Luận văn: Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
lượt xem 132
download
Mục đích "Luận văn: Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay" là trên cơ sở làm rõ bản sắc văn hoá dân tộc Mông, phân tích thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông, đề xuất một số nguyên tắc và nhóm giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
- LUẬN VĂN: Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội, ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Văn hoá được coi là nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của một quốc gia dân tộc. Văn hoá của môt dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc và nét văn hoá riêng của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị văn hoá của dân tộc, nó biểu hiện cho sự định hướng và lựa chọn trong hành động của con người. Vì thế, vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá “ vào năm 1988, Tổng giám đốc UNESCO đã nhấn mạnh: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá, và khả năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”. Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là một quốc gia đa dân tộc. 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hoá tạo nên nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc được phân bố ở các vùng miền của Tổ quốc và có giá trị truyền thống, sắc thái văn hoá riêng. Việc kế thừa, phát triển sắc thái, giá trị văn hoá các dân tộc có ý nghĩa làm phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của văn hoá và phát huy vai trò to lớn của văn hoá - xã hội. Coi văn hoá là một trong yếu tố không thể thiếu trong việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Đảng. Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại hội nghị TW 4, khoá VII (01/1993), Đảng ta đã xác định” Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[ ]. Trong những năm gần đây, Đảng ta rất chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số. Nghị quyết 22 của Bộ chính trị nêu rõ: Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hoá của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân
- tộc khác và góp phần phát triển văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam [9, tr.51]. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn và phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…” [12, tr.33]. Vì vậy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam nói chung, bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để thực hiện mục tiêu: “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hà Giang là tỉnh biên giới, nơi địa đầu của Tổ quốc, có 22 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó, người Mông là dân tộc thiểu số đông nhất hiện nay với số dân trên 200.000 người, chiếm 1/3 số người Mông của cả n ước. Trong những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng nh ư tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị tr ường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh h ưởng không nhỏ đến nền văn hoá truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong có văn hoá dân tộc Mông. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, đã có một số bộ phận không nhỏ người Mông có xu hướng cực đoan rũ bỏ văn hoá truyền thống của mình để tin vào các thần bảo hộ ở nhà, đi tìm đức tin mới từ “Vàng Trứ”, “Thìn Hùng” ( đức chúa trời). Sự tác động của giáo phái lạ đã tác động sâu sắc đến văn hoá người Mông và nó đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ đựơc bản sắc văn hoá dân tộc mình. Trước tình hình đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc v ăn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang, hiện đang là vấn đề cấp thiết. Điều đó không những có ý nghĩa đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hoá của các dân tộc Mông, mà còn có ý nghĩa phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Với những lý do trên, học viên chọn “Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xung quanh vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã có khá nhiều công trình, đề tài nghiên cứu đề cập đến ở những góc độ, những hướng tiếp cận khác nhau. - Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hoá dân tộc có những tác phẩm tiêu biểu như: "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994. "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002. "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin, 2003. Những cuốn sách trên đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến bản sắc văn hoá dân tộc ở Việt Nam, nghiên cứu đặc điểm, vai trò, bản sắc văn hoá Việt Nam trong đời sống hiện nay, đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có: "Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá", Luận văn thạc sĩ Triết học của Phạm Việt Thắng, 2002, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa. Đề tài: "Kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006 của Phạm Thị Thảo.
- Nghiên cứu văn hóa dân tộc Mông có các công trình: “Dân tộc Mông ở Việt Nam”, Cư Hoà Vần - Hoàng Nam ,1994, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. “Văn hoá dân tộc Mông Hà Giang”, Trường Lưu – Hùng Đình Quý, Sở văn hoá - Thông tin – Thể thao, Hà Giang, 1996. “Văn hoá H'mông”, Trần Hữu Sơn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. "Các dân tộc Hà Giang", Lê Đại Nghĩa- Triệu Đức Thanh, Nxb thế giới, 2004. "Văn hóa tâm linh người Mông ở Việt Nam truyền thống và hiện đại", Nxb Văn hóa thông tin và viện văn học, Hà Nội, 2005. Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang (2006), Hồ sơ khảo sát văn hoá cổ truyền tộc người Mông, thuộc dự án KX- HG-03(04), Hà Giang. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử... Các công trình trên là hết sức có giá trị tạo nên một cái nhìn tổng quan về văn hoá các dân tộc. Nhiều công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Mông ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán nhằm giới thiệu về người Mông; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Mông. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung, ch ưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông một cách có hệ thống d ưới góc độ triết học. Mặc dù vậy, những kết quả nghiê n cứu trên đây là nguồn tư liệu quan trọng, là cơ sở để học viên tiếp thu, nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ bản sắc văn hoá dân tộc Mông, phân tích thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông, đề xuất một số nguyên tắc và nhóm giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Mông, tính tất yếu khách quan và một số nguyên tắc cơ bản của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang Hai là, đánh giá thực trạng và vấn đề đặt ra trong việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang hiện nay. Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản, nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở Hà Giang trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang trên góc độ triết học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú... Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Mông mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Mông ở Hà Giang nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lưý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, về dân tộc và chính sách dân tộc, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo... tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, điều tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
- 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Mông ở Hà Giang; phân tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Mông dưới góc độ triết học. Qua đó đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang trong giai đoạn hiện nay. 6.2. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Địa lý Địa phương, Văn hoá học, Dân tộc học…ở trường Cao đẳng sư phạm Hà Giang. Đồng thời nó còn làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hoá ở tỉnh Hà Giang. 7. ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa, vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang theo hướng: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Địa lý địa phương, Văn hóa, Dân tộc học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở tỉnh Hà Giang. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong 2 chương, 4 tiết.
- Chương 1 Sự cần thiết và nguyên tắc cơ bản trong việc kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mông ở nước ta hiện nay 1.1. bản sắc văn hóa dân tộc và cần thiết kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mông ở nước ta hiện nay 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa Văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú. Mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình trên thế giới vật chất lẫn tinh thần có mối liên hệ với con người, được con người tìm hiểu, nhận thức, tác động và ảnh hưởng trở lại con người đều có khía cạnh văn hóa của nó. Vì vậy, trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ càng phát triển, trình độ tư duy của con người ngày càng cao thì nội hàm văn hóa càng được mở rộng không ngừng. Văn hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học, nó trở thành một thuật ngữ đa nghĩa. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách tiếp cận văn hóa. PGS Trường Lưu cho rằng nhìn một cách tổng quát, các nhà khoa học thường dựa vào mức độ khái quát và phạm vi đối tượng để chia ra có 3 cấp độ tiếp cận: Thứ nhất: cấp độ khái quát nhằm đạt tới khái niệm chung về đặc điểm một lĩnh vực mang tính bao trùm. Thứ hai: cấp độ giá trị tinh thần được tri phối bởi bản chất văn hóa. Thứ ba: cấp độ hệ thống từng lĩnh vực cụ thể của giá trị tinh thần được thể hiện thành sản phẩm vật chất [34], [37]. Hướng tiếp cận thứ ba dựa vào cấu trúc hệ thống của sự vật để hiểu sự vật qua một biểu tượng nào đó, lựa chọn những biểu tượng tượng trưng cho một nền văn hóa. Thí dụ Kim tự tháp là biểu tượng cho văn hóa Ai Cập, tháp Epphen là biểu tượng của văn hóa Pháp, trống Đồng Đông Sơn là biểu tượng của văn hóa Việt Nam...Nhưng rõ ràng biểu
- tượng chỉ mới là giai đoạn cao của nhận thức cảm tính, mới chỉ ở cấp độ tượng trưng, là đại diện chứ chưa phải là toàn bộ bản chất văn hóa. Hướng tiếp cận thứ hai chính là khuynh hướng của học thuyết giá trị. Nhưng phải thấy tính hai mặt của học thuyết này; mọi giá trị đều thể hiện mối quan hệ giữa người và vật; chỉ khi nào sự vật khách quan có ích cho con người thì mới gọi là giá trị. Nhưng giá trị không chỉ quyết định bởi bản thân sự vật mà còn quyết định bởi con người đang chịu chi phối của giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thời đại...do đó một giá trị có thể đưa ra nhiều cách nhìn khác nhau. Giá trị mới chỉ là thước đo của văn hóa chứ chưa phải là bản thân văn hóa. TSKH Đỗ Khang nhận xét rằng lâu nay nghiên cứu văn hóa người ta thường tiếp cận theo khuynh hướng giá trị luận ít chú ý đến bản thể luận, nặng về mối quan hệ giữa giá trị văn hóa và chủ thể chứ chưa phải là bản thân văn hóa. GS Phan Ngọc quan niệm rằng, một khi văn hóa không phải là một đồ vật, mà là một mối quan hệ, có mặt ở mọi tộc người và chỉ ở con người mà thôi, thì không thể nào tìm một định nghĩa về văn hóa ở các ngành khoa học tự nó đã chia cắt loài người ra thành những tập đoàn khác nhau như dân tộc học, xã hội học, kinh tế học, chính trị học. Cần phải tìm nó ở những khoa học nghiên cứu loài người một cách tổng thể như tâm lý học, triết học [62, tr.15]. Quan niệm của GS Phan Ngọc cũng chứng tỏ các nhà văn hóa học cũng muốn "thoát ra" khỏi văn hóa học để định nghĩa văn hóa. Đó chính là hướng tiếp cận thứ nhất, hướng tiếp cận ở góc độ khái quát nhằm đạt tới khái niệm chung về đặc điểm một lĩnh vực mang tính bao trùm. Đó chính là hướng tiếp cận của Triết học. Để xác định được triết học tiếp cận văn hóa như thế nào, nghiên cứu khía cạnh nào của văn hóa, chúng ta cần tiếp thu ý kiến của các nhà Triết học trong lịch sử, nhất là các nhà Triết học trong lịch sử, nhất là các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Các nhà triết học cổ đại Phương Đông đều nhất mạnh khía cạnh quan hệ Lễ - Nghĩa của cộng đồng; các nhà triết học cổ đại phương Tây nhấn mạnh các điều kiện khách quan qui định nên tính cách dân tộc, tính đặc thù và tính cách của mỗi dân tộc
- người, ý nghĩa nhân đạo trong phương thức ứng xử của con người. Các yếu tố đó có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội. Trong thời cận đại nhà triết học người Anh, Jon locke (1632 - 1704) quan tâm đến ý nghĩa của những nét đặc thù trong hoạt động sống của các cộng đồng, vai trò và ý nghĩa của các dạng văn hóa, đặc biệt ông đề cao ý nghĩa của văn hóa tộc người. Nhà triết học người Đức, J G Hecđe (1744 -1804) là người đã nghiên cứu một cách có hệ thống về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển của các dân tộc cũng nh ư toàn xã hội. Ông cho rằng văn hóa là cái tạo ra tinh thần của dân tộc. C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm bản chất văn hóa thể hiện trong mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội: "Bản chất của con người không phải là cái gì trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [40,11]. C.Mác gọi hoạt động sống của con người là những hoạt động thể hiện quan hệ con người với con người, con người với xã hội. C.Mác vạch rõ nguồn gốc của văn hóa gắn liền với những năng lực sáng tạo của con người. Sự sáng tạo đó bắt nguồn từ lao động. Văn hóa là sự "Thăng hoa" của sản xuất vật chất. Ông cho rằng người ta có thể căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác chuyển biến thành bản chất con người như thế nào để đánh giá trình độ văn hóa. C.Mác viết "Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo th ước đo và nhu cầu của giống loài nó, con người chỉ có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối tượng. Do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp" [40, 10]. C.Mác cho rằng việc con người tạo ra " thiên nhiên thứ hai" theo quy luật của cái đẹp là thuộc tính bản chất, chính đó là cái văn hóa trong hoạt động của con người. Như vậy theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở...mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong toàn bộ sản phẩm vật chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội của mình. Con người là thước đo của mỗi giá trị, còn văn hóa là thước đo nhân tính sự sáng tạo và thái độ của con người
- trước hiện thực. Vì vậy Ph. Ăngghen đã nói "Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do" [41,164]. Khi bàn về văn hóa, V.I.Lênin cho rằng, trong xã hội có giai cấp, luôn luôn tồn tại hai nền văn hóa, nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa của nhân dân lao động. Ông khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hóa, cuộc cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc hậu song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển rồi mới làm cách mạng văn hóa, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hóa cách mạng, là yếu tố rất quan trọng để xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin đã gắn văn hóa với phát triển, chỉ ra mục tiêu quan trọng nhất của văn hóa là hoàn thiện con người về mọi mặt. Vì vậy phải biết kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống. Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn, cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [46, 431]. Định nghĩa trên đây đã xác định văn hóa là sự phát triển tất yếu, mang tính xã hội cao, là phương thức sống, hoạt động và không ngừng được nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo và giá trị nhân văn là nội dung cốt lõi của văn hóa. Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư kưý UNESCO định nghĩa: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr.23].
- UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng. Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình [24, tr.13-14]. Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể,
- nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán… Như thế, văn hóa không phải là một vật cụ thể, người ta không thể tìm được sự vật hiện tượng nào kể cả trong tự nhiên, một khi đã đặt trong quan hệ con người đều biểu hiện mặt văn hóa. Như vậy văn hóa vừa là cụ thể, vừa là trìu tượng. Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: Văn hóa là năng lực sáng tạo, là thái độ, phương thức sống, phương thức hoạt động, tính nhân đạo của con người trong quá trình sản xuất, đấu tranh làm nên các giá trị vật chất, tinh thần, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh, là một chi tiết của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người (Nation) sống trong cùng một quốc gia. Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lưý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó. Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [65, tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các
- giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc. Đúng như đồng chí Đỗ Mười đã khẳng định: Ngày nay văn hoá được coi là một yếu tố nội sinh, không phảI chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của sự phát triển xã hội, phảI đặt trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa của loài người. Văn hoá phảI kết tinh thành trí tuệ của cả dân tộc, được thừa kế, phát triển qua nhiều thế hệ, tạo ra sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của toàn dân để xây dựng và bảo vệ tổ quốc [91, 81]. - Bản sắc văn hóa: Dân tộc nào cũng có nền văn hóa truyền thống. Đó là tổng hợp những hiện tượng văn hóa - xã hội bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã hội, các phong tục tập quán, các lễ nghi, thiết chế xã hội…được bảo tồn qua năm tháng, trở thành thói quen trong các hoạt động sống của con người và nó được in dấu mọi mặt của đời sống xã hội thuộc một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt, chúng ta gọi là “bản sắc dân tộc của văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”. Bản sắc theo nghĩa ban đầu “bản” là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi; còn “sắc” là cái biểu hiện ra bên ngoài của sự vật. Theo từ điển Tiếng Việt bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành phẩm cách đặc biệt của một vật [42]. ở Việt Nam có nhiều định nghĩa như tính chất dân tộc, hình thức dân tộc, đặc điểm, cốt cách, bản lĩnh, sắc thái dân tộc...Nhưng khái niệm "Bản sắc văn hóa dân tộc" phản ánh được nét cô đọng nhất, nói lên được cái rường cột, cái tinh thần của dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị vật chất tinh thần cô đọng nhất, bền vững nhất, tinh túy nhất, là sắc thái gốc, riêng biệt của mỗi dân tộc, làm cho dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển phụ thuộc vào đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử tự nhiên, môi trường cư trú, thể chế chính trị cũng như sự giao lưu với nền văn hóa khác. Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc đã sáng tạo ra, đã vun trồng nền văn hóa đó, bản sắc dân tộc của văn hóa cũng chính là bản sắc văn hóa của dân tộc ấy.
- Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, kiểu lựa chọn…giúp cho mỗi dân tộc giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của dân tộc mình trong quá trình phát triển. Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc dù biểu hiện có thay đổi nhưng giá trị bản sắc văn hoá vẫn duy trì: Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập [6, tr. 48]. Bản sắc văn hóa có tính dân tộc vì nó được tạo ra, được lưu truyền trong công đồng dân tộc với một sắc thái thiên nhiên, điều kiện xã hội, lịch sử riêng; qua quá trình phát triển lâu dài, những đặc điểm dân tộc in dấu ấn vào các sáng tạo văn hóa. Trải qua nhiều thử nghiệm, thách thức của thời gian dần dần lắng đọng, định hình tạo thành bản sắc dân tộc của văn hóa. Nó tạo nên cốt cách, bản lĩnh, sức sống nội sinh củ dân tộc, trên cơ sở đó nảy sinh và hoàn thiện ý thức dân tộc, tạo nên lực hút, quy tu, gắn kết với các thành viên cộng đồng, tạo ra thế đứng vững chắc trong quá trình phát triển. Bản sắc văn hoá dân tộc là gương mặt tinh thần, là tiêu chí để nhận biết được các giá trị phẩm chất của một dân tộc, vì văn hoá truyền thống là nền tảng, là pháo đài, điểm tựa cho sự giao lưu văn hoá Quốc tế. Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua hàng trăm thế kỷ nối tiếp nhau trong lịch sử, như dòng phù xa dã hóa thân vào màu xanh của đồng lúa, như tính chấtcủa đất trở thành sức sống của cây, cỏ, hoa, trái. Tất cả các Quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản văn hóa của dân tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc văn hóa dân tộc thì tính da dạng của văn hóa thế giới sẽ bị nghèo đi do sự lai căng của các nền văn hóa vì thế bản sắc văn hóa dân tộc phải đứng vững trên đôi
- chân của mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại, làm cho các yếu tố hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống. Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [64, tr.13]. “Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [18, tr. 37]. Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản sắc dân tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy. Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong và biểu hiện bên ngoài. Giá trị bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy, chiều sâu tâm hồn, truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan; giá trị bên ngoài nh ư cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ thuật kiến trúc đình, chùa, nét đặc trưng của các làn điệu dân ca, ngôn từ, các tác phẩm văn học nghệ thuật…Các giá trị này luôn có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy nhau phát triển. Nguồn gốc tạo thành bản sắc dân tộc có thể do nhiều yếu tố như: hoàn cảnhn địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức hoạt động kinh tế. Nhưng bản sắc văn hoá dân tộc, không thể xuất phát từ nhừ yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ các dân tộc Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ:
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ưý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ưý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16, tr.56]. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng không phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc. Một dân tộc nếu như đánh mất bản sắc văn hoá, thì thực chất dân tộc ấy đã đánh mất chính mình. Một nền văn hoá có tính dân tộc, là nền văn hoá mang đầy đủ bản sắc của dân tộc mình. Chính vì vậy, việc kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc. 1.1.2. Sự cần thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mông ở nước ta hiện nay 1.1.2.1. Khái lược vài nét về lịch sử dân tộc Mông và những vấn đề đặt ra Người Mông là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc này có truyền thống văn hoá độc đáo, có bề dày lịch sử hàng nghìn năm trước đây và trên 300 năm sau khi Trung Quốc sang định cư ở hầu hế các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Về tộc danh của dân tộc này có nhiều cách nhìn, cách lí giải khác nhau. Những tài liệu từ thế kỷ thứ VII- trước công nguyên trong biên niên sử Trung Quốc đã xuất hiện từ "Tam miêu" để chỉ một quốc gia đó có một bộ lạc hợp nhất lại. Kinh thư của Khổng Tử có chép rằng: ở vùng Hồ Động Đình thiên niên kỷ thứ II - trước công nguyên đã có những bộ hợp nhất mang tên "Tam miêu". Gọi là Tam miêu là do người ta căn cứ vào 3 màu sắc trang phục của người Mông lúc đó (Hồng miêu, Bạch miêu, Thanh miêu) [71.56]. Sách chiến quốc ghi "Nước Tam miêu xưa ở phía tả có Hồ Động Đình, phía hữu có Hồ Bành Lãi, phía Nam là núi Màn Sơn, phía Bắc là núi Hoành Sơn. Vì chính trị không tốt nên Vua Vũ đuổi" [71, 55]. Căn cứ vào cấu tạo chữ Miêu, trên là bộ thảo, dưới là chữ điền mà nhiều học giả suy đoán tên gọi này có thể do người Hán đặt để chỉ một dân tộc biết làm ruộng. Khi phiên âm chữ Miêu ta phiên âm thành chữ Mieo, quen gọi là Mèo. Khi dư cư đến Việt Nam, tộc danh này ngẫu nhiên trùng với tên con mèo của người Việt. Vì vậy, phần lớn người Mông không thích nên đề nghị Chính phủ cho được gọi theo cách bà con tự gọi mình là người Mông (Hmôngz). Nhưng từ Mông nếu phát âm đúng theo tiếng Mông là một âm mũi (Hmôngz). Trong khi đó, hệ thống âm phụ tiếng Việt không có chữ nào ghi chính xác được tiếng âm mũi trên. Những nhà nghiên cứu đã mượn âm phụ (Hm) để ghi âm từ Mông. Do đó khi viết tên dân tộc mình theo chữ Mông La tinh thì người Mông viết HMông vần H phía đầu chỉ là âm gío, đọc gần như Mông. Nếu viết HMông người đọc dễ nhầm lẫn đọc Hơ Mông thì đồng bào không chấp nhận. Người Mông muốn gọi tên dân tộc mình là Mông (có nghĩa là người). Tại hội Nghị cốt cán dân tộc Mông năm 1978 do Uỷ ban dân tộc của Chính phủ chủ trì đã thống nhất gọi là dân tộc Mông. Khoa học về nhân chủng đã khẳng định việc hình thành nhân chