intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT.Lời mở

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

140
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để quản lý và điều hành đất nước có hiệu quả, bất cứ một bộ máy nhà nước nào cũng cần phải xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và hợp lí vì mỗi chính sách thuế có vị trí lịch sử trong một giai đoạn nhất định, và nó chỉ có thể đáp ứng mục tiêu kinh tế xã hội và chính trị ở giai đoạn đó thôi. Nếu kéo dài giai đoạn áp dụng cho một hệ thống thuế quá mức cần thiết, nó sẽ gây trì trệ cho nền kinh tế. Cũng như vậy, nếu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT.Lời mở

  1. LUẬN VĂN: Thuế GTGT và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT
  2. Lời mở đầu Để quản lý và đ iều hành đất nước có hiệu quả, bất cứ một bộ máy nhà nước nào cũng cần phải xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và hợp lí vì mỗi chính sách thuế có vị trí lịch sử trong một giai đoạn nhất đ ịnh, và nó chỉ có thể đáp ứng mục tiêu kinh tế xã hội và chính trị ở giai đoạn đó thôi. Nếu kéo dài giai đoạn áp dụng cho một hệ thống thuế quá mức cần thiết, nó sẽ gây trì trệ cho nền kinh tế. Cũng như vậy, nếu không mạnh dạn, kịp thời áp dụng một hệ thống thuế mới thì nền kinh tế cũng sẽ bị lạc hậu, không theo kịp bước tiến của thế giới, của thời đại. Việc đưa thuế TGGT vào áp dụng thay cho thuế doanh thu ở VN hiện nay chính là để tránh những sai lầm đó. Chính vì tính cấp thiết và tầm quan trọng của vấn đề, nên em chọn đ ề tài: “ Thuế GTGT và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế GTGT”. Trong quá trình thực hiện, em đã rất cố gắng để hoàn thành tốt nhất đề án này. Nội dung I/Một số vấn đề cơ bản về thuế trị giá gia tăng 1.Bản chất của thuế: Bất cứ một nước nào trên thế giới cũng có thuế. Sự ra đời và phát triển của thuế gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước trong lịch sử loài người. Xã hội loài người càng văn minh, tiến bộ thì thuế khoá càng phát triển và phương thức đánh thuế cũng tinh vi hơn khiến cho người dân nộp thuế mà không biết rằng mình bị thu thuế. Thuế là khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc được Nhà nước quy định thành luật để mọi người dân trong diện nộp thuế phải nộp. Khoản nộp này sẽ được Nhà nước lấy ra chi dùng cho những việc chung của quốc gia. Thuế th ường thu bằng tiền, ngoại trừ một số ít quốc gia thu bằng hiện vật trên một số ít những tài vật mà khó qui đổi thành tiền. Thuế thu vĩnh viễn, không hoàn trả lại người dân song người dân vẫn được nhận lại một phần thuế đã nộp thông qua phúc lợi xã hội.
  3. 2. Thuế dưới chính quyền Cách mạng VN Thuế dưới chính quyền Cách mạng nước ta gắn liền với sự ra đ ời và phát triển của Nhà nước dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách thuế phả i phục vụ nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội của ta qua từng giai đoạn, có thể khái quát các thời kì chủ yếu sau đây: 2.1. Thời kì Cách mạng dân tộc dân chủ (1945 - 1954) Sau Cách mạng tháng Tám thành công ngày 7/ 9/ 1945 Chính phủ đã kí sắc lệnh số 11 xoá bỏ chế độ thuế khắc nghiệt dưới chế độ thực dân, phong kiến, đặc biệt là xoá bỏ thuế thân và các chế độ độc quyền về thuốc phiện, rượu, muối. Mãi đến giữa năm 1951, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Nhà nước lần lượt ban hành hệ thống chính sách thuế đầu tiên dưới chính quyền cách mạng. Trong hệ thống thuế mới, thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật giữ vai trò đặc biệt quan trọng, bảo đảm lương thực phục vụ bộ đội "ăn no đánh thắng", góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Thuế công thương nghiệp đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh gồm thuế doanh nghiệp, thuế quán hàng, thuế buôn chuyến. Thuế hàng hoá áp dụng đ ối với một số hàng hoá đặc biệt nhằm hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm đ ối với một số hàng hoá mang tính xa xỉ. Thuế nhập khẩu áp dụng đối với hàng hoá lưu thông giữa các vùng tự do và vùng bị chiếm nhằm mục đ ích "đấu tranh kinh tế với địch". Thuế sát sinh đánh vào hoạt động giết mổ lợn, trâu, bò, dê, ngựa... và thuế trước bạ đánh vào chuyển dịch tài sản chủ yếu nhằm tăng thu cho ngân sách Nhà nước. 2.2. Thời kì khôi phục kinh tế, cải tạo CNXH ở miền Bắc (1955 - 1965) Từ tháng 10/1954, miền Bắc được giải phóng, hệ thống "Chính sách thuế hành thực" ra đ ời. Ngoài thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật còn có 12 thứ thuế thu bằng tiền là thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế hàng hoá, thuế sát sinh, thuế xuất nhập khẩu, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế thổ trạch, thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế rượu, thuế muối.Chính sách thuế trên đ ược ban hành kịp thời đã có tác dụng điều tiết mạnh mẽ nền kinh tế . Đây cũng là nền tảng của hệ thống chính sách thuế ở n ước ta để nghiên cứu, kế thừa, bổ sung trong các giai đoạn sau này.
  4. Từ năm 1960, chế độ thu đối với khu vực quốc doanh đã đ ược cải tiến đã góp phần thúc đẩy hạch toán kinh tế, phát huy tín h chủ động, sáng tạo của khu vực quốc doanh và tập trung phần chủ yếu tại khâu sản xuất. 2.3. Thời kì xây dựng miền Bắc XHCN, đấu tranh thống nhất đất nước(1966 - 1975) Ngày 18/11/1966, Quốc hội ban hành điều lệ thuế công thương nghiệp mới áp dụng riêng đối với kinh tế tập thể, cá thể với nhiều ưu tiên, ưu đãi. Đặc biệt có nhiều chế độ miễn giảm thuế phục vụ chiến đấu. Thuế hàng hoá không áp dụng đối với những mặt hàng do khu vực tập thể, cá thể sản xuất gia công hoặc bán cho mậu dịch quốc doanh. 2.4. Thời kì thống nhất và xây dựng CNXH trong cả nước (1976 - 1986) Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc thống nhất chính sách thuế ở cả hai miền đã được tiến hành kết hợp với công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, xây dựng CNXH chung cả n ước, gắn với quá trình thống nhất các chính sách giá cả, tiền tệ,... Nhà nước lần lượt cho vận dụng các pháp lệnh về thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp áp dụng ở miền Bắc vào miền Nam với một số cải tiến cho phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội.Từ đó góp phần thúc đẩy quan hệ sản xuất XHCN 2.5. Thời kì đổi mới (1987 - đến nay) Phương hư ớng đổi mới cơ chế quản lí đ ã được khẳng đ ịnh từ Đại hội Đảng VI (1986) .Trong các năm 1987 - 1 989, Nhà nước đã lần lượt có những sửa đổi, bổ sung pháp lệnh thuế nông nghiệp, công thương nghiệp và thông qua luật thuế xuất nhập khẩu hàng mậu dịch để phù hợp với tình hình. Đặc biệt, từ năm 1990, theo chương trình cải cách hệ thống chính sách thuế đợt I, Quốc hội các khoá VIII và IX đã lần lượt ban hành hệ thống chính sách thuế mới bao gồm: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao áp dụng thống nhất đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Để thực hiện chương trình cải cách thuế b ước II, từ giữa năm 1997, Quốc hội khoá IX đã thông qua luật thuế giá trị gia tăng thay thế thuế doanh thu và thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế thuế lợi tức doanh nghiệp, bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/1999. Cùng với đó là việc sửa
  5. đổi một số điều trong luật thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.. Ngành thuế đã thực hiện kí kết các hiệp đ ịnh tránh đánh thuế 2 lần với 28 quốc gia trên thế giới. Có thể nói việc đưa ra thuế GTGT là 1 dấu ấn quan trọng trong lịch sử ngành thuế nước ta. Đây là một sắc thuế khoa học, khẳng định tư duy đổi mới và hội nhập của Nhà nước ta. 3. Một số khái niệm chung về trị giá gia tăng và thuế giá trị gia tăng 3.1. Trị giá gia tăng là g ì? Trị giá gia tăng (TGGT) là trị giá tăng thêm đối với một sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ s ở sản xuất, chế biến, buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô hay hàng hoá mua vào làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Nói cách khác, đây là số chênh lệch giữa "giá đầu ra" với "giá đầu vào" do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. TGGT có thể tính bằng phương pháp cộng hoặc phương pháp trừ. Từ 2 phương pháp trên ta biểu thị bằng 2 công thức: TGGT = Chi phí lao động + lợi nhuận TGGT = Giá đầu ra - Giá đầu vào Mức TGGT càng cao chứng tỏ đơn vị kinh doanh càng thành công về mặt hiệu quả. 3.2. Thuế TGGT là gì? Thuế TGGT là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá hàng hoá, dịch vụ nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng giống như thuế doanh thu. Tuy nhiên thuế TGGT là một sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá từ khâu đầu đến người tiêu dùng. Đến cuối chu ky sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ, tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế TGGT là hàng hoá, dù qua nhiều khâu hay ít khâu, từ sản xuất đến tiêu dùng, đều chịu thuế như nhau. Thuế TGGT đánh vào các sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong nước, kể cả hàng hoá nhập khẩu. Thông thường hàng hoá, dịch vụ dùng cho mục đ ích xuất khẩu không thuộc diện đánh
  6. thuế TGGT. Mức thuế phải nộp thường căn cứ vào công dụng vật chất của sản phẩm, không phân biệt người mu a dùng vào mục đích gì. 3.3. Phương pháp tính thuế TGGT Xuất phát từ kháiniệm chung về TGGT và thuế TGGT trên đây, các nhà kinh tế đã đưa ra 4 phương pháp cơ bản tính thuế TGGT nh ư sau: - Phương pháp thứ nhất: Phương pháp c ộng gián tiếp, căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của trị giá tăng thêm, cụ thể là: Thuế TGGT = (t x tiền công) + (t x lợi nhuận) - Phương pháp th ứ hai: Phương pháp trực tiếp (phương pháp kế toán), tính bằng cách lấy thuế suất (t) nhân với trị giá tăng thêm: Thuế TGGT = t x (tiền công + lợi nhuận) - Phương pháp thứ ba: Ph ương pháp trừ trực tiếp, dựa trên cơ sở tính trị giá tăng, cụ thể: Thuế TGGT = t x (giá đầu ra - giá đầu vào) - Phương pháp thứ tư: Phương pháp trừ gián tiếp (còn gọi là phương pháp hoá đơn hoặc phương pháp khấu trừ) cụ thể là: Thuế TGGT = (t x giá đầu ra) - (t x giá đầu vào) Trong bốn phương pháp trên thì 3 phương pháp đầu hầu như chỉ tồn tại về mặt lí thuyết, còn trong thực tế người ta ít áp dụng. Đại bộ phận các nước thực hiện thuế TGGT đều sử dụng phương pháp thứ 4 - Với phương pháp trừ gián tiếp dựa vào hoá đơn trên đây, thuế TGGT được tính và nộp qua từng khâu. Ví dụ với thuế suất 10%, ta có bảng tính thuế TGGT ở từng công đoạn cụ thể như sau: Giá Thuế Thuế đã Ngành kinh Giá TGG Thuế còn đầu tính nộp doanh đầu vào T phải nộp ra ở đầu ra ở đầu vào Người bán gỗ 1000 100đ 0 100đ đ
  7. Người sx đồ gỗ 1000đ 500đ 1500 150đ 100đ 50đ đ 70đ Người bán lẻ đồ 2200 1500đ 700đ 220đ 150đ gỗ đ 220đ Qua bảng ví dụ về tính thuế TGGT trên đây ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Trong mỗi khâu tiêu thụ hàng hoá, thuế TGGT đều đ ược tính trên trị giá bán hàng. Thuế TGGT tính ở giai đoạn sau đều được trừ số thuế đã nộp ở các khâu trước nên không gây ra hiện tượng thu thuế trùng lắp. Hiệu quả của thuế TGGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế.Tổng số thuế TGGT do người tiêu dùng ở khâu cuối cùng ch ịu, nhưng được thu qua ba công đoạn: bán gỗ, sản xuất đồ gỗ, bán lẻ đồ gỗ. 4. Lịch sử ra đời và phát triển của thuế TGGT trên thế giới Thuế TGGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được áp dụng sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Thuế doanh thu áp dụng ở Pháp từ năm 1917, thời kì đầu nó chỉ đánh vào khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá với thuế suất thấp. Đến đầu năm 1920, thuế doanh thu được đ iều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này phát sinh nhược điểm về tính trùng lắp, sản phẩm càng qua nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Năm 1936, Pháp lại cải tiến doanh thu qua hình thức đánh thuế 1 lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, tức là giai đoạn đầu của lưu thông. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, năm 1954 Chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế TGGT (TVA). Lúc đầu TVA đ ược ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp. Quá trình thống nhất hoá Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thúc đẩy TVA áp dụng vào các nước khác. Đến năm 1966 TVA được ban hành chính thức để thay thế 1 số sắc thuế gián thu. Khai sinh từ nước Pháp, thuế TGGTđã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều quốc gia. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế TGGT, chủ yếu là các nươc Châu Phi, Châu Mĩ La tinh, các n ước trong khối cộng đồng Châu Âu (EEC) và một số nước Châu á.
  8. II- Xây dựng mô hình thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam 1. Tình hình áp dụng thuế doanh thu ở Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới ở nước ta, trong đó có sự đổi mới về chính sách thuế. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách kinh tế, luật thuế doanh thu đã được Quốc Hội thông qua ngày 3 0/06/1990 để thay thế chế độ thu quốc doanh, thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế hàng hoá đ ối với một số mặt hàng trước đây chịu thuế hàng hoá. Thuế doanh thu là một thuế sắc thuế gián thu, một loại thuế thu vào các hoạt động kinh doanh thương nghiệp, kinh doanh nông nghiệp (không thuộc diện nộp thuế nông nghiệp) hoặc cung cấp dịch vụ, thuế được thu qua mỗi lần phát sinh bán hàng, bán sản phẩm hoặc dịch vụ. Thuế nằm trong giá sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ cung cấp và do người tiêu thụ phải trả kh i mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ nh ưng các cơ sở sản xuất kinh doanh có trách nhiệm phải nộp số thuế thu hộ này vào kho bạc nhà nước trong thời hạn qui đ ịnh. Thuế doanh thu được áp dụng thống nhất với cả hai khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh.  Ưu điểm: Khi thuế doanh thu được đưa vào áp dụng trong thực tế thì d ưới con mắt các nhà phân tích kinh tế thuế này có những ưu điểm nổi bật sau: Điều dễ thấy nhất là thuế doanh thu được áp dụng thống nhất chung đối với cả thành phần quốc doanh và thành phần ngoài quốc doanh, vì vậy đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần này và tạo sự bình đẳng công bằng về cuộc sống, động viên thuế giữa những người tiêu dùng cho ngân sách nhà n ước. Thêm vào đó, thuế được áp dụng rộng rãi với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi ngành nghề, hoạt động thường xuyên hoặc không thường xuyên, có địa điểm cố định hay lưu động . Vì vậy, thuế doanh thu đã trở thành một nguồn thu tương đối quan trọng, ổn định của ngân sách nhà nước từ năm 1991 đến năm 1995, thuế doanh thu đã tăng nhanh qua các năm ( từ 35% đến 45%) và chiếm từ 16,5% đ ến 20,3%, tổng số thuế và chi phí trong ngân sách nhà nước .
  9. Mặt khác thông qua cơ cấu thuế suất cao, thấp khác nhau (từ 0% đến 30%) giữa các ngành nghề, nhà nước thể h iện quan điểm khuyến khích hay hạn chế, nhằm hướng dẫn, điều chỉnh nền kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh theo hướng phát triển của đất nước. Riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh đã được nhà nước ưu đãi chiếu cố về miễn giảm thuế, giúp đỡ khắc phục một số khó khăn trong bước đầu chuyển đổi cơ chế sản xuất , kinh doanh, bảo đảm nộp Và cuối cùng với biện pháp tính thuế doanh thu đơn giản đã thuận tiện cho việc kiểm tra của các tổ chức. Có thể công nhận rằng, sự ra đ ời của thuế doanh thu là rất phù hợp với giai đoạn chuyển đổi và nó linh hoạt hơn hẳn chế độ thu quốc doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm hạn chế chủ yếu sau: -Thuế tính trên toàn bộ doanh thu (bao gồm cả thuế doanh thu) qua từng khâu lưu chuyển đã ảnh hưởng không tốt đến giá cả và sản xuất kinh doanh. Cùng một mặt hàng nếu được tổ chức sản xuất và lưu chuyển qua ít khâu, tổng số thuế phải nộp sẽ thấp h ơn so với việc tổ chức qua nhiều khâu và do đó không phù hợp với cơ chế thị trường. - Do thuế doanh thu có nhiều nhóm thuế suất khác nhau, do thiếu căn cứ xác định thuế chính xác, thuế suất lại chênh lệch nhau nhiều nên đã phát sinh không ít tiêu cực, tuỳ tiện trong vận dụng luật thuế. -Thuế doanh thu chưa thu đối với mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu nên chưa tạo đ ược môi trường thuận lợi cho việc hoà nhập với thông lệ khu vực quốc tế, chưa hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2. Sự cần thiết phải đưa thuế trị giá gia tăng vào áp dụng tại Việt Nam. Từ những phân tích trên, dễ thấy là đ ã rất tiến bộ nhưng thuế doanh thu cũng đã bộc lộ nh ững hạn chế gây ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cho tới thời điểm này, một yêu cầu đặt ra là cần phải có một loại thuế mềm dẻo hơn thay thế cho thuế doanh thu. Lúc này trên thế giới đang áp dụng một loại thuế có tên là thuế trị giá gia tăng, thuế này được khai sinh từ Pháp, có nguồn gốc từ thuế doanh thu với một số ưu điểm chủ yếu sau; - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.
  10. -Thuế trị giá gia tăng thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoặc giá dịch vụ nên không phải đ i sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý , hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đ ối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí đẩy mạnh xuất khẩu, tạo đ iều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế trị giá gia tăng kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. -T ạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế trị giá gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy ngươì mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa hai người mua và bán để trốn lậu thuế - Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuếViệc kiểm tra thuế trị giá gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu trữ chứng từ hoá đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá chuyên môn hoá sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm Nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế trị giá gia tăng được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao và đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản, trung lập. Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó và nhược đ iểm của trị giá gia tăng cũng chính xuất phát từ loại thuế này. Nhược điểm đầu tiên dễ thấy nhất là chi phí về quản lý. Để thực hiện tốt thuế trị giá gia tăng, công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch. Do đó hầu hết các nước đang thực hiện thuế trị giá gia tăng đều phải sử dụng máy tính để
  11. bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi và quản lý chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. -Thuế trị giá gia tăng có ít thuế suất, nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. - Giữa lý luận và thực tiễn, thuế trị giá gia tăng cũng có những điểm chưa được nhất quán., cách đánh thuế và khấu trừ thuế trị giá gia tăng như thế nào là hợp lý,như thế nào là thoả đáng? - Do thiếu tính linh hoạt mềm dẻo nên thuế TGGT không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. -Thuế trị giá gia tăng với những ưu điểm rất lớn nhưng nhược điểm cũng không nhỏ, vì vậy đã bị phản ứng và không được chấp nhận một cách dễ dàng Ví dụ: ở Nhật Bản, thuế trị giá gia tăng mặc dù đã có đề xuất ban hành từ năm 1955, nhưng cho đến năm 1988 mới được Quốc hội Nhật Bản thông qua.Khi gia nhập khối Cộng đồng Châu Âu năm 1981, Hy Lạp đã đồng ý ban hành thuế tri giá gia tăng, nhưng lại tìm lý do để trì hoãn cho đến năm 1987 mới chính thức ban hành. Với hơn 100 nước áp dụng thuế trị giá gia tăng, đó là một con số không nhỏ nhưng rõ ràng là để đạt tới con số đó th ì thuế này đã phải chịu sự phản đối gay gắt tứ các nước trên thế giới. Vì vậy nó đòi hỏi phải được nghiên cứu xem xét một cách kĩ lưỡng. 3. Điều kiện áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra là: liệu trị giá gia tăng có thể áp dụng ở Việt Nam ? Như đã nói ở trên thuế trị giá gia tăng có nhược điểm là thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo, không thật sự thích hợp với nền kinh tế mới b ước đầu b ước sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Do đó điều kiện cần thiết để áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam là: - Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn phải thức hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng c ơ sở kinh doanh. - Trình độ cán bộ quản lý thu thuế được nâng cao về chứng từ hoá đơn, sổ kế toán thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế khấu trừ thuế hoàn thuế trị giá gia tăng. Cơ quan thuế
  12. từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo về sử dụng các mạng máy tính, đạt hiệu quả cao. - Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm c ăn cứ cho việc tính thuế được chính xác. - ý thức tự nguyện tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng lên theo phương châm tăng cường “đức trị” gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”. - Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế . Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hổ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế trị giá gia tăng được đồng bộ đạt hiệu quả tốt. Từ những vấn đề nêu trên, liên hệ với thực tế ở Việt Nam, câu hỏi đặt ra là chúng ta đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế trị giá gia tăng chưa? Nếu áp dụng thuế trị giá gia tăng, thì nên theo mô hình nào cho thích hợp với tình hình trước mắt và lâu dài ở Việt Nam. Câu trả lời không thể vội vàng, chủ quan, mang tính khẳng định một chiều mà cần được phân tích, cân nhắc trên nhiều quan điểm, cả thuận lợi và khó khăn, tìm ra một phương án tối ưu có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, có hai quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, hiện nay ở Việt Nam ch ưa có điều kiện và chưa nên áp dụng thuế trị giá gia tăng với các lý do cơ bản là : Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang c ơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá chưa phát triển đồng đều. Với thuế doanh thu hiện nay có nhiều thuế suất khác nhau, nếu chuyển sang hình thức thu có ít thuế suất(1 hoặc 3 - 4 thu ế suất) sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Vì vậy, nếu không có biện pháp xử lý thích đáng sẽ gây nhiều tác động đến nền kinh tế xã hội.
  13. - Hiện nay, tình trạng thức hiện chế độ hoá đơn sổ kế toán còn quá lỏng lẻo. Nhược điểm này không thể khắc phục nhanh chóng trong toàn bộ nền kinh tế, do vậy khó có cơ s ở xác đáng để áp dụng việc khấu trừ tiền thuế trị giá gia tăng được đúng đắn. - Hệ thống văn bản pháp quy còn chưa hoàn ch ỉnh, đồng bộ và thiếu ổn định. Thiếu tổ chức cưỡng chế, hiệu lực pháp chế chưa cao. Trình độ cán bộ thuế tuy đã được bồi dưỡng, nâng cao nhưng về thực chất còn yếu, chưa đủ sức bảo đảm việc quản lý, thu thuế trị giá gia tăng. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, chúng ta cần khẩn trương nâng cấp, sớm xây dựng và ban hành thuế trị giá gia tăng thay thế thuế doanh thu với các lý do: - Khắc phục các nhược điểm của thuế doanh thu, chủ yếu là tính trùng lặp và hệ thống quá phức tạp. - Thực hiện thuế trị giá gia tăng tự nó sẽ khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng chứng từ, hoá đ ơn, sổ kế toán, bảo đảm việc thu thuế ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở, vừa khắc phục thất thu, vừa tránh lạm thu. - Thúc đẩy hoạch toán kinh tế, tứng bước loại bỏ các doanh nghiệp, các c ơ sở làm ăn đạt hiệu quả thấp không đủ nộp thuế đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển lành mạnh nhanh chóng. - Việc xây dựng các văn b ản pháp quy cần thiết và tổ chức hành chính đang từng bước triển khai và phát huy tác dụng sẽ tạo tiền đề cần thiết cho sự ra đ ời và phát huy tác dụng của trị giá gia tăng. Về cơ bản , lo ại ý kiến thứ hai phù hợp với quan đ iểm trong xây dựng thuế trị giá gia tăng ở nhiều nước. Nhà nước ta vẫn áp dụng và nghiên cứu đổi mới thuế trị giá gia tăng III.hạch toán thuế gtgt. 1. Chứng từ sử dụng. Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý của mọi số liệu ghi chép trong các sổ kế toán.Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong đơn vị kế toán đều phải lập chứng từ.Chứng từ sử dụng để hạch toán thuế GTGT bao gồm: -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-3LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp chiết khấu trừ,bán hàng hoá,dịch vụ với số lượng lớn.
  14. -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-2LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp khấu trừ,bán lẻ hàng goá dich vụvới số lượng nhỏ. -Hoá đơn bán hàng-ký hiêu:02 GTKT-3LL:là lo ại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế thoe phương pháp trực tiếp,bán hàng hoá dịch vụ với số lượng lớn. -Hoá đon bán hàng-02 GTTT-2LL:là loại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp trực tiếp,bán lẻ hàng hoá,dịch vụ với số lượng nhỏ. -Mẵu tờ khai,đăng ký,nộp thuế,quyết toán thuế GTGT:Các c ơ s ở kinh doanh hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi cho cơ quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theobảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo mẫu quy định .
  15. 2. TK sử dụng hạch toán thuế GTGT. *TK 133 – “Thuế GTGT được khấu trừ “. Bên Nợ: -Số thuế GTGT được khấu trừ Bên Có: -Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ -Kết chuyển số thuế GTGTđầu vào không được khấu trừ -Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGTđầu vào còn được khấu trừ,số thuế GTGTđầu vào được hoàn lại nhưng ngân sách nhà nước chưa hoàn lại TK 133 có 2 tài khoản cấp 2: -TK 1331 - thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá ,dịch vụ -TK 1332- thuế GTGT đ ược khấu trử của TSCD *TK 3331-“Thuế GTGT phải nộp” Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ -Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách nhà nước -Số thuế GTGTđược trừ vào số thuế GTGTphải nộp -Số thuế GTGTcủa hàng bán bị trả lại Bên Có: -T huế GTGT đầu ra: +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá ,dịch vụ đã tiêu thụ +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá,dịch vụ dùng để trao đổi biếu tặng ,sử dụng nội bộ +Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động TC,thu nhập hoạt động bất thường +Số thuế GTGTphải nộp của hàng hoá nhập khẩu Số dư bên Có: -Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ
  16. Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách nhà n ước TK 3331 có 2 TK cấp 2: -TK 33311 -thuế GTGT đầu ra của hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ -TK 33312 -thuế GTGT hàng nhập khẩu 3.Phương pháp hạch toán Sơ đồ kế toán thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Sơ đồ kế toán thuế GTGT đầu ra
  17. 4. Sổ kế toán. chế đ ộ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp được thực hiện theo chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết đ ịnh số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của bộ trưởng bộ tài chính và có bổ sung ba mẫu sổ sau đây:  Sổ theo dõi thuế GTGT(mẫu số S01-DN): Sổ này chỉ áp dụng cho các c ơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và ghi sổ kế toán đơn. Đồng thời được sử dụng để phản ánh số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, và còn phải nộp.  Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại (Mẫu số S02-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đồng thời được dùng để ghi chép phản ánh số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại, và còn đ ược hoàn lại cuối kì báo cáo.  Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm (S03-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở kinh doanh thuộc các nghành và các thành phần kinh tế. Đồng thời được sử dụng để ghi chép số thuế được miễn giảm cuối kì báo cáo IV. Thực trạng áp dụng thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng. 1. Đánh giá kết quả thực hiện và những vấn đề rút ra Kể từ ngày luật thuế giá trị gia tăng chính thức được ban hành , đến nay luật thuế này đã chính thức đi vào cuộc sống. Điều ghi nhận đầu tiên là luật thuế giá trị gia tăng đã bảo đảm các yêu cầu của bộ chính trị đề ra là không làm ảnh hưởn g lớn đến các dự toán thu chi ngân sách nhà nước, ổn đ ịnh thị trường không để xảy ra biến động lớn về tình hình giá cả làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Những hoang mang ban đầu của người dân về ảnh hưởng thuế sẽ làm tăng giá cả hàng hoá đã dần mất đi và thay vào đó là sự tin tưởng. Đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế vẫn ổn đ ịnh và phát triển. Trong bối cảnh hiện nay nước ta đang là một nước phát triển ở một trình độ thấp, chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thua thiệt bị chèn ép thậm chí các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
  18. trong nước có thể bị phá sản hàng loạt. Sự tự do và công bằng của môi trường kinh doanh không cho phép nhà nước bảo hộ trực tiếp các nhà đầu tư trong nước, vì vậy thuế được xem là giải pháp quá độ giúp các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong n ước có được sự cân bằng trong cạnh tranh Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích và ổn đ ịnh sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước. Do c ơ chế khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đã tạo điều kiện cho các công trình đầu tư cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây áp dụng thuế doanh thu. Thêm vào đó toàn bộ thuế giá trị gia tăng của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng, không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Ngoài ra, với những thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được phải nhập khẩu để đầu tư vào tài sản cố định theo dự án hay sử dụng trong doanh nghiệp thì không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không ch ịu thuế giá trị gia tăng, còn nếu thuộc loại vốn ODA vay thì được hoàn thuế giá trị gia tăng trong thời gian ba ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Từ ngày 1/1/1999 đã qui định giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng c ơ bản thì mức thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn 1% đến 2% thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn phải hoàn thuế cũng là giải pháp tích cực phù hợp với chủ trương kích cầu, giảm khó khăn tài chính đối với các doanh nghiệp xây lắp, từ đó cũng khuyến khích đầu tư hơn. Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản giá tính thuế giá trị gia tăng được trừ giá trị đất thuộc đối tượng chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư xây dựng nhà, c ơ sở hạ tầng để bán hoặc cho thuê nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho người có việc làm, có thu nhập thấp có nhà ở. Không những thế, thuế giá trị gia tăng cùng các chính sách khác đã khuyến khích tối đa xuất khẩu do đại bộ phận đều áp dụng mức thuế giá trị gia tăng xuất khẩu là 0%, tức được hoàn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào và không phải nộp thuế giá trị gia tăng ở đầu ra. Việc áp dụng mức thuế suất như vậy đã làm giảm chi phí và do đó hạ giá thành
  19. hàng xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp tập trung tìm nguồn hàng trong n ước để xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường quốc tế.Chỉ riêng năm 1999 nhà nước đã hoàn gần 1.800 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng, trong đó chủ yếu là hoàn thuế hàng hoá xuất khẩu. Đối với vật tư , nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu cho nước ngoài không ch ịu thuế nhập khẩu, đồng thời cũng không chịu thuế giá trị gia tăng nên đã tạo đ iều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu phát triển.Vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng chịu thuế giá trị gia tăng xuất khẩu thì được kéo dài thời gian nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu là 9 tháng hoặc dài hơn nữa Trong thời gian đầu áp dụng những tiến bộ của thuế giá trị gia tăng đã dần phát huy và ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nước ta, về cơ bản ta đ ã khắc phục được tình trạng “thuế đánh trên thuế”, tình trạng kinh doanh lỗ vẫn phải nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Hơn nữa việc đưa thuế giá trị gia tăng vào cu ộc sống còn là một điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập ngày cáng sâu sắc và toàn diện của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và nến kinh tế thế giới, góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp của người nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá kết quả đã đạt đ ược trong thực hiện luật thuế giá trị gia tăng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, bản thân luật thuế giá trị gia tăng đã ban hành và gắn liền với nó là việc chỉ đạo thực hiện, đã bộc lộ những nh ược điểm làm ảnh h ưởng đến công tác quản lý nến kinh tế quốc dân ở những mức độ khác nhau. Trước hết, việc thu thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu ngay tại cửa ải là việc làm mâu thuẫn ngay với bản thân khái niệm về thuế giá trị gia tăng. Bởi lẽ, luật thuế trị giá gia tăng đã khẳng đ ịnh: “thuế giá trị gia tăng là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng”. Luật đã khẳng định như vậy song trên thực tế các doanh nghiệp nươc ta đang phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng nhập khẩu ngay khi hàng mới về đến cảng, điều bất hợp lý hơn nữa là việc nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào này được thu tính trên tổng trị giá lô hàng nhân với thuế suất chứ không phải tính trên trị giá tăng thêm như lu ật đã qui đ ịnh.
  20. Trong khi đó, chưa một nhà kinh tế nào của Việt Nam và trên thế giới, chứng minh được rằng, toàn bộ giá CIF cộng thuế nhập khẩu của hàng nhập khẩu là giá trị tăng thêm của hàng hoá đó ! Đồng thời, trong thực tế điều này cũng không đem lại hiệu quả gì lớn cho việc tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước, ngoại trừ ngân sách nhà nước có thể chiếm dụng được của một số doanh nghiệp số tiền nhất định trước khi hoàn thuế. Giải thích về sự vô lý này,có ý kiến cho rằng đó là chính sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu sử dụng thuế như một giải pháp bảo hộ và bảo vệ tuyệt đối trước sự cạnh tranh của hàng nhập thì sẽ là sai lầm vô cùng quan trọng. Bởi vì trong tr ường hợp cứ duy trì các doanh nghiệp lạc hậu về thiết bị, làm ăn kém hiệu quả, tạo ra mặt hàng không thoả mãn yêu cầu lợi ích xã hội thì chính sách thuế theo hướng này được coi là giải pháp “tự sát” của nền kinh tế. Chính vì sự duy trì này sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách thậm chí nhà nước phải bù lỗ cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Sự bao cấp sẽ dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và có nghĩa là thủ tiêu động lực thúc đẩy xã hội phát triễn. Do đó, bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết và có nhiều biện pháp, chính sách thuế không phải là biện pháp duy nhất. Thứ hai, sự tồn tại song song hai phương pháp xác đ ịnh thuế giá trị gia tăng là phương pháp trực tiếp và khấu trừ, tương ứng với hai phương pháp đó là hai loại hoá đơn đã làm mất tính thống nhất của luật thuế này. Quan trọng hơn là một trong những mục tiêu lớn đã được đề ra khi thực hiện luật thuế giá trị gia tăng là “bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế", đã không thực hiên được do sự tồn tại hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và hai lo ại hoá đơn nêu trên. Thứ ba, từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, giảm xuống còn bốn mức thuế suất trong thuế giá trị gia tăng, không ít những doanh nghiệp trong cả nước có số thuế giá trị gia tăng phải nộp cao hơn nhiều lần so với thuế doanh thu trước đây. Do chưa thể chuyển đổi kịp, nhưng doanh nghiệp này đã bị thu lỗ, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh.Từ đó “những giải pháp tình thế “ hay là “ những bước lùi sách lược” như giảm thuế giá trị gia tăng cho một số sản ph ẩm hàng hoá, mở rộng phạm vi được khấu trừ thuế đầu vào với những tỷ lệ khấu trừ khác nhau, đã được áp dụng. Các giải pháp tình thế nêu trên được giải quyết bằng các văn bản dưới luật như nghị định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của bộ tài
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2