Luận văn Thạc sĩ Y học: Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 2
download
Luận văn được nghiên cứu nhằm: đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vệ sinh môi trường của người dân tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Y học: Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
- ®¹i häc th¸i nguyªn tr-êng ®¹i häc y d-îc -- -- HOÀNG THÁI SƠN THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Chuyên ngành Y học dự phòng Mã số: 60.72.73 Thái Nguyên, tháng 11 năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- ®¹i häc th¸i nguyªn tr-êng ®¹i häc y d-îc -- -- HOÀNG THÁI SƠN THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Chuyên ngành Y học dự phòng Mã số: 60.72.73 Hướng dẫn khoa học: PGS-TS Đàm Khải Hoàn Thái Nguyên, tháng 11 năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- ®¹i häc th¸i nguyªn tr-êng ®¹i häc y d-îc -- -- Hoàng Th¸i S¬n thùc tr¹ng kiÕn thøc, th¸i ®é, thùc hµnh vÒ vÖ sinh m«i tr-êng cña ng-êi d©n huyÖn phæ yªn, tØnh th¸i nguyªn luËn v¨n th¹c sÜ y häc Chuyªn ngµnh Y häc dù phßng M· sè: 60.72.73 Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS-TS §µm Kh¶i Hoµn Th¸i Nguyªn, n¨m 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh t¹i tr-êng §¹i häc Y D-îc Th¸i Nguyªn Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: Phã GS - Ts §µm Kh¶i Hoµn Ph¶n biÖn 1: TiÕn sÜ TrÞnh V¨n Hïng Ph¶n biÖn 2: TiÕn sÜ NguyÔn Quang M¹nh LuËn v¨n ®-îc ®¸nh gi¸ tr-íc héi ®ång t¹i tr-êng §¹i häc Y D-îc Th¸i Nguyªn vµo håi 15 h 30 ngµy 7/11/2009. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Các bệnh liên quan tới nước và vệ sinh môi trường là vấn đề lớn về sức khỏe trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Một cuộc điều tra mới đây về tình hình vệ sinh môi trường Việt Nam cho thấy 52% dân cư nông thôn có phương tiện vệ sinh môi trường nói chung, song chỉ có 18% trong số họ được sử dụng nhà xí đạt tiêu chuẩn vệ sinh do Bộ Y tế ban hành theo Quyết định số 08/2005/QĐ-BYT [42]. Đảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến công tác vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khoẻ. Chương trình Môi trường quốc gia - Nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 237- 1998/QĐ-TTg. Chương trình là một công cụ có tầm quan trọng đặc biệt để thực hiện chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020, nhằm bảo đảm cho tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia với số lượng tối thiểu 60lít/người/ngày và sử dụng hố xí hợp vệ sinh, thực hành tốt vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường làng xã... [3], [53]. Ngày 30/12/2008, Cục y tế Dự phòng và Vệ sinh môi trường được thành lập, cho thấy vệ sinh môi trường là một vấn đề cấp thiết của công tác y tế dự phòng trong giai đoạn hiện nay [40]. Việc không đảm bảo vệ sinh môi trường là nguyên nhân của nhiều bệnh truyền nhiễm, trong đó bệnh tiêu chảy là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ốm đau trên phạm vi toàn quốc, làm cho khoảng 250.000 người phải nhập viện mỗi năm. Theo ước tính, có tới 44% trẻ em Việt Nam bị nhiễm giun tóc, giun móc và giun đũa [40]. Ở nhiều vùng nông thôn, vệ sinh môi trường kém, chất thải người và gia súc chưa được xử lý hợp vệ sinh, tập quán dùng phân tươi bón ruộng làm phát tán các mầm bệnh có trong phân tươi ra môi trường xung quanh, gây những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 2 lên sức khoẻ con người, là nguyên nhân của các dịch bệnh đường tiêu hoá nguy hiểm như tả, lỵ, thương hàn [7], [25]. Huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên là huyện có điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội tương đối phát triển, tuy nhiên điều kiện sinh hoạt, thói quen và tập quán vệ sinh của người dân vẫn còn nhiều vấn đề lạc hậu, chưa đảm bảo được yêu cầu hạn chế bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ. Vì vậy, chúng tôi xây dựng đề tài: "Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. 2. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vệ sinh môi trường của người dân tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Các khái niệm cơ bản: 1.1.1. Hành vi của con người với giáo dục sức khoẻ: 1.1.1.1. Khái niệm hành vi của con người: Hành vi của con người là một hành động, hay là tập hợp phức tạp của nhiều hành động, mà những hành động này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan cũng như khách quan. Ví dụ các yếu tố tác động đến hành vi của con người như: phong tục tập quán, thói quen, yếu tố di truyền, văn hoá - xã hội, kinh tế - chính trị... Chẳng hạn hành vi thực hiện các điều lệ về vệ sinh môi trường, hành vi tôn trọng pháp luật... Mỗi hành vi của một con người là sự biểu hiện cụ thể của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là các kiến thức, niềm tin, thái độ và cách thực hành của người đó trong một tình huống hay trong một sự việc cụ thể nhất định nào đó [23]. 1.1.1.2. Hành vi sức khoẻ: Hành vi sức khỏe là hành vi của cá nhân, gia đình, cộng đồng tạo ra các yếu tố tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến sức khỏe của chính họ, có thể có lợi hoặc có hại cho sức khỏe [23]. Theo ảnh hưởng của hành vi, chúng ta có thể phân ra 3 loại hành vi sức khoẻ như sau: - Những hành vi lành mạnh, có lợi cho sức khoẻ: Đó là những hành vi giúp bảo vệ và nâng cao tình trạng sức khoẻ của con người. Ví dụ: Làm chuồng nuôi gia súc, gia cầm cách xa nguồn nước sinh hoạt, thực hiện ăn chín uống sôi, giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh nơi công cộng... - Những hành vi không lành mạnh: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 4 Đó là những hành vi gây hại cho sức khoẻ. Ví dụ như: Ăn sống, uống sống, phóng uế bừa bãi, không rửa tay trước khi ăn... - Những hành vi trung gian: Là những hành vi không có lợi cũng không có hại cho sức khoẻ hoặc chưa xác định rõ. Ví dụ như đeo vòng bạc cho trẻ vào cổ hay cổ tay, cổ chân cho trẻ em để kỵ gió. Với các loại hành vi này thì tốt nhất là không nên tác động, trái lại có thể lợi dụng việc đeo vòng đó để hướng dẫn các bà mẹ theo dõi sự tăng trưởng của con mình. Giáo dục sức khoẻ nhằm tạo ra các hành vi sức khoẻ có lợi cho sức khoẻ mà điều quan trọng nhất là tạo ra được các thói quen tốt, các hành vi lành mạnh. 1.1.1.3. Hành vi môi trường. Là những hành vi ảnh hưởng đến môi trường như phóng uế bừa bãi; Dùng phân tươi để bón rau; Uống nước lã; Dùng nước sạch, sử dụng hố xí hợp vệ sinh, giữ gìn nhà cửa, làng bản sạch sẽ... 1.1.1.4. Thành phần chủ yếu của hành vi. Hành vi sức khoẻ của con người chủ yếu thể hiện ở các thành phần như kiến thức, thái độ, niềm tin và thực hành. Muốn làm thay đổi hành vi sức khoẻ của đối tượng giáo dục sức khoẻ thì truyền thông – giáo dục sức khoẻ phải tác động vào các thành phần trên nhưng tuỳ từng mục tiêu cụ thể mà cần tác động vào thành phần nào là chủ yếu. Trong các thành phần của truyền thông giáo dục sức khỏe thì quá trình tác động làm thay đổi được thái độ của con người đối với sức khoẻ là việc làm khó nhất. 1.1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi nói chung. - Suy nghĩ và tình cảm. Với mỗi sự việc, vấn đề trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có thể có các suy nghĩ và tình cảm khác nhau. Những suy nghĩ và tình cảm của chúng ta lại bắt nguồn từ các hiểu biết, niềm tin, thái độ và quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 5 niệm về giá trị. Chính các kiến thức, niềm tin, thái độ và quan niệm về giá trị đã dẫn đến những quyết định của mỗi người thực hành hành vi này hay hành vi khác [37]. - Kiến thức. Kiến thức hay hiểu biết của mỗi người được tích lũy dần qua quá trình học tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến thức từ thày cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, những người xung quanh, sách vở và các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp. Từ đó giúp con người có các suy nghĩ và tình cảm đúng đắn, có hành vi phù hợp trước mỗi sự việc. Các kiến thức về bệnh tật, sức khỏe và bảo vệ, nâng cao sức khỏe là điều kiện cần thiết để mọi người có cơ sở thực hành các hành vi sức khỏe lành mạnh [36]. - Niềm tin. Niềm tin là sản phẩm xã hội của nhận thức cá nhân kết hợp với các kinh nghiệm thu được của cá nhân cũng như của nhóm hay cộng đồng trong cuộc sống. Mỗi một xã hội đều hình thành và xây dựng niềm tin về tất cả các khía cạnh của đời sống. Những niềm tin là một phần của cách sống con người. Niềm tin có thể chỉ ra những điều được mọi người chấp nhận và những điều không được người ta chấp nhận. Niềm tin có sức mạnh, nó ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người [36]. - Thái độ. Thái độ được coi là trạng thái chuẩn bị của cơ thể để đáp ứng với những tình huống hay hoàn cảnh cụ thể. Thái độ phản ánh những điều người ta thích hoặc không thích, mong muốn hay không mong muốn, tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, ủng hộ hay ngăn cản.... Thái độ thường bắt nguồn từ kiến thức, niềm tin và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống, đồng thời thái độ cũng chịu ảnh hưởng của những người xung quanh [36]. - Giá trị. Giá trị là các tiêu chuẩn có vai trò quan trọng tác động đến suy nghĩ và tình cảm của con người. Một tiêu chuẩn nào đó được một người coi là có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 6 giá trị với họ sẽ là động cơ thúc đẩy các hành động. Sức khỏe là một trong số các giá trị quan trọng của mỗi người [36]. - Những người có ảnh hưởng quan trọng. Sống trong xã hội, mỗi người đều có quan hệ và chịu ảnh hưởng của những người xung quanh. Một trong các lý do làm cho các chương trình giáo dục sức khỏe không thành công là nó trực tiếp nhằm vào các cá nhân mà do không chú ý đến ảnh hưởng của những người khác. Thông thường những người có ảnh hưởng nhiều đối với chúng ta là cha mẹ, ông bà, anh em, vợ chồng, thày cô giáo, bạn bè, người lãnh đạo, đồng nghiệp, những người có nhiều kinh nghiệm, trình độ cao, kỹ năng đặc biệt [36]. - Nguồn lực. Để thực hành các hành vi nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật, cộng đồng hay cá nhân cần có các điều kiện nhất định về nguồn lực. Nguồn lực cho thực hiện hành vi bao gồm các yếu tố như thời gian, nhân lực, tiền, cơ sở vật chất trang thiết bị. Nhiều cá nhân có đủ kiến thức, họ hiểu rất rõ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của họ nhưng vì thiếu các điều kiện nguồn lực nên họ không thực hiện được hành vi mong muốn [36]. - Thời gian. Thời gian là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của con người. Có những hành vi cần có thời gian để thực hành hoặc để thay đổi [36]. - Nhân lực. Nhân lực đôi khi ảnh hưởng lớn đến hành vi sức khỏe của cộng đồng. Nếu một cộng đồng nào đó có thể huy động nguồn nhân lực thì việc tổ chức các hoạt động lao động phúc lợi cho cộng đồng sẽ được thực hiện dễ dàng. Ví dụ như huy động nhân lực tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm, cải tạo các nguồn cung cấp nước, xây dựng công trình vệ sinh công cộng... Các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe rất cần nguồn nhân lực từ cộng đồng tham gia để tạo nên phong trào tác động đến thay đổi hành vi sức khỏe [54]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 7 - Tiền. Tiền cần thiết để thực hiện một số hành vi. Ở nông thôn nhiều người thiếu tiền nên không xây dựng được các công trình vệ sinh [36]. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị. Cơ sở vật chất trang thiết bị là các điều kiện cần thiết hỗ trợ cho thay đổi một số hành vi sức khỏe [36]. - Yếu tố văn hóa. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi con người, các yếu tố này có thể rất khác nhau giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Văn hoá là tổng hợp của nhiều yếu tố bao gồm kiến thức, niềm tin, phong tục tập quán, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, thói quen và tất cả những năng lực mà con người thu được trong cuộc sống [64]. Như vậy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe nói chung và vệ sinh môi trường nói riêng như các hành động và hành vi thông thường chứ không phải chỉ có thuốc men và các dịch vụ kỹ thuật y tế. Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe của con người là cần thiết để tránh những thất bại khi thực hiện giáo dục sức khỏe. 1.1.2. Các khái niệm cơ bản về vệ sinh môi trường. 1.1.2.1. Khái niệm môi trường: Theo nghĩa rộng: Là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến một vật thể hay một sự kiện [24]. Đối với con người: Môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, kinh tế, xã hội bao quanh và ảnh hưởng đến sự sống, sự phát triển của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng, bức xạ, nồng độ các chất hoá học có trong đất, nước, không khí, các vi sinh vật.... Môi trường xã hội bao gồm các vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn hoá, pháp luật, phong tục, tập quán, văn hoá ứng xử, chính sách... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 8 Ngày nay, môi trường hài hoà với sức khoẻ gắn liền với việc sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, đảm bảo gắn chặt phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và phát triển văn hoá [26]. 1.1.2.2. Khái niệm về sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế thế giới: “Sức khoẻ là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh hay tật” [25]. Theo định nghĩa đó sức khoẻ bao gồm ba khía cạnh: Sức khoẻ về thân thể, sức khoẻ về tinh thần, sức khoẻ về xã hội. Cả ba mặt này làm thành một thể thống nhất tác động qua lại lẫn nhau không thể coi nhẹ một mặt nào. Một tinh thần khoẻ mạnh chỉ có được trong một cơ thể khoẻ mạnh và trong một xã hội lành mạnh. Trạng thái sức khoẻ con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của tình trạng môi trường. 1.2. Tình hình vệ sinh môi trƣờng hiện nay và các yếu tố ảnh hƣởng. 1.2.1. Tình hình vệ sinh môi trường. Theo báo cáo của Bộ Y tế vào năm 2005, nước và hố xí không hợp vệ sinh đứng thứ 10 về các yếu tố đóng góp vào gánh nặng bệnh tật trong các nước đang phát triển như Việt Nam [9]. 1.2.1.1. Về nguồn nước. Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con người là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là môi trường trung gian truyền bệnh cho người đặc biệt là bệnh đường tiêu hoá. Theo WHO và UNICEF: Nước sạch là nước máy, giếng khoan, giếng khơi được bảo vệ, nước mưa, nước suối được bảo vệ [9]. Theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam: nước máy, nước mưa, nước giếng khoan, nước máng lần không có nguồn ô nhiễm trong vòng 7 m từ nguồn nước được coi là nước sạch. Theo qui định này thì hiện nay 80% dân số Việt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 9 Nam đang ăn, uống bằng nguồn nước sạch. Tuy nhiên ở Việt Nam, nước giếng khoan, nước máng lần, nước giếng khơi nếu sử dụng để ăn uống ngay mà không qua xử lý sẽ không đảm bảo vệ sinh và không coi là nguồn nước sạch được [3]. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 8,28% số hộ dùng nước máy để nấu ăn (Trong đó xã miền núi là 3,03% số hộ, xã vùng cao là 2,60%). Tỷ lệ hộ dân dùng nước giếng khoan là 27,9%, giếng xây là 26,79%. Tuy nhiên tỷ lệ hộ dùng các loại nước giếng này đã qua xử lý tương ứng là 6,87% và 1,08%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước sông, hồ, ao, nước suối để nấu ăn trong cả nước là 13,24% trong đó miền núi, vùng cao có tỷ lệ là 11,96% [60]. Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch ở nước ta còn thấp, tỷ lệ chung vào năm 2002 khoảng 50%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước được coi là sạch bao gồm giếng khoan và nước máy còn rất thấp (6,8% và 6,6%). Hơn một nửa (53,2%) số hộ gia đình điều tra sử dụng nước giếng đào. Ở vùng duyên hải miền Trung, hầu hết (99,5%) số hộ cũng dùng nguồn nước giếng đào cho ăn uống. Đa số (66,0%) các hộ gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long dùng nguồn nước từ sông kênh rạch, tỷ lệ chung ở 7 vùng sinh thái được điều tra dùng nguồn nước sạch là 15,5%. Nước từ các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và vi sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử dụng nguồn nước này [5], [10]. Ở khu vực miền núi phía Bắc, nguồn nước không chỉ ô nhiễm bởi chất thải của con người mà còn chịu ảnh hưởng bởi các tệ chặt phá rừng bừa bãi. Đa số các nguồn nước sử dụng không hợp vệ sinh. Ngoài nguồn nước giếng còn sử dụng các nguồn nước khác như nước mỏ, nước khe, nước suối [26]. Qua một số nghiên cứu thấy tỉ lệ sử dụng nguồn nước chưa hợp vệ sinh ở khu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 10 vực miền núi phía Bắc khá cao. Người H'Mông ở Cán Tỷ (Hà Giang): 100%, Người Sán Dìu ở Nam Hoà (Đồng Hỷ - Thái Nguyên): 32,22% [26]. Một nghiên cứu khác được tiến hành ở hai xã Chiềng Sinh và Tạ Bú (Sơn La) cho thấy tỷ lệ giếng nước hợp vệ sinh rất thấp (13,9% và 0%) [17]. Nước dùng để ăn uống và sinh hoạt hàng ngày cho đồng bào dân tộc miền núi hầu hết không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Nguồn nước cũng bị ô nhiễm nặng nề do tệ phá rừng đầu nguồn, do các chất thải của con người và súc vật... Trong khi đó ở một số dân tộc vẫn còn tập quán sử dụng nước khe suối, nước sông... các nguồn nước này đều không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, bị ô nhiễm cả về mặt hoá học và vi sinh vật. Đặc biệt, ở xã Cán Tỷ (Hà Giang) cho thấy 100% mẫu nước có vi sinh vật [28]. 1.2.1.2. Tình hình sử dụng hố xí. Phân người và gia súc là yếu tố truyền nhiễm chủ yếu của nhiều bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng, đặc biệt là các bệnh đường ruột. Sử dụng các hố xí không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí gây ô nhiễm môi trường tạo nguy cơ mắc bệnh hệ tiêu hóa khác như lỵ trực khuẩn, thương hàn, viêm gan A, giun sán,... các bệnh này góp phần gây suy dinh dưỡng và thiếu máu do thiếu sắt, làm kém sự phát triển và tử vong ở trẻ em và làm giảm sức khỏe cho người lớn cũng như cộng đồng dân cư. Người chết bởi những bệnh liên quan đến tiêu chảy chủ yếu là trẻ em [11]. Theo định nghĩa quốc tế, hố xí hợp vệ sinh bao gồm hố xí nối với cống thoát, có bể phốt, thấm dội nước, hố xí một ngăn hoặc hai ngăn. Còn hố xí không hợp vệ sinh là xô được đổ hàng ngày, hố xí chung hoặc hố xí lộ thiên... Theo định nghĩa này, tỷ lệ người thành thị ở nước ta có hố xí hợp vệ sinh khoảng 80%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ người sử dụng hố xí hợp vệ sinh rất thấp [13].Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 16,91% số hộ dùng hố xí tự hoại, 5,77% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 11 dùng hố xí thấm dội nước, 22,6% sử dụng hố xí 2 ngăn, 1,68% dùng hố xí chìm có ống thông hơi, 41,81% dùng hố xí khác và 11,18% số hộ không có hố xí. Trong đó khu vực các khu vực đồng bằng sông Cửu Long có số hố xí không hợp vệ sinh và không có hố xí cao nhất (81,58%), Khu vực Tây Bắc có tới 58,65 số hộ có hố xí không hợp vệ sinh và 27,18 số hộ không có hố xí, tiếp đến là khu vực Tây Nguyên tương ứng là 45,58 và 30%, khu vực Đông Bắc: 40,28 và 14,56% [31]. Như vậy, ở nước ta vấn đề hố xí hợp vệ sinh còn chưa tốt. Hoạt động vệ sinh môi trường chưa được chú ý nhất là ở vùng nông thôn. Nguy cơ môi trường bị ô nhiễm do phân người khá cao. Số hộ gia đình có hố xí được xem là hợp vệ sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm một tỷ lệ rất thấp (5,3% và 9,6%). Nơi