Luận văn: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
lượt xem 21
download
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không mở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất, xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước trên thế giới có thể...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội
- Luận văn Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 1
- LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không m ở cửa nền kinh tế của mình. Xuất khẩu là một trong những cách thức mở cửa nền kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng nhất, xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Vì thế nhiều quốc gia xem việc thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Thúc đẩy xuất khẩu giúp các nước trên thế giới có thể khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của mình, đồng thời giảm thiểu được những bất lợi từ đó tạo ra được nhiều hàng hoá hơn, giúp người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều hơn với giá cả thấp hơn. cũng nhờ đó các quốc gia trên thế giới có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn, giảm dần chênh lệch giữa các quốc gia, góp phần làm cho quá trình phân công lao động quốc tế được thuận lợi hơn. Đối với Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là một hướng đi đúng đắn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi mà thị trường trong nước ngày càng chật hẹp và sức cạnh tranh từ hàng hoá ngoại nhập ngày càng tăng. Nhờ thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp có thể: + Có cơ hội mở rộng thị trường: đ ược hoạt động trên thị trường thế giới rộng lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng, sức tiêu thụ hàng hoá cao, khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn. + Cơ hội mở rộng mối quan hệ làm ăn kinh doanh với các đối tác nước ngoài, có thêm điều kiện học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng để ho àn thiện hoạt động kinh doanh của mình. + G óp phần cải thiện đời sống người công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp, gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngày 01/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO, rào cản thương mại được dỡ bỏ, cơ hội kinh doanh được mở rộng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Hoàn thiện việc thực hiện chiến lược kinh doanh hợp lý đủ sức cạnh tranh được với doanh nghiệp trong và ngoài nước là yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam. 2
- A: Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, hệ thống những vấn đề trong việc Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội – thực trạng và phương hướng phát triển, hiệu quả trong việc thúc đẩy sự ảnh hưởng của nó. Đánh giá những khó khăn và hạn chế trong việc phát triển ngành Công nghệ thông tin và Xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội. Trên cơ sở đó để có những giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại. B: Phương pháp nghiên cứu Bằng việc thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp, từ Internet, sách báo, tạp chí, các báo cáo tổng kết chiến lược của ngành Công nghệ thông tin trong những năm qua, sử dụng những số liệu để xử lý, phân tích và đánh giá số liệu trong quá khứ, làm cơ sở rút ra những nhận xét xác đáng, tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn. C: Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp của thành phố H à Nội. Nghiên cứu tổng quan về xuất khẩu không đi sâu vào khía cạnh nghiệp vụ xuát khẩu, nghiên cứu ở cấp độ ngành sản phẩm. D: Nội dung nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà N ội Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU:…………………………………………………………………. Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp 1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm 1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm 1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm 1.1.3: Đặc trưng sản phẩm phần mềm 1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm 1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh 1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh 1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu 1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội 2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm 2.1.2: Thực trạng nguồn lực cho sản xuất phần mềm 2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội 2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp H à Nội 2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà N ội 2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần mềm 2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 4
- 3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp H à Nội 3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm 3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm 3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.3: Kiến nghị 5
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU PHẦN MỀM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm 1.1.1: Khái niệm và phân lo ại sản phẩm phần mềm Khái niệm: Phần m ềm đ ược hiểu là chương trình, là tài liệu mô tả chương trình, tài liêu hỗ trợ, nội dung thông tin số hoá. - Chương trình là một tập hợp của các lệnh, câu lệnh được mô tả bằng bất kỳ ngôn ngữ, mã hay hệ thống ký hiệu nào và được thể hiện hoặc lưu trữ trong các vật mang tin (có hoặc không kèm theo các thông tin liên quan), được dùng trực tiếp hoặc dùng gián tiếp sau khi qua một hoặc cả hai khâu sau: Tái tạo sang một vật mang tin khác; làm cho một dụng cụ có khả năng xử lý thông tin thực hiện một chức năng nào đó. Chuyển đổi sang môt ngôn ngữ, mã, hệ thôngs ký hiêu khác. - Tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ là tài liệu đ ược thể hiện dưới bất kỳ dạng nào có nội dung mô tả chương trình, giới thiệu, hướng dẫn cách cài đặt, sử dụng, nâng cấp, sửa lỗi hoặc các hướng dẫn khác liên quan đến sử dụng và khai thác chương trình. - Nội dung thông tin số hoá bao gồm: Cơ sở dữ liệu là tập hợp dữ liệu được sắp xếp và lưu trữ dưới dạng điện tử số hoá. Sưu tập tác phẩm số hoá là sưu tập tác phẩm được lưu trữ dưới dạng điện tử số hoá. 6
- * Mặc dù chúng ta không thể định nghĩa nhưng khái niệm sản phẩm phần mềm được hiểu như là một hệ thống chương trình thực hiện một nhiệm vụ tương đối độc lập nhằm phục vụ cho một ứng dụng cụ thể trong cuộc sống của con người (và có thể được thương m ại hoá). Sản phẩm phần mềm là là phần mềm đ ược sản xuất và được thể hiện hay lưu trữ ở bất kỳ một dạng vật thể nào có thể được mua bán hoặc chuyển giao cho đối tượng khác sử dụng. Ví dụ các sản phẩm phần mềm: Hệ điều hành: MS – DOS, OS/2, Unix OS… Hệ điều hành mạng máy tính: Unix, Novell Netware, Windows NT… và các ứng dụng trên mạng LAN, WAN, Internet/Intranet (các Browsers, các dịch vụ khai thác Internet…). Các ngôn ngữ lập trình (chương trình dịch): Turbo Pascal, Turbo C… Hệ quản trị cơ sở dữ liệu: Microsoft Foxpro, Microsoft Access, Oracle… Microsoft Windows và các ứng dụng trên Windows. Các trò chơi (Games) Dưới đây là b ảng tóm tắt quá trình tiến hoá của sản phẩm phần mềm: Xử lý theo lô (Batch Processing) Thời kỳ đầu tiên Phần mềm được viết theo đơn đặt 1950 – 1960 hàng Đa người dùng (Multiusers) Thời kỳ thứ hai Thời gian thực (Real Time) Cơ sở dữ liệu (Database) 1969 – 1970 Phần mềm sản phẩm) Hệ thống xử lý phân bổ (Distributed processing system) Thời kỳ thứ ba Thông minh (Intelligence) Phần cứng giá thành hạ 1970 – 1990 Hiệu quả tiêu thụ Hệ thống để b àn (Desktop – Personal 7
- – Notebook Computers) Lập trình hướng tới đối tượng (Object oriented programming) Thời kỳ thứ tư Lập trình trực quan (Visual 1990 trở đi programming) Hệ chuyên gia (Expert system) Mạng thông tin toàn cầu (Worldwide communication network) Xử lý song song (Paralell processing) … Phân loại: - Phần mềm nhúng là phần mềm được nhà sản xuất thiết bị cài sẵn vào thiết bị và chúng được sử dụng ngay cùng với thiết bị mà không cần có sự cài đặt của người sử dụng hay người thứ ba. - Phần mềm đóng gói là sản phẩm phần mềm có thể sử dụng được ngay sau khi người sử dụng hoặc nhà cung cấp dịch vụ cài đ ặt vào các thiết bị hay hệ thống. Các phần mềm này thường được cung cấp qua dạng đĩa mềm, đĩa CD; qua bất kể vật mang tin nào khác hay thông qua mạng máy tính. Phần mềm đóng gói thường được phân ra hai loại: phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng. Ví dụ: hệ điều hành, các công cụ phát triển, các ngôn ngữ lập trình, xử lý văn bản, bảng tính, diệt virus, kế toán, dạy học, quản lý tài chính, quản lý vật tư, các phần mềm tính toán khoa học kỹ thuật, đồ hoạ, v.v… - Phần mềm chuyên d ụng là sản phẩm phần mềm được phát triển theo yêu cầu cụ thể và riêng biệt của khách hàng. Phần mềm chuyên dụng có thể được phát triển từ đầu hoặc được thiết kế theo yêu cầu của khách hàng dựa trên cơ sở các phần mềm có sẵn trên thị trường. - Sản phẩm thông tin số hoá là nội dung thông tin số hoá được lưu trữ trên một vật thể nào đó. 1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm 8
- Về mặt thiết kế Tùy theo mức độ phức tạp của phần mềm tạo ra, người thiết kế phần mềm sẽ ít dùng đến các phương tiện để tạo ra mẫu thiết kế theo ý muốn (chẳng hạn như các sơ đồ khối, các lưu đồ, các thuật toán và các mã giải), sau đó mẫu này được mã hóa bằng các ngôn ngữ lập trình và được các trình dịch chuyển thành các khối lệnh “module” và các tập khả thi. Tập hợp các tệp khả thi và các khối lệnh làm thành m ột phần mềm. Thường khi một phần mềm được tạo thành, để cho hoàn hảo thì phần mềm đó phải được điều chỉnh hay sửa chữa từ khâu thiết kế cho đến khâu tạo thành phiên b ản phần mềm một số lần. Một phần mềm thông thường sẽ tương thích với một hay nhiều hệ điều hành, tùy theo cách thiết kế, cách viết mã nguồn và ngôn ngữ lập trình được dùng. Về mặt sản xuất phần mềm V iệc phát triển và đưa ra thị trường của một phần mềm là đối tượng nghiên cứu của bộ môn công nghệ phần mềm kĩ thuật phần mềm hay còn gọi là công nghệ phần mềm “Software Engineering”. Bộ môn này nghiên cứu các phương pháp tổ chức, cách thức sử dụng nguồn tài nguyên, vòng quy trình sản xuất, cùng với các mối quan hệ với thị trường, cũng như liên hệ giữa các yếu tố này với nhau. Tối ưu hóa quy trình sản xuất phần mềm cũng là đối tượng được xét của bộ môn. Có thể mô tả quá trình sản xuất một sản phẩm phần mềm trải qua các giai đoạn bằng hình sau: Bước 2: Thiết kế của chủ trì đề Bước 1: Ng ười đặt hàng tài(Công ty công viên) 9
- Bước 3: Sản phẩm của người Bước 4: Sau khi sửa sai với lập trình những sáng kiến cải tiến Bước 5: Triển khai đến khách B ước 6: Ước mơ của ng ười sử hàng dụng 1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm 1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh * Lý thuyết của Adam Smith Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX, người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723 – 1790) và sau đó được tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề. 10
- Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hoá này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau. V í dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mỳ, ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vảI vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa mỳ còn nước Anh sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất đ ược nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mỳ hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mỳ để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả hai nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại lẫn nhau. * Lý thuyết của David Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của Adam Smith là không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đ ã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của Adam Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo David Ricardo thương mại giữa hai quốc gia dựa trên lợi thế tương đối, lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau. Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả hai nước sẽ cùng thu được lợi ích thông qua thương mại. Ví dụ: Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa m ỳ. Chi phí sản xuất hàng d ệt may của nước X và Y là: a 11
- Chi phí sản xuất lúa mỳ của nước X và Y là: b + N ếu a< b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và nhậo khẩu hàng dệt may và ngược lại nước Y chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu lúa mỳ. Sau quá trình chuyên môn hoá và thương mại, tổng sản phâmr hàng dệt may và lúa mỳ mà 2 nước sản xuất đều tăng lên về số lượng hàng hoá mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. * Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đ ã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các ngồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác. Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đI 2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm một đơn vị của thép. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vởy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh với một một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất… 1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh tồn tại khi có sự phù hợp giữa những khả năng đặc biệt của một hãng với những nhân tố quyết định thành công trong ngành, điều này cho phép hãng hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Có 2 cách cơ b ản để đạt được lợi thế cạnh tranh. Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi một hãng theo đuổi một chiến lược chi phí thấp, điều này cho phép hãng chào bán những sản phẩm với giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh cũng có thể đạt được bởi một chiến lược phân biệt sẩn phẩm, do vậy khách 12
- hàng nhận thức được những lợi ích duy nhất nên họ đồng tình với một mức giá chênh lệch so với đối thủ cạnh tranh. Chú ý rằng cả hai chiến lược này đều có tác động như nhau: làm tăng giá trị nhận thức của khách hàng. Chất lượng của một chiến lược của một hãng cuối cùng sẽ được đánh giá bởi kết quả - doanh số bán hàng, lợi nhuận, hoặc một vài chỉ số đo lường khác. Những kết quả này lần lượt phụ thuộc vào mức độ giá trị tạo ra cho khách hàng: giá trị m à khách hàng nhận thức được càng lớn thì chiến lược càng tốt. Tóm lại, lợi thế cạnh tranh có thể đạt đ ược bằng cách tạo ra giá trị nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh và giá trị được xác định bởi khách hàng. Michael Porter đã phát triển một nền móng cho những chiến lược kinh doanh tổng hợp dựa trên 2 hình thức lợi thế cạnh tranh: chi phí thấp và sự khác biệt. Sự kết hợp giữa 2 hình thức này với phạm vi của thị trường mục tiêu (phạm vi rộng hoặc hẹp) hay độ rộng sản phẩm hỗn hợp (hẹp hoặc rộng) sẽ mang lại 3 chiến lược chung: dẫn đầu chi phí, khác biệt hoá và trọng tâm hoá. Chiến lược dẫn đầu về chi phí: Mục đích của công ty trong việc theo đuổi sự dẫn đầu về chi phí hộăc chiến lược chi phí thấp là hoạt động tốt hơn (có lợi thế hơn) các đối thủ cạnh tranh bằng việc thực hiện các chính sách và biện pháp để có thể sản xuất hàng hoá ho ặc dịch vụ ở chi phí thấp hơn các đối thủ. Trong môi trường quốc tế, cần đánh giá chiến lược này theo 2 phương diện: phương diện Marketing và phương diện sản xuất. Về phương diện Marketing, việc tìm kiếm các thị trường mới cho phép tăng cầu tiềm năng và đạt được mức sản xuất tối ưu nhất. Để quá trình này tạo ra được tác động tối ưu, cần phải thiết kế những sản phẩm theo tiêu chuẩn to àn cầu hoặc ít ra là theo tiêu chuẩn châu lục. Chúng ta cũng biết rằng việc tung sản phẩm ra thị trường quốc tế sẽ cho phép kéo d ài chu kỳ sống của sản phẩm và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hiệu ứng kinh nghiệm. Trong trường hợp đòi hỏi chi phí để thích ứng với điều kiện đặc thù, cần phải tính toán và so sánh giữa chi phí đầu tư đặc biệt và khả năng sinh lời. Về phương diện sản xuất, việc dịch chuyển sản xuất để hưởng chi phí nhân công thấp trong một số khu vực của thế giới đã trở nên khá quen thuộc. Chính 13
- vì vậy, việc tìm kiếm một tổ chức sản xuất hợp lý nhất trở thành phương tiện tạo nên lợi thế cạnh tranh. Thực vậy, tổ chức quốc tế về sản xuất gắn liền với quy mô tối ưu tương ứng với khối lượng sản xuất cho phép giảm chi phí trung bình ở mức tối thiểu. Nếu quy mô tối ưu ngang bằng với khối lượng của từng thị trường thì công ty có thể xây dựng mỗi nhà máy cho từng thị trường và lựa chọn chiến lược đa quốc gia. Trong trường hợp quy mô tối ưu cao hơn khối lượng của từng thị trường, phải xây dựng nhà máy chuyên môn hốa cho nhiều thị trường (nhất là các thị trường trong khu vực). Nếu quy mô tối ưu nhỏ hơn khối lượng của từng thị trường, chỉ nên xây d ựng một nhà máy duy nhất cung cấp cho thị trường thế giới. Hợp nhất hay liên kết sản xuất xuyên quốc gia là một vấn đề cơ bản của chiến lược khối lượng/chi phí. Có 3 giải pháp về tổ chức: thứ nhất, tổ chức sản xuất đa quốc gia trong đó các đơn vị sản xuất không chuyên môn hoá sẽ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho thị trường nhất định. Thứ hai, toàn cầu hoá bằng hợp nhất theo chiều ngang xuyên quốc gia, điều này sẽ dẫn đến việc chuyên môn hoá theo sản phẩm hoặc dòng sản phẩm của mỗi đơn vị sản xuất; mỗi đơn vị đều có nhiệm vụ thoả m ãn nhu cầu của thị trường thế giới hoặc châu lục. Thứ ba, to àn cầu hoá bằng hoà nhập hay liên kết theo chiều dọc xuyên quốc gia. Thực chất đó là sự phân chia quá trình sản xuất và bố trí các giai đoạn sản xuất khác nhau trên nhiều thị trường. Mỗi đơn vị có trách nhiệm thực hiện một giai đoạn sản xuất. Chiến lược khác biệt hoá: Mục đích của chiến lược khác biệt hoá là để đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc tạo ra sản phẩm – hàng hoá hoặc dịch vụ – mà được người tiêu dùng nhận thức là độc đáo nhất theo nhận xét của họ. Khả năng của một công ty khác biệt hoá sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng theo cách mà các đối thủ cạnh tranh không thể có, nghĩa là nó có thể đặt giá cao hơn – giá cao hơn đáng kể so với mức trung b ình của ngành. Khác với chiến lược nhấn mạnh chi phí (dựa vào ưu thế cạnh tranh bên trong hay khả năng làm chủ chi phí), chiến lược khác biệt hoá dựa vào ưu thế cạnh tranh b ên ngoài, tức là mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Chiến lược khác biệt hoá cũng có thể thựcc hiện thông qua dịch vụ cung ứng con người và hình ảnh. Nhiều công 14
- ty áp dụng chiến lược khác biệt hoá dựa trên sự thay đổi “chuỗi giá trị”. Căn cứ vào chuỗi giá trị, nếu công ty có lợi thế trong việc thực hiện các hoạt động cơ bản hỗ trợ cuối nguồn, chiến lược khác biệt hoá tỏ ra hữu hiệu nhất. Khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ cho phép doanh nghiệp thoát khỏi áp lực cạnh tranh. Trên th ị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ khả năng khác biệt hoá mạnh mẽ so với các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, đ ể chiến lược khác biệt hoá đem lại kết quả mong muốn, sự khác biệt hoá về sản phẩm hay nhãn hiệu của công ty phải được nhận thức và bền vững. Để làm được điều này công ty cần phải thực hiện những cố gắng to lớn về giao tiếp, truyền tin. Nói cách khác, sự thành công của chiến lược khác biệt hoá phụ thuộc phần lớn vào chất lượng và hiệu quả. Phương thức này cho phép nâng cao khả năng khác biệt hoá so với cạnh tranh, đặc biệt đối với lĩnh vực dịch vụ. Chiến lược trọng tâm hoá: chiến lược trọng tâm hoá dựa trên lợi thế cạnh tranh là tập trung các nguồn lực cho phép phát huy tối đa năng lực của công ty. Chiến lược này được thực hiện hoặc thông qua khả năng khác biệt hoá, hoặc chi phí thấp hoặc cả hai. Về phương diện Marketing, khi công ty tấn công thị trường thế giới điều quan trọng trước tiên là phải tiến hành phân đoạn thị trường để thực hiện to àn cầu hoá. Công ty càng hoạt động trên một đoạn thị trường hẹp bao nhiêu thì càng phải phát triển mạnh mẽ thị trường về mặt địa lý. Như vậy phân đoạn thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tình hình này rất điển hình trong một thế giới mà công nghệ mới xuất hiện thường xuyên. Thực vậy thị trường hẹp và mới phát triển đòi hỏi chi phí nghiên cứu và phát triển rất lớn nên cần thiết phải thu hồi vốn đầu tư nhanh để giảm thiểu rủi ro: công ty hoặc là phát triển quốc tế hoặc là bị thất bại. Tuy nhiên, khi các hoạt động quốc tế phát triển công ty cần thiết phải tăng cường kiểm soát thị trường, tức là kiểm soát hình ảnh trên tất cả các thị trường. Việc lựa chọn định hướng chiến lược này thường đòi hỏi ưu tiên các giải pháp thâm nhập thị trường với mức độ làm chủ hoàn toàn. Về phương diện sản xuất, chiến lược trọng tâm hoá vẫn theo đuổi lôgic chi phí tối thiểu. Chính vì vậy việc dịch chuyển các cơ sở sản xuất sang những nước 15
- có các yêu tố đầu vào phong phú và rẻ là một sự lựa chọn thường thấy khi mà khối lượng và các điều kiện kinh tế cho phép. Ràng buộc quan trọng nhất là phải đảm bảo giữ vững hình ảnh chuyên môn hoá; hình ảnh nhãn hiệu của công ty cũng cần xuất hiện và được củng cố tại các địa điểm sản xuất nước ngoài. 1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu Một hậu quả không thể tránh khỏi trong việc mở rộng hoạt động Marketing toàn cầu là sự tăng trưởng cạnh tranh trên toàn thế giới. Từ ngành này sang ngành khác cạnh tranh toàn cầu là một nhân tố quyết định tác động đến thành công, trong một vài ngành các công ty toàn cầu gần như ngăn cản tất cả các công ty khác tham gia vào thị trường của họ. Thí dụ: Công nghiệp chất tẩy tại đó 3 công ty – Colgate, Unilever, và Procter&Gamble – chiếm số lượng ngày càng tăng trên thị trường chất tẩy. Nhiều công ty có thể làm ra được một sản phẩm tẩy rửa chất lượng nhưng những kỹ năng cần phải có trong mẫu bao bì có chất lượng, lại đang tràn ngập trong cạnh tranh khu vực từ thị trường này sang thị trường khác. Tác động của cạnh tranh toàn cầu mang lại lợi ích cao cho những người tiêu dùng trên khắp thế giới. Trong ví dụ trên về công nghiệp chất tẩy tại Trung Mỹ, khách hàng thường có được lợi ích. ở Trung Mỹ giá chất tẩy đã giảm do kết quả của cạnh tranh toàn cầu. Cạnh tranh toàn cầu làm mở rộng lĩnh vực sản xuất và tăng cường khả năng theo đó người tiêu dùng sẽ nhận được những gì họ muốn. Mặt trái của cạnh tranh toàn cầu là tác động của nó lên các nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Cạnh tranh toàn cầu tạo ra giá trị cho người sử dụng nhưng nó cũng làm giảm số lượng việc làm. Khi một công ty ở bên kia thế giới đưa lại cho khác hàng một sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn thì công ty này lại tước đoạt từ nhà cung ứng nội địa một khách hàng. Trừ phi nhà cung ứng nội địa có thể tạo ra những giá trị mới và tìm kiếm những khách hàng mới, nếu không công việc và khả năng của nhân công công ty nội địa sẽ bị đe doạ. Chính sách thương mại của một quốc gia cuối cùng là nhiệm vụ của chiến lược cạnh tranh. Một quốc gia thành công trong việc chuyển đổi các nguồn lực bao gồm cả lao động 16
- lên những mức sử dụng cao hơn và tốt hơn thì có thể chấp nhận sự giảm sút số lượng công việc sản xuất được trả lương tốt. Chúng ta xem xét 2 trường hợp hoạt động của một hãng ho ặc một ngành: Trường hợp thứ nhất là một hãng và ngành nội địa, không có bất kỳ một hoạt động mang tính quốc tế nào. Trường hợp thứ hai là những hãng và ngành công nghiệp toàn cầu. Giữa hai thái cực này có rất nhiều các mức độ đa dạng về những ngành, những hãng đa quốc gia và mang tính quốc tế. Những hãng này có đặc điểm là tự lập hoặc hầu hết là tự lập những công ty trực thuộc tại một số nước. Hoạt động của đ ơn vị này tại bất kỳ quốc gia nào thường là độc lập với hoạt động của những đ ơn vị ở những quốc gia khác. Những công ty trực thuộc ở nước ngoài thuộc bất cứ một hãng nào nhất thiết phải trở thành những hãng “trong nước” của quốc gia mà tại đó chúng đang hoạt động. Không có m ột chiến lược hoà nhập toàn cầu thay vào đó sẽ có những chiến lược quốc gia độc lập. Các hãng toàn cầu phải hoà nhập những chiến lược toàn cầu mà những chiến lược này tách bạch những hoạt động của một đơn vị tại một quốc gia bất kỳ với một số mức độ ho ạt động của những đơn vị ở các quốc gia khác. Có 4 khía cạnh liên quan đ ến biểu tượng quốc gia, có tác dụng đóng góp hoặc làm giảm giá trị việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của những hãng, của những quốc gia đó. Những biểu tượng này được xem như là “viên kim cương” quốc gia: Các điều kiện về nhân tố nguồn lực: D ưới hình thức đơn giản nhất các điều kiện nhân tố ám chỉ đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Những nhân tố này được tạo ra trong một quốc gia bởi tầm quan trọng đặc biệt của mình, chúng được phân biệt với những thứ khác mà quốc gia đó thừa kế. Có 5 loại nhân tố: nguồn nhân lực, nguồn vật chất, nguồn tri thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Nguồn nhân lực: Số lượng nhân viên làm việc, kỹ năng mà họ có được, mức lương, và đạo đức làm việc của lực lượng lao động, tất cả tạo thành nguồn nhân lực của một quốc gia. Một đất nước với lượng cung lớn về nhân công trả lương thấp có được lợi thế rõ ràng trong việc sản xuất đòi hỏi kỹ năng thấp, sản 17
- phẩm cần nhiều lao động. Mặt khác những quốc gia như vậy thường xuyên gặp phải bất lợi khi nó tiến hành sản xuất những sản phẩm tinh vi đòi hỏi khả năng kỹ năng nhân công cao mà không có sự kiểm soát trên phạm vi rộng. Nguồn lực vật chất: Tính khả d ụng, số lượng, chất lượng và trị giá đất đai, nước, kháng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác xác định nguồn lực vật chất của một quốc gia. Quy mô và vị trí của một quốc gia cũng được bao gồm trong phạm trù này bởi vì khoảng cách gần thị trường và nguồn cung cấp cũng như chi phí vận tải được xem là mối quan tâm chiến lược. Những nhân tố này rõ ràng là những lợi thế hoặc bất lợi quan trọng đối với những ngành công nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Nhân tố tri thức: Tính khả dụng về sự hiểu biết của một lượng dân cư đáng kể liên quan đ ến thị trường, khoa học, công nghệ của một quốc gia, nghĩa là quốc gia đó được trời ban cho nguồn tri thức. Những nhân tố này hết sức quan trọng để đạt được thành công trong sản xuất sản phẩm và dịch vụ tinh vi và để tiến hành kinh doanh trong thị trường phức tạp. Nhân tố nguồn vốn: Các quốc gia thường thay đổi khả năng sử dụng, số lượng , chi phí và các hình thức sử dụng vốn của các ngành công nghiệp. Tỷ lệ tiết kiệm, lãi suất, luật thuế và thâm hụt ngân sách Chính phủ của một quốc gia, tất cả đều tác động đến khả năng sử dụng các nhân tố này. Lợi thế, đối với những ngành chi phí vốn thấp thường tốt hơn những ngành khác ở những quốc gia với chi phí vốn tương đ ối cao, đôi khi mang tính quy ết định. Nguồn lực về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống ngân hàng, hệ thống chăm sóc sức khoẻ, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống liên lạc và khả năng sử dụng cũng như chi phí sử dụng những hệ thống này của một quốc gia. Nhiều ngành công nghiệp tinh vi đ ã phải phụ thuộc nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng nâng cao để có được sự thành công. Lợi thế cạnh tranh sẽ được mang lại cho một ngành công nghiệp quốc gia nếu một loạt các nhân tố hỗn hợp được sử dụng đối với ngành đó thúc đẩy việc theo đuổi một chiến lược chung: sản xuất với chi phí thấp hoắc san xuất sản phẩm hay dịch vụ với sự khác biệt. Lợi thế cạnh tranh 18
- cũng có thể đ ược các quốc gia tạo ra nếu những quốc gia này gặp những bất lợi về nhân tố đã lựa chọn. Ví dụ: Sự thiếu hụt lực lượng lao động cố thể buộc các hãng phát triển những hình thức cơ giới hoá, với hình thức này sẽ mang lại lợi thế cho các hãng. Chi phí vận tải cao có thể thúc đẩy các hãng phát triển những nguyên liệu mới mà chúng không đắt khi vận chuyển. Các điều kiện về cầu: b ản chất của các điều kiện về cầu nội địa đối với những sản phẩm hay dịch vụ của một hãng hoặc một ngành là rất quan trọng bởi chúng xác định nên tỷ lệ và áp lực đối với việc cải tiến và đổi mới do các hãng thực hiện trong một quốc gia. đây cũng là nhân tố hoặc là giúp “đào tạo” các hãng có sức cạnh tranh ở tầm cỡ thế giới hoặc là b ị thất bại hoàn toàn trong việc chuẩn bị để có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Một số đặc điểm về cầu nội địa là đặc biệt quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh, chẳng hạn như: kết cấu cầu nội địa, quy mô và hình thức tăng trưởng cầu nội địa… Kết cấu nội địa đ ược xác định bằng cách các hãng nhận thức, nắm rõ và đ áp ứng đ ược những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi cầu nội đ ịa mang lại cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về những nhu cầu của người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Lợi thế này càng được thúc đẩy khi chính những người mua nội địa buộc các doanh nghiệp quốc gia họ phải đổi mới nhanh chóng và thường xuyên. Nền tảng của lợi thế này bắt nguồn từ chỗ, khi các doanh nghiệp trở nên nhạy cảm hơn và đáp ứng nhanh hơn nhu cầu nội địa và nếu nhu cầu ở thị trường nội địa phản ánh hoặc mô phỏng trước nhu cầu thế giới thì các doanh nghiệp quốc gia có thể giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trưòng. Quy mô và mô hình tăng trưởng cầu nội địa càng trở nên quan trọng khi kết cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu cầu bên ngoài. N ừu cầu nội địa phản ánh một cách đúng đắn hoặc mô phỏng trước được nhu cầu b ên ngoài và nếu các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc phục vụ thị trường nội địa thì sự tồn tại của các đơn vị sản xuất và các chương trình quy mô lớn sẽ là một lợi thế cạnh tranh toàn cầu. 19
- Sự tăng trưởng thị trường nội địa một cách nhanh chóng là m ột điều khuyến khích khác nữa để đầu tư vào và chấp nhận những công nghệ mới một cách nhanh hơn và để xây dựng nên các đơn vị sản xuất có hiệu quả và quy mô lớn. Một cầu nội địa mới, đặc biệt là nếu nó mô phỏng trước đ ược nhu cầu thế giới, sẽ mang lại cho các doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với các đối thủ cạnh tranh khi tham gia vào nước ngoài. Một điều quan trọng hơn nữa là sự bão hoà thị trường mong đợi, điều này sẽ đặt áp lực lên một công ty là phải mở rộng những thị trường quốc tế và tiếp tục đổi mới. Bão hoà thị trường đặc biệt quan trọng nếu nó xảy ra đồng thời với sự tăng trưởng nhanh chóng của các thị trường nước ngoài. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có m ối tương quan: Việc hiện diện của các ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế của một quốc gia trên thị trường có mối liên quan hoặc hỗ trợ trực tiếp cho những ngành khác, có thể đưa lại cho những ngành này một lợi thế cạnh tranh. Các ngành công nghiệp cung ứng cạnh tranh ở tầm quốc tế cung cấp những sản phẩm đầu vào cho những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng đ ến lượt m ình những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ cạnh tranh ở tầm quốc tế về mặt giá cả và chất lượng. Những ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm đầu vào và với những công nghệ để sản xuất ra chúng, và với những cơ cấu quản lý và cơ cấu tổ chức nhằm làm cho những ngành này trở nên cạnh tranh hơn. Những lợi thế tương tự cũng được mang lại khi có những ngành công nghiệp có mối tương quan quốc tế trong một quốc gia. Những cơ hội này được sử dụng để phối hợp và chia sẻ những hoạt động của dây chuyền đơn vị sản xuất. Cạnh tranh, cơ cấu và chiến lược của hãng: Sự khác nhau giữa loại hình quản lý, kỹ năng tổ chức và triển vọng chiến lược tạo ra những lợi thế và b ất lợi cho các hãng trong việc cạnh tranh giữa các ngành khác nhau cũng như tạo ra sự khác biệt trong cường độ cạnh tranh nội địa. Ví dụ: Tại Đức loại hình quản lý và cơ cấu của công ty có xu hướng sắp xếp theo trật tự. Giám đốc điều hành thường tiến thủ từ vị trí có kiến thức về công 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian qua”
78 p | 2024 | 886
-
Luận văn: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
41 p | 382 | 113
-
Luận văn: Thực trạng hoạt động xuất khẩu và một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc tại công ty cổ phần may Lê Trực
88 p | 391 | 101
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp trong hoạt động xuất khẩu hàng TCMN tại công ty Artex –Hà Nội
41 p | 231 | 90
-
Luận văn: Thực trạng xuất khẩu và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian tới
115 p | 240 | 74
-
Luận văn: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
41 p | 559 | 71
-
Đề tài: Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ
39 p | 316 | 66
-
Luận văn: Thực trang xuất khẩu hàng giai đoạn 1998 - 2001 và một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới
90 p | 209 | 62
-
Luận văn: Thực trạng xuất khẩu và một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt Nam
70 p | 191 | 49
-
LUẬN VĂN: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix
119 p | 184 | 47
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp mở rộng hoạt động xuất khẩu và khái quát về xuất khẩu chè của công ty xuất nhập khẩu Nông Sản Hà Nội
89 p | 190 | 46
-
Luận văn: Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc xuất khẩu của thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua
85 p | 201 | 43
-
LUẬN VĂN: Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam đến năm 2020
126 p | 212 | 43
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX
78 p | 210 | 33
-
Luận văn: Phân tích thực trạng xuất khẩu và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty Cung ứng Dịch Vụ Hàng Không
47 p | 178 | 32
-
Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của công ty TNHH NN một thành viên XNK và đầu tư Hà Nội – UNIMEX HANOI sang thị trường ASEAN
78 p | 139 | 26
-
Luận văn: Thực trạng và biện pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu gạo ở Công ty Lương Thực Cấp I Lương Yên
67 p | 124 | 18
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ
40 p | 158 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn