intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn:Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

79
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cho đến nay , Việt nam đã ký hiệp định thương mại với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ , nhưng việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13-7-2000 tại thủ đô Washington được đánh giá là có ý nghĩa quan trọng đặc biệt , đánh dấu một bước tiến mới trên con đường hội nhập của Việt nam . Với dân số chỉ khoảng 265 triệu dân, nhưng do thu nhập quốc dân cao nên Mỹ hiện là thị trường có sức mua lớn nhất trên thế giới . Hầu hết các...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn:Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ

  1. Luận văn Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Cho đến nay , Việt nam đã ký hiệp định thương mại với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ , nhưng việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13-7-2000 tại thủ đô Washington được đánh giá là có ý nghĩa quan trọng đặc biệt , đánh dấu một bước tiến mới trên con đường hội nhập của Việt nam . Với dân số chỉ khoảng 265 triệu dân, nhưng do thu nhập quốc dân cao nên Mỹ hiện là thị trường có sức mua lớn nhất trên thế giới . Hầu hết các loại hàng hoá của toàn bộ các quốc gia trên thế giới đều được xuất khẩu vào thị trường Mỹ . Khả năng xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ đ ã lên trên 1000 tỷ USD mỗi năm , chiếm 1/4 khả năng xuất nhập khẩu của toàn cầu và chiếm khoảng 18% tổng thương mại thế giới . Đây là một thị trường khổng lồ tuy luật lệ phức tạp và có nhiều loại luật khác nhau nhưng nhìn chung là khá thông thoáng và hấp dẫn ( trừ một số mặt hàng có hạn ngạch và quy định về tiêu chuẩn vệ sinh , môi trường ). Chỉ cần được người tiêu dùng chấp nhận là họ có thể sẽ nhận được những đơn đặt hàng lớn , lâu dài với mức lợi nhuận tương đối hấp dẫn. Bên cạnh đó , Mỹ còn có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu , hoạt động của nhiều tổ chức quốc tế như WTO, IMF, WB, ADB…đều có vai trò quan trọng của Mỹ. Kinh nghiệm của một số quốc gia đang phát triển như Thái lan, Mêhicô, Trung quốc cho thấy việc mở rộng quan hệ thương mại với Mỹ không những sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ, tăng kim ngạch xuất khẩu, nhanh chóng tiếp cận được với một thị trường rộng lớn, đa dạng, có tiềm lực khoa học công nghệ mà còn giúp nền kinh tế Việt nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nhanh chóng hơn và hiêụ quả hơn. Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp Việt nam (DNVN) có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ? Đó là câu hỏi đang được rất nhiều người quan tâm, đặc biệt là 2
  3. sau khi hiệp định TM có hiệu lực. Trong một chừng mực nào đó bài viết này sẽ góp phần giải quyết có hiệu quả vấn đề trên. Nội dung của bài viết bao gồm hai phần lớn: *Giới thiệu về thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ. *Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các DNVN. CHƯƠNG I GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ. 1. Giới thiệu khái quát về thị trường Mỹ. 1.1.Văn hoá kinh doanh và thị hiếu của người Hoa kỳ. 3
  4. Để có thể thành công trong quan hệ làm ăn với Mỹ, các DNVN phải có được một cái nhìn tổng thể về thị trường Mỹ đồng thời phải cố gắng nắm bắt những điểm cơ bản trong văn hoá kinh doanh, thị hiếu của họ để thích nghi. Trước hết, là vài nét về văn hoá kinh doanh của người Mỹ: thói quen của người Mỹ là luật pháp, hợp đồng được ký kết phải chặt chẽ, rõ ràng , các DNVN phải tìm mọi cách để chứng minh vị trí pháp lý ổn định của mình: chẳng hạn DN Mỹ yêu cầu đối tác đưa ra bản báo cáo tài chính hàng năm, đó được coi là văn bản tạo nên sự tin cậy đối với bạn hàng (trong khi đó các DNVN thường dấu, ít khi công bố điều này). Người Hoa kỳ thường bộc trực thẳng thắn , chúng ta khi đi đàm phán với họ ký kết hợp đồng nên đưa ra những phương án rõ ràng, tránh nói vòng vo, kéo dài dễ gây tâm lý không tin cậy. Người Mỹ thích kiểu ký kết hợp đồng trực tiếp ngay sau khi đàm phán. Thông thường trước khi đàm phán, người Mỹ soạn hợp đồng trước theo hướng có lợi cho họ và những điều kiện bất lợi cho đối tác. Đàm phán xong, yêu cầu đối tác ký hợp đồng luôn tức thì. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác, xem xét kỹ lưỡng và yêu cầu họ chỉnh sửa lại cho phù hợp sau đó mới ký. Điều này không đồng nghĩa với việc rườm rà, kéo dài thời gian mà phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi bước vào đàm phán. Trong quan hệ thư tín TM, khi doanh nhân Mỹ phát đi một bức Fax, Email thì đòi hỏi đối tác hồi âm càng sớm càng tốt (khoảng 3 ngày là thích hợp). Còn chúng ta đôi khi ngại tốn kém hoặc phải hỏi ý kiến cấp này cấp nọ, qua nhiều tầng nấc nên không đáp ứng lòng mong đợi của họ trong giao dịch TM. Cũng tương tự như vậy , nếu doanh nghiệp Mỹ Fax, Email sang hỏi về một mặt hàng mà DNVN không có cũng nên Fax, Email lại cho họ nói rõ (DN chỉ cần trả lời khoảng 20 chữ trở lại là vừa lòng họ). Rất không nên lờ đi vì rất có thể họ sẽ liên hệ lại tìm hiểu khả năng cung cấp , làm gia công những mặt hàng mà DN có thế mạnh. Một vấn đề nữa là trong đàm phán, nếu người kinh doanh đi thương lượng hợp đồng mà phải thông qua phiên dịch thì khó gây cho họ một thiện cảm , tín 4
  5. nhiệm để làm ăn lâu dài. Vì vậy, biết tiếng Anh là một yêu cầu bức xúc khi làm ăn với doanh nhân Mỹ. Trên đây là một vài nét cơ bản trong văn hoá kinh doanh của người Mỹ mà trong thời gian qua các DNVN rất hay vấp phải. Những việc tưởng chừng như nhỏ nhặt vậy nhưng đôi khi lại gây ra những thiệt hại rất lớn không chỉ về lợi nhuận mà còn về vấn đề uy tín làm ăn về sau. Chú ý nắm bắt rút kinh nghiệm sẽ giúp các DNVN có chỗ đứng vững hơn trong mắt các đối tác Mỹ. Vấn đề thứ hai, cũng rất quan trọng, đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế đó là nắm bắt thị hiếu của khách hàng. Trước hết phải thấy rằng Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm nhiều càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng, do đó nền kinh tế sẽ phát triển. Ngày nay , tâm lý này không chỉ của riêng nền kinh tế Mỹ mà còn có tác động sâu rộng đến các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới. Hàng hoá dù chất lượng cao hay vừa đều có thể được bán trên thị trường Hoa kỳ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hoá. Các nước đang phát triển và Việt nam khi xuất hàng vào thị trường Hoa kỳ cần phải lấy yếu tố giá cả làm trọng, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ nhưng phải đa dạng và hợp thị hiếu. Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường người tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Tài nguyên phong phú, không b ị ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới cộng với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Hoa kỳ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Với thu nhập đó, việc mua sắm đã trở thành nét văn hoá không thể thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Cửa hàng là nơi họ đến mua hàng, dạo chơi, gặp nhau, trò chuyện và mở rộng giao tiếp xã hội. Qua thời gian, người tiêu dùng Hoa kỳ gần như tin tưởng tuỵêt đối vào các cửa hàng đại lý bán lẻ của mình, họ có sự bảo đảm về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này cũng làm cho họ có ấn tượng rất mạnh với lần tiếp xúc đầu tiên đối với các mặt hàng mới. Nếu ấn tượng này là xấu, hàng hoá đó sẽ khó có cơ hội trở lại. Vì vậy 5
  6. sự xâm nhập của các nhà xuất khẩu đơn lẻ thường không mấy khi đe doạ được sự hiện diện TM của người đến trước. Đối với những đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép nói chung người Mỹ thích sự giản tiện nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc đáo thì càng được họ ưa thích và mua nhiều. Hoa kỳ không có các lề ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá tôn giáo của mình và theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau tạo sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng ở Hoa kỳ so với người tiêu dùng ở các nước Châu âu. Cùng một số đồ vật nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của người tiêu dùng các nước khác. Với sự thay đổi luôn như vậy giá cả lại trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hoá tiêu dùng từ một số nước đang phát triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng ở Hoa kỳ vì giá bán thực sự cạnh tranh (trong khi điều này khó xảy ra ở Châu âu ). Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Hoa kỳ. Địa lý rộng lớn, phong cảnh đa dạng cũng tạo cho người dân Hoa kỳ một thói quen ham du lịch, ưa khám phá trong và ngoài nước. Toàn bộ các hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các chuyến du lịch bằng xe hơi đều có một thị trường hết sức rộng lớn. Các đồ dùng liên quan đến thể thao bán rất chạy với đủ dải thị trường từ hàng rất đắt cho giới thu nhập cao hay hàng bán rẻ cho dân nghèo. Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu của người Hoa kỳ rất đa dạng do nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại, xác định rõ phân đoạn thị trường mình sẽ thâm nhập để xuất khẩu là chìa khoá đi đến thành công. 1.2 Đặc điểm và vài nét khác biệt của thị trường Hoa kỳ. 6
  7. Như phần trên đã trình bày, Mỹ là một thị trường khổng lồ với sức mua lớn, nhu cầu đa dạng. Đây là một thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng đối với toàn bộ các nước trên thế giới, trong đó có Việt nam. Tuy nhiên, để thành công, nhà xuất khẩu phải nắm được một điểm hết sức cơ bản là hệ thống chính sách luật lệ và thủ tục của chính quyền liên bang liên quan đến tiếp cận thị trường. Ở Mỹ có nhiều quy định chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán: các quy định về kỹ thuật, chất lượng…Vì thế khi chưa nắm rõ hệ thống các quy định, luật lệ này các nhà xuất khẩu thường thấy rất khó làm ăn ở thị trường này. Tại thị trường Mỹ, mậu dịch được thực hiện tự do không đòi hỏi giấy phép. Hàng hoá nhập khẩu của Mỹ chỉ cần theo đúng quy định: doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá làm thủ tục đăng ký và nộp thuế. Chỉ có vài chủng loại hàng hoá phải có giấy phép nhập khẩu đặc biệt như vũ khí, chất phóng xạ… Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục hải quan Mỹ. Dấu hiệu nước sản xuất bắt buộc phải có đối với tất cả hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Dấu hiệu này phải được viết bằng tiếng Anh và rõ ràng. Có thể ghi “ MADE IN…; ASSEMBLE IN…; hoặc PRODUCT OF…”. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty M ỹ hoặc một công ty nước ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục hải quan Mỹ và được lưu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả hoặc sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu. Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định rất chi tiết và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Ví dụ, theo quy chế của Tổ chức nông nghiệp và nông sản Mỹ thì nông sản. thực phẩm, tân dược… phải được kiểm định, có dấu, có ghi thời hạn sử dụng, một số loại trái cây phải bảo đảm kích cỡ; một số mặt hàng điện tử, dân dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn tiết kiệm điện năng; đồ chơi trẻ 7
  8. em phải an toàn… Trên bao bì của sản phẩm phải ghi rõ quy cách, hướng dẫn sử dụng và cảnh báo, chẳng hạn lời cảnh báo ghi: “nếu không tuân thủ những chỉ dẫn này thì người sản xuất hoàn toàn không chịu trách nhiệm”. Hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ phải qua hải quan làm thủ tục . Nguyên tắc chung là khi hàng đến thì các đại lý nhận hàng và đưa vào kho hải quan, sau đó đại lý thông báo cho chủ hàng đến làm thủ tục theo các bước quy định ( xuất trình chứng từ, kiểm tra và hoàn thành thủ tục). Các nhà xuất khẩu nước ngoài khi muốn làm thủ tục hải quan để xuất khẩu vào Mỹ có thể thông qua người môi giới hoặc các công ty vận tải. Thuế suất có sự khác biệt rất lớn giữa những nước được hưởng quy chế TM bình thường (NTR) với những nước không được hưởng (Non NTR), có hàng hoá có thuế, có hàng không thuế nhưng nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so với nhiều nước khác. Một điều đáng chú ý là ở Mỹ có luật chống bán phá giá và thuế đối kháng. Nếu hàng hoá bán vào M ỹ thấp hơn giá quốc tế hoặc thấp hơn giá thành thì người sản xuất ở Mỹ có thể kiện ra toà, và như vậy nước bị kiện sẽ phải chịu thuế cao không phải chỉ đối với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với toàn bộ hàng hoá khác của nước đó bán vào Mỹ. Hoặc hàng hoá nước ngoài nhập vào thị trường Mỹ mà được chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp sẽ bị đánh thuế đối kháng làm triệt tiêu khoản trợ cấp đó. Hàng hoá bán tại Mỹ thường phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lượng và chất lượng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán hàng. Nếu một doanh nghiệp bị thua trong một vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm th ì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó ở Mỹ sẽ bị tịch biên và đem bán theo phán quyết, thậm chí những tín dụng thư (L/C) được mở cho các nhà xuất khẩu khác không liên quan đến vụ kiện ở nước thứ ba cũng sẽ bị tịch thu. Chỉ khi nào giải quyết xong vụ kiện đó thì mới có thể trở lại kinh doanh tại thị trường Mỹ. Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn sử dụng hạn ngạch để kiểm soát khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất 8
  9. định. Phần lớn hạn ngạch do cục hải quan quản lý, bao gồm hạn ngạch thuế quan và hạn ngạch phi thuế quan: Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với hàng hoá nào đó khi nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế quan thấp trong một thời gian nhất định, nếu vượt quá sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch phi thuế quan quy định số lượng hàng hoá được phép nhập khẩu trong một thời gian xác định, nếu vượt quá sẽ không được phép nhập khẩu. Có thể thấy rằng các nhà kinh doanh tại thị trường Mỹ phải chấp nhận cạnh tranh rất gay gắt như nhiều người mô tả là: “ một mất một còn”. Cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn, người tiêu dùng Mỹ nôn nóng nhưng lại mau chán vì thế nhà sản xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với sản phẩm của mình, thậm chí phải có “phản ứng trước ’’. Có thể tiếp cận thị trường Mỹ thông qua một trong hai cách: bán hàng trực tiếp cho người mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc mỗi doanh nghiệp. Đưa ra được và có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của mình là doanh nghiệp đã thành công bước đầu trên con đường tiến tới chinh phục thị trường Mỹ. 2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị trường Mỹ. Kể từ khi tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận TM và nối lại quan hệ mậu dịch với Việt nam (3-2-1994), sau đó hai nước chính thức thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao (11-7-1995) đến nay, song song với việc giải quyết các vấn đề quá khứ gây cản trở đến tiến trình bình thường hoá hoàn toàn quan hệ kinh tế – thương mại, Việt nam và Hoa kỳ đã từng bước thiết lập những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế – thương mại song phương thông qua việc ký kết các hiệp định, văn bản pháp lý. 9
  10. Có thể kể ra một số mốc thời gian đáng chú ý trong tiến t rình thiết lập quan hệ TM Việt nam –Hoa kỳ như sau: *5-8-1995: Bộ trưởng ngoại giao Mỹ đến thăm Việt nam. *10-1995: Chủ tịch nước CHXHCN Việt nam dự lễ kỷ niệm 50 thành lập Liên Hiệp Quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ. Hội đồng thương mại Mỹ tổ chức “Hội nghị về bình thường hoá quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Việt- Mỹ”. *11-1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt nam, tìm hiểu hệ thống luật lệ thương mại- đầu tư của Việt nam. *4-1996: Mỹ trao cho Việt nam văn bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế – thương mại với Việt nam”. *7-1996: Việt nam trao cho mỹ văn bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ KT-TM và đàm phán hiệp định TM với Mỹ”. *9-1996: bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định TM song phương. *7-5-1997: Đại sứ Việt nam tại Mỹ, đại sứ Mỹ tại Việt nam nhậm chức tại thủ đô mỗi nước, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước. *10-3-1998: Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký quyết định bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ sung Jackson- Wanick đối với Việt nam (hàng năm quyết định này đều được tiếp tục gia hạn ), cho phép Việt nam tham gia vào các chương trình khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu tư của Hoa kỳ bao gồm các chương trình liên quan đến cơ quan phát triển thương mại (TDA), nhận hàng xuất nhập khẩu (EXIM - BANK), công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), và cơ quan viện trợ phát triển quốc tế (USAID) của chính phủ Hoa kỳ. *1999: Việt nam dành cho Hoa kỳ quy chế Tối huệ quốc trong buôn bán (được gia hạn hàng năm). 10
  11. *Cuối cùng 13-7-2000 tại Washington bộ trưởng thương mại Việt nam Vũ Khoan và bà Charleen Bashefski - Đại diện thương mại của phủ tổng thống Hoa kỳ đã thay mặt chính phủ hai nước ký kết hiệp định thương mại giữa nước CHXHCN Việt nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ, mở ra một trang mới trong quan hệ thương mại giữa Việt nam và Hoa kỳ , tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ KT-TM hai nước phát triển trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, phù hợp với mong muốn của nhân dân hai nước. Theo lời của Thứ trưởng thương mại Mai Văn Dâu: “Hiệp định thương mại Việt nam-Hoa kỳ được ký kết đáp ứng lòng mong mỏi không chỉ của riêng các doanh nghiệp của Việt nam và Hoa kỳ mà cả các doanh nghiệp nước ngoài khác. Hiệp định chẳng những có lợi cho hai nước mà còn có lợi cho sự hợp tác ở Đông Nam Á, Châu Á- Thái Bình Dương, cũng như trên thế giới. Ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là thành tựu mới của việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và nhà nước Việt Nam và là một bước mới trong quá trình Việt nam chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới . Hoa kỳ cũng đánh giá hiệp định này là một bước tiến quan trọng của việc Việt nam tham gia tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt nam tham gia tổ chức này”. Trên cơ sở các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong khi đàm phán , hai bên đã thống nhất với nhau 5 nguyên tắc: *Bình đẳng cùng có lợi. *Không phân biệt đối xử, dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc. *Tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế. *Tính đến điều kiện của Việt nam là nước đang phát triển, có thu nhập thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường Việt nam cần có thời kỳ chuyển đổi để điều chỉnh luật lệ, chính sách của mình cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. *Quan hệ hai nước sẽ xây dựng tương tự như Mỹ đã xây dựng với các nước khác, Mỹ đòi hỏi Việt nam không hơn những điều Mỹ đòi hỏi các nước khác. 11
  12. Trong điều kiện hiệp định được phê chuẩn, hàng hoá Việt nam sẽ được cạnh tranh lành mạnh với hàng hoá của các nước khác và hàng hoá của Hoa kỳ trên một sân chơi công bằng. Bởi khi được hưởng quy chế ưu đãi Tối huệ quốc thì mức thuế bình quân hàng xuất khẩu của Việt nam sẽ giảm từ 40-50% còn khoảng 3%. Nhờ vậy, theo ước tính của ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ năm đầu tiên sau khi phê chuẩn hiệp định có thể tăng lên khoảng 1,3 tỷ USD tức là gần gấp đôi so với mức của năm 2000, đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010 Rõ ràng là hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ mở ra cơ hội làm ăn, hợp tác mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt nam. Đồng thời cũng có tác động tích cực trong khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam vì họ coi Việt nam là cầu nối để từ đó hàng hoá của họ xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ với mức thuế thấp. Với điều này, hàng hoá được sản xuất ở Việt nam sẽ tăng cả về số lượng và chất lượng , cơ hội nâng cao tổng kim ngạch hàng xuất sang Mỹ cũng vì thế mà tăng lên. Chúng ta biết rằng, với mô hình “đàn sếu bay” Mỹ chú trọng vào phát triển khu vực kinh tế mới ( nền kinh tế điện tử ) họ sẽ nhường những ngành sản xuất hàng hoá thông thường cho các nước khác với hình thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp sau đó nhập khẩu lại thị trường Mỹ những mặt hàng có lao động rẻ: dệt may, giày dép, thiết bị máy móc cơ bản ( mô tơ, động cơ máy tiện ), TV, đầu máy video…Mà Việt nam với lợi thế về tài nguyên, lao động dồi dào nếu được đầu tư hợp lý sẽ có tiềm lực rất lớn ở những mặt hàng này. Sau khi chúng ta có được quy chế thương mại bình thường thì hai ngành có triển vọng nhất là dệt may và giày dép. Nhưng ngành dệt may sẽ bị hạn chế bằng hạn ngạch, còn giày dép được tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, với sản phẩm dệt may ta đã có khá nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trường EU và Nhật bản nên việc vào thị trường Mỹ sẽ không mâý khó khăn. Hơn nữa, ngay tại thị trường Mỹ người ta cũng đang tìm nguồn cung cấp những sản phẩm này ở Việt nam vì có lao động rẻ. Ngành dệt may Việt nam đã đề ra chiến lược phát triển tăng tốc đầy tham vọng với mục tiêu 12
  13. đến năm 2005 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt khoảng 1-1,5 tỷ USD. Còn mặt hàng giày dép, tuy mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ, song trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế sẵn có cộng thêm thế suất sẽ giảm xuống còn 10% nên việc hy vọng gia tăng thị phần cho mặt hàng này ở thị trường Mỹ không phải là điều quá xa vời. Thuỷ sản, cà phê cũng là những mặt hàng Việt nam có thế mạnh. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản (bờ biển dài, vùng biển có năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch…), thuỷ sản lại là một trong những mặt hàng được Mỹ khuyến khích nhập khẩu (thuế suất 0%) và nhập khẩu lớn. Cho nên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ có những b ước tiến mạnh mẽ nếu được quy hoạch và đầu tư hợp lý. Cà phê, với lợi thế được miễn thuế nhập khẩu vào Mỹ lại chiếm được sự ưa chuộng của người tiêu dùng ở thị trường này nên kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua đã tăng mạnh. Với việc chú ý hơn đến chất lượng hàng xuất khẩu (giảm tỷ lệ hạt vỡ, đen…) kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng hơn nữa. Việc phê chuẩn hiệp định thương mại cũng giúp Việt nam tiến gần hơn đến việc được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) của Hoa kỳ áp dụng mức thuế suất bằng 0 cho 4284 mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển . Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải mọi mặt hàng xuất khẩu đều có khả năng tăng nhiều là nhờ vào việc chuyển sang mức thuế mới. Đơn cử các mặt hàng nông sản như cà phê nhân , tiêu và dầu thô…đã được hưởng mức thuế suất rất thấp gần 0% kể từ năm 94 khi Hoa kỳ bỏ cấm vận với V iệt nam. Triển vọng tăng kim ngạch xuất khẩu là do tự bản thân hàng hoá có sức cạnh tranh nếu được sự quan tâm, đầu tư, quy hoạch hợp lý. 13
  14. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ VÀ VIỆC ĐÁP ỨNG NHU CẦU THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÁC DNVN 1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ. Từ khi chính phủ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam đến nay, mặc d ù chưa được hưởng quy chế MFN trong quan hệ thương mại với Mỹ, nhưng hoạt động thương mại giữa Mỹ và Việt nam vẫn phát triển liên tục cán cân thương mại của Việt nam và Mỹ từ thâm hụt đã chuyển sang tình trạng thặng dư trong những năm gần đây: Bảng 1: Thương mại Việt nam –Hoa kỳ 1994-2000. Đơn vị : Triệu USD. Năm XKVn sang Mỹ NKVn từ Mỹ Tổng KN buôn bán Cán cân TM 1994 50.45 172.22 222.67 -121.77 1995 198.97 252.86 451.83 -53.89 1996 319.04 616.05 935.09 -297.01 1997 388.19 277.79 665.98 +110.40 1998 553.441 274.22 827.63 +279.19 1999 601.90 277.30 879.20 +324.60 2000 732 Nguồn: Tạp chí Tài chính quốc tế –12/2000- trang 47. Bảng 1 cho thấy kim ngạch mậu dịch Việt nam-Hoa kỳ năm 1994 đã đạt trên 222 triệu USD (so với 62 triệu USD năm 93-tăng hơn 3 lần ). Con số này năm 1995 đã lên tới 450 triệu USD (gấp 2 lần so với năm trước ). Năm 1996 tổng kim ngạch 14
  15. đã đạt gần 1 tỷ USD, một con số đáng khích lệ. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, từ năm1996 trở về trước,Việt nam luôn nhập siêu từ Hoa kỳ, nhưng từ những năm sau Việt nam lại luôn xuất siêu sang Hoa kỳ. Năn 1997 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu Á, Việt nam phải giảm bớt các khoản nhập khẩu của mình, do vậy kim ngạch buôn bán có phần giảm sút, chỉ còn 665 triệu USD. Sang năm 1998 và 1999 cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế ở Châu Á, kim ngạch đã có dấu hiệu gia tăng nhưng vẫn dừng ở những con số đáng khiêm tốn: 827 triệu USD và 879 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 553 triệu USD và 602 triệu USD, lớn hơn con số nhập khẩu rất nhiều. Sang đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đạt 732 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ đạt 400 triệu USD. Đây là một sự tăng trưởng khá nhanh và đáng khích lệ. Tuy nhiên nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào Mỹ với kim ngạch xuất khẩu của một số nước Châu Á khác với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước Việt –Mỹ là quá nhỏ so với tiềm năng. Chẳng hạn, trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Băng-la-đét sang Mỹ là 2.4 tỷ USD, Philipin là 13.9 tỷ USD , Thái lan là 6.4 tỷ USD… Với hiệp định thương mại song phương Việt –Mỹ các chuyên gia kinh tế Việt nam dự định rằng năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam –Hoa k ỳ có khả năng đạt tới 2 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 1999, trong đó Việt nam xuấ t khẩu khoảng 1.2 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 0.8 tỷ USD. Nhưng trong tình hình hiện nay, mục tiêu trên là rất khó nếu không muốn nói là không thể đạt được (ít nhất là cho đến hết năm nay). Qua xem xét có thể nhận thấy rằng, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua bao gồm: hải sản, dầu thô, cà phê, dệt may, gạo, hoa quả…Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự thay đổi. Trong những năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản có bước chuyển biến tích cực, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước . 15
  16. Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt nam sang Hoa kỳ Đơn vị:Triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Kim Kim Kim Kim Kim Mặt hàng ngạch trọng ngạch trọng ngạch trọng ngạch trọng ngạch trọng (%) (%) (%) (%) (%) Thuỷ sản 33.86 16.6 42.5 14.8 81.55 17.4 125.59 24.9 304.36 41.6 Dầu thô 80.6 39.5 34.6 12.1 79.22 16.9 99.60 19.8 91.37 12.5 Cà phê 109.48 53.6 90 24.2 125.13 24.1 59.21 9.8 69.93 9.5 Dệt may 19.74 9.7 20 7.0 26.34 5.6 34.70 6.9 49.57 6.8 Gạo 5.82 2.9 63.5 17.1 39.03 7.5 4.95 1.0 10.66 1.5 Rau quả 7.6 3.7 11.6 4.0 2.6 0.6 3.20 0.6 5.0 0.7 Tổng kim ngạch 204.2 100 286.7 100 468.6 100 504.0 100 732.4 100 xuất khẩu sang Mỹ Nguồn: Bộ thương mại – Trích từ bài: “xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Hoa kỳ” Ths Ngô Thị Tuyết Mai- Khoa KT & KDQT. 17
  17. Hiện nay, hải sản là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ, tăng liên tục trong các năm vừa qua.Từ 33.86 triệu USD ( chiếm 16.6% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ ) năm 1997 đã tăng lên đến 304.36 triệu USD ( chiếm 41.6% kim ngạch xuất khẩu ). Đây là một mức tăng kỷ lục, đưa thị trường Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam lớn thứ hai sau Nhật bản. Dự kiến năm 2005, thị trường Hoa kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị thuỷ hải sản xuất khẩu của Việt nam . Tuy nhiên con số đó vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ và chưa tương xứng với khả năng của Việt nam . Sau hải sản là dầu thô, đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Hoa kỳ. Sau thời kỳ 97-98 do giá dầu trên thế giới giảm mạnh nên xuất khẩu dầu thô sang Hoa kỳ giảm cả về giá trị và tỷ lệ. Hai năm trở lại đây giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt nam đã đạt tới 91.37 triệu USD - chiếm 12.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kỳ (so với thời kỳ 97-98 là 12.1%- 16.9%). Giầy dép, cà phê, dệt may, hạt điều, gạo…cũng là các mặt hàng bước đầu được thị trường Mỹ chấp nhận. Hoa kỳ hiện là thị trường nhập khẩu cà phê hạt lớn nhất của Việt nam. Chiếm trên 25% tổng số xuất khẩu cà phê của Việt nam. 2. Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam Mặc dù trong những năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng và giá trị xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có những bước tiếp cận thị trường hợp lý hơn, chất lượng, mẫu mã sản phẩm được cải tiến thường xuyên hơn. Song rõ ràng là kết quả đạt được còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên, đặc biệt là vào một thị trường lớn và đầy tiềm năng như Mỹ. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp Việt nam không phát huy được tối đa năng lực của mình? 18
  18. Đầu tiên, phải kể đến là sự chênh lệch rất lớn ở trình độ phát triển kinh tế của hai nước, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị- xã hội, về quan điểm, tập quán, sở thích, thị hiếu người tiêu dùng…chính những nhân tố này không được tính đến đầy đủ sẽ gây khó khăn trong khi giải quyết các mối liên hệ trong quá trình làm ăn với Mỹ. Mỹ là một đối tác quá lớn, quá hùng mạnh, vận hành theo cơ chế thị trường từ khi lập quốc. Nước Mỹ có 50 tiểu bang, ngoài luật của liên bang, mỗi tiểu bang đều có luật của mình…Hệ thống luật của Mỹ rất phức tạp, do đó hầu hết các doanh nghiệp khi muốn kinh doanh trên thị trường Mỹ đều phải thuê luật sư, mà chi phí luật sư lại rất đắt, nên thông thường là nhờ tư vấn. Trong khi đó, Việt nam mới chuyển sang kinh tế thị trường trong một thời gian ngắn. Cơ chế thị trường còn sơ khai, chưa phát triển, hệ thống chính sách chưa đồng bộ, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, sự am hiểu về kinh tế thị trường của bộ máy quản lý và doanh nghiệp còn hạn chế. Thêm vào đó, M ỹ lại là một quốc gia phát triển mạnh nhất về công nghệ thông tin, do đó khi tham gia vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt nam phải làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin từ nhiều nguồn, nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị trường, về luật lệ, cung cách kinh doanh của người Mỹ vẫn là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính những điều này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi bởi những lý do không đáng có. Thứ hai, phải nhìn nhận rằng, tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng của hàng xuất khẩu Việt nam còn thấp, cộng thêm thời gian vận chuyển hàng hoá sang Mỹ dài ngày (thường là xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ ba) chi phí lớn sẽ làm giảm thêm khả năng cạnh tranh của hàng hoá. 19
  19. Hàng hoá Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, mà M ỹ lại đòi hỏi chất lượng cao và rất khắt khe với đối với các mặt hàng này. Bên cạnh đó, trình độ công nghệ lạc hậu, chuyên môn người lao động chưa cao cộng thêm mẫu mã, kiểu dáng đơn điệu ít được chú trọng cải tiến thực sự nên chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của số đông người dân Mỹ. Tất cả những điều này làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức, khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam mỹ, Trung quốc; từ các nước công nghiệp mới (NIC); các nước Asean… Thứ ba, điều này thuộc về một trong những nét khác biệt của thị trường Mỹ là quy mô đơn hàng của họ thường rất lớn. Các nhà phân phối của Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu. Nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi khắp thế giới. Đơn hàng của họ thường lớn, nên nhiều doanh nghiệp Việt nam sang Mỹ tìm hiểu thị trường không ký được hợp đồng do không đáp ứng đ ược yêu cầu này. Thí dụ, khi đối tác Mỹ đặt hàng 2 triệu sơ mi tơ tằm, một doanh nghiệp Việt nam đành lắc đầu và than thở với thương vụ rằng: một năm chúng tôi làm hết sức chỉ được 500 ngàn chiếc. Thứ tư, phương thức giao dịch kinh doanh trên thị trường Mỹ rất đa dạng, hiện đại. Việc bán hàng trên Internet đã được sử dụng. Công ty không có cửa hàng, siêu thị, mà chỉ có một kho chứa hàng và một Website. Khách hàng muốn mua hoặc giao dịch gì cứ vào Website rồi gọi đến công ty, sẽ có người đem hàng ở kho đến giao tận nhà. Hiện nay rất nhiều cửa hàng, siêu thị của Mỹ chuyển đổi sang hình thức kinh doanh này kết hợp với hình thức bán hàng ở cửa hàng truyền thống. Các doanh nghiệp Việt nam, có lẽ phải mất một thời gian dài nữa mới có thể tham gia vào cách bán hàng kiểu mới này. Nhưng ngay từ bây giờ phải nhận thức 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2