có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sông Hồng (36,9% và 48%), thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí thùng, một ngăn rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở vùng Bắc Trung Bộ (68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). ở vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là cầu ao cá chiếm tỷ lệ 46,4%. Có tới 1/5 tổng số hộ gia đình (19,2%) không có hố xí tỷ lệ này, cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (42,9%), thấp nhất ở vùng Nam Bộ (2,8%) [5], [6]. Việc tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh thấp là nguy cơ tiềm tàng lây lan thành dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm trong cộng đồng dân cư. Tình hình vệ sinh môi trường ở miền núi phía Bắc chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội. Kinh tế còn nghèo nàn, văn hoá - xã hội chưa phát triển nên sức khoẻ của con người chưa được quan tâm. Vệ sinh môi trường ở khu vực này còn là hậu quả của những phong tục tập quán lạc hậu, môi trường bị ô nhiễm nặng chủ yếu do chất thải của người và gia súc không được xử lý hợp vệ sinh. Đa số đã xây dựng hố xí song phần lớn là hố xí tạm, hố xí không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [17]. Điều tra 214 hộ gia đình ở huyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 12 Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỉ lệ hộ gia đình không có hố xí là 25,52%, tỷ lệ hố xí không vệ sinh là 72,28% [34]. Một số vùng vẫn còn tập quán phóng uế bừa bãi như người H'Mông ở một số bản vùng sâu huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) là 100% [16], [17]. 1.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức thái độ thực hành về vệ sinh môi trường. 1.2.2.1. Phong tục, tập quán, thói quen của các tộc người. Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc. Theo kết quả tổng điều tra dân số toàn quốc 1999, cả nước có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có tiếng nói, phong tục, tập quán riêng, trong đó có những phong tục, tập quán ảnh hưởng đến sức khoẻ [17], [32]. Ví dụ người dân nuôi gia súc ở gầm nhà sàn và gần nhà, sử dụng nước sông, nước suối hoặc nước khe trong sinh hoạt và ăn uống, ít tắm giặt, không sử dụng hố xí [21]. Những phong tục, tập quán, thói quen trên rất chung và phổ biến, đã và đang ảnh hưởng rất lớn đối với sức khoẻ của cộng đồng. Tập quán nuôi gia súc dưới gầm sàn hoặc ở gần nhà, không sử dụng hố xí, dùng phân tươi để bón ruộng và hoa màu. Phân súc vật, phân người, không được thu gom và xử lý tốt, vẫn thải ra ngoài môi trường, trôi theo nước mưa và gây ô nhiễm các nguồn nước [25]. Nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm nguồn nước ăn uống và sinh hoạt của người dân miền núi phía Bắc là do tập quán thả rông gia súc, chất thải (phân) không được xử lý. Cần thay đổi, cải thiện tập quán, thói quen vệ sinh của người dân là một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách nhất hiện nay. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng, sự kết hợp giữa các hoạt động khác nhau của các đoàn thể xã hội mà công tác giáo dục và truyền thông có một vai trò và ý nghĩa to lớn [23], [24]. 1.2.2.2. Điều kiện về địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội tại khu vực sống của người dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 13 Kinh tế của các tỉnh của khu vực miền núi nói chung còn ở mức thấp, nền kinh tế vẫn còn mang tính tự túc, tự cấp, năng suất lao động xã hội chưa cao. Thu nhập bình quân hàng năm khoảng 150 đến 300 kg thóc/người, mặc dù nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận dân cư: Năm 2000 GDP bình quân đạt 400 USD/người, lương thực bình quân quy thóc đạt 455 kg/người. Số hộ nghèo ở khu vực này vẫn chiếm một tỷ lệ cao (hộ dân tộc Tày: 6,9%, Sán Dìu: 13,55%, Mông: 42,19%, Thái: 6,45%, Giáy: 21,6%, Mường: 14,47%), tỷ lệ hộ ở nhà tạm (Tày: 17,48%, Sán Dìu: 30,12%, Mông: 92,97%, Giáy: 35,6%) [17]. Đồng thời, văn hoá xã hội ở khu vực này cũng chậm phát triển. Trình độ học vấn của người dân còn ở mức thấp: trên 50,9% tiểu học, từ cấp trung học cơ sở trở lên chỉ có 47,1%, tỷ lệ mù chữ còn cao, vẫn còn nhiều xã, xóm bản chưa có điện lưới quốc gia. Họ thường phải vật lộn với cuộc sống khắc nghiệt, với mưu sinh hàng ngày, nên không đầu tư cho bảo vệ môi trường ở mức cần thiết. Thực trạng trên rõ ràng đã ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi những hành vi lành mạnh về sức khoẻ môi trường...[22], [24]. 1.2.2.3. Sự quan tâm của các ban ngành, đoàn thể về vệ sinh môi trường. Vấn đề nâng cao nhận thức cho cộng đồng và giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường bằng tăng cường truyền thông giáo dục sức khoẻ, năng cao kiến thức và thái độ của người dân về vệ sinh môi trường là hết sức cần thiết. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà các chương trình vệ sinh môi trường chưa đạt hiệu quả mong muốn. 1.2.3. Chính sách của Quốc tế và của Đảng, Nhà nước ta về vệ sinh môi trường: 1.2.3.1 Chính sách của Quốc tế. Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố lấy thập niên 1981-1990 làm thập niên cấp nước và vệ sinh Quốc tế. Năm 1992, Liên Hiệp Quốc cũng đã chính thức chọn ngày 22 tháng 3 hàng năm là Ngày quốc tế về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 14 nước nhắc nhở mọi người quan tâm hơn về nguồn nước [40]. Từ năm 1982 với sự tài trợ của tổ chức UNICEF, dự án cung cấp nước sinh hoạt nông thôn bắt đầu được triển khai. Từ năm 1996 đến 2000 UNICEF điều chỉnh mục tiêu chiến lược, kết hợp việc cung cấp nước sạch với giáo dục vệ sinh cơ bản; từ năm 1999 dự án đã thu hẹp tập trung vào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về nước sinh hoạt và các xã đặc biệt khó khăn của 37 tỉnh, thành phố. Tính đến năm 2003, UNICEF đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng trên 200.000 điểm cấp nước, cung cấp nước sạch sử dụng trong sinh hoạt cho trên 20 triệu người dân nông thôn. Chương trình đã làm thay đổi nhận thức của người dân trong tiếp cận, sử dụng nước sạch trong sinh hoạt và giữ gìn vệ sinh môi trường [42]. 1.2.3.2. Chính sách của Việt Nam: Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và nước sạch vệ sinh môi trường nói riêng. Hàng loạt các chủ trương chính sách đã được ban hành thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường [3], [41]. Chính phủ ban hành Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Quyết định số 124/1999/QĐ-TTg của Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg ngày 11/12/2006 về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn giai đoạn Thủ tướng 2006 - 2010 trong đó đã xác định cụ thể mục tiêu, phương châm và nguyên tắc cũng như các giải pháp thực hiện cơ bản [41]. Ta có thể dễ dàng nhận thấy sự ảnh hưởng của các yếu tố vệ sinh môi trường đến sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, cần thiết phải đánh giá đúng thực trạng hành vi của người dân trong việc vệ sinh môi trường cũng như kiến thức, thái độ, thực hành của người dân, các yếu tố ảnh hưởng và đề ra các giải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 15 pháp trước mắt cũng như lâu dài. Việc thực hiện nghiên cứu hành vi của người dân về vệ sinh môi trường sẽ giúp xỏc định cỏc yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vệ sinh mụi trường của người dõn, cho thấy các yếu tố hành vi trong việc vệ sinh môi trường sống sẽ ảnh hưởng ra sao đến khả năng ngăn ngừa bệnh tật lây lan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- 16 Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tƣợng nghiên cứu: - Chủ hộ trong các hộ gia đình. - Một số tài liệu thứ cấp như: hồ sơ, báo cáo, sổ sách lưu trữ về phòng chống dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm ở các trạm y tế. 2.2. Địa điểm nghiên cứu: Huyện Phổ Yên nằm phía Nam tỉnh Thái Nguyên. Gồm 15 xã và 3 thị trấn. Người dân trên địa bàn huyện chủ yếu làm nông nghiệp, kinh tế tương đối phát triển, còn tập quán sử dụng phân tươi bón ruộng. 2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 10 năm 2009. 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu: 2.4.1. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng phương pháp điều tra cắt ngang trong dịch tễ học mô tả để nghiên cứu. 2.4.2. Phương pháp chọn mẫu: 2.4.2.1. Cỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính theo công thức n = Z2 1- / 2 x pq/ d2 - Trong đó: n: là cỡ mẫu cần thiết; sai số d: là tỷ lệ ước định = 0,05 q = 1 – p = 0,5 Z1- /2 là hệ số tin cậy = 1,96 0,5 x 0,5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu thực trạng bệnh đái tháo đường điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Kạn
79 p | 2213 | 509
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu mật độ xương ở bệnh nhân nữ Basedow bằng máy hấp thụ tia X năng lượng kép tại bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ
67 p | 286 | 68
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Thực trạng nguồn lực và nhu cầu sử dụng y học cổ truyền của người bệnh tại trạm y tế Quận Thủ Đức năm 2020
97 p | 159 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Y học dự phòng: Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế tuyến xã, phường tỉnh Tuyên Quang
99 p | 94 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Mô hình bệnh tật và nguồn nhân lực Y học cổ truyền tại một số trung tâm y tế huyện thuộc tỉnh Kiên Giang
120 p | 81 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Khảo sát đặc điểm và chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị tại Bệnh viện Y học cổ truyền Bộ Công an
123 p | 28 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Đặc điểm bệnh tật và nguồn nhân lực tại khoa y học cổ truyền của bệnh viện Quân Y 175
108 p | 63 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Đặc điểm bệnh tật và nguồn nhân lực tại khoa Y học cổ truyền của Bệnh viên Quân y 175
108 p | 16 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Tổn thương cơ quan đích ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát được quản lý ngoại trú tại Bệnh viện Gang Thép Thái Nguyên
102 p | 70 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Đặc điểm lâm sàng và mối liên quan chỉ số non-HDL-C với các thể y học cổ truyền ở bệnh nhân rối loạn lipid máu tại Bệnh viện Đa khoa Gò Vấp
108 p | 61 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Đánh giá hiệu quả điều trị viêm âm đạo bằng phương pháp kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh
109 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của tràn dịch màng phổi do lao tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Nguyên
73 p | 54 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Tỷ lệ và ảnh hưởng của tật khúc xạ đến sức khỏe và học tập của học sinh Trung học cơ sở tỉnh Phú Thọ
85 p | 40 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu những thay đổi về chức năng thất trái bằng siêu âm Doppler tim ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2
77 p | 46 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Kết quả nuôi dưỡng tĩnh mạch ở trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
78 p | 47 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Thực trạng tự kỷ ở trẻ em từ 18 đến 60 tháng tuổi tại thành phố Thái Nguyên
81 p | 58 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Nghiên cứu tình trạng kháng Insulin ở bệnh nhân suy tim điều trị tại Bệnh viện A Thái Nguyên
84 p | 43 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Y học: Tỷ lệ mắc và chất lượng cuộc sống của học sinh tiểu học bị thừa cân, béo phì tại thành phố Lạng Sơn
86 p | 51 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn