm bút ở nhiều thể loại: tiểu luận phê bình, chân dung văn học, bút kí, tiểu thuyết, truyện dài… nhưng có thể nói truyện ngắn mới là thể loại “đo ni đóng giày” của hai nhà văn này, làm nên tên tuổi và thành công cho họ. Ngày nay, nhắc đến Thạch Lam là người ta nghĩ ngay đến những truyện ngắn nhẹ nhàng mà ám ảnh, chẳng hạn như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa… Một số truyện ngắn của ông được xem là mẫu mực của thể loại này. Tương tự, ở Nga, Pauxtốpxki được xưng tụng là bậc thầy về truyện ngắn, những đồng nghiệp đương thời và lớp nhà văn hậu thế luôn xem ông là tấm gương để học hỏi, noi theo. Thế giới biết đến tên tuổi của
  20. Pauxtốpxki cũng do bởi những câu chuyện ngọt ngào của ông trong tập Bông hồng vàng, Bình minh mưa, Truyện ngắn chọn lọc Pauxtốpxki. Để chuyển tải đến người đọc cái đẹp – những mảy bụi quý được chắt lọc từ những sự vật bình dị, nhỏ bé của đời thường hay của tâm hồn con người, Thạch Lam và Pauxtốpxki đều tâm đắc với hình thức tự sự cỡ ngắn. Gọn, cơ động, nhanh nhạy, cập nhật – những đặc trưng và cũng là “lợi thế” của truyện ngắn – đã được hai nhà văn khai thác tối đa để khai sinh những đứa con tinh thần, cho chúng đạt đến tầm cao và chiều sâu ý tưởng mà vẫn sống động, tự nhiên. Tìm tòi một đường hướng sáng tạo phù hợp với “điệu tâm hồn mình”, cả Thạch Lam và Pauxtốpxki đều lấy thế giới tâm trạng của con người làm hướng khai thác chủ đạo, quan tâm tới những cảm xúc đột biến, tức thì, thoáng qua, cỏn con. Truyện ngắn Thạch Lam, Pauxtốpxki được khơi nguồn từ dòng chảy của văn xuôi trữ tình, xác lập một diện mạo độc đáo: truyện ngắn trữ tình phi cốt truyện. “Trữ tình” là một trong dãy khái niệm về “loại” trong văn học, gồm trữ tình, tự sự, kịch. Đây là quan niệm của Châu Âu, nguồn gốc từ Aristote, du nhập vào phương Đông (Đông Á) và vào Việt Nam thời hiện đại, ngày nay trở thành “chuẩn” của lí thuyết văn học thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Nhắc đến thuật ngữ này, người ta thường nghĩ ngay đến một thể loại của “loại trữ tình” là thơ. Truyện ngắn trữ tình là thuật ngữ chỉ một thể loại của “loại tự sự” (văn xuôi) có sự kết hợp hài hòa giữa tố chất “tự sự” và “trữ tình”. Theo M.Khrapchencô, dấu ấn chủ quan và chất trữ tình đậm đặc là hai đặc điểm nổi bật của truyện ngắn trữ tình. G.N.Pospelov chỉ ra bản chất của văn xuôi trữ tình (cũng là của truyện ngắn trữ tình) là “tự sự một cách trữ tình” [69, tr. 100]. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng một trong những đặc điểm quan trọng của truyện ngắn hiện đại là “gần với thơ” [30, tr. 113]. Phan Quốc Lữ khẳng định sự ảnh hưởng của thơ với văn xuôi: “Tiến trình văn học hiện đại đã ghi nhận sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ca và phá phách lãnh địa độc quyền của thơ ca. Nhưng sự thâm nhập theo chiều ngược lại – tức là sự trộn hòa trở lại của thơ vào văn xuôi cũng không phải là hiếm và điều này được xem như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của truyện ngắn hiện đại” [46, tr. 51]. Mặt khác, tính chất “phi cốt truyện” ở truyện ngắn Thạch Lam và Pauxtốpxki quy định sự thưa thoáng, gọn nhẹ, ít sự kiện của câu chuyện. Mỗi truyện là một tâm tình, gây ấn tượng mạnh bởi phong vị trữ tình và chất thơ bàng bạc, man mác tỏa ra từ những trang văn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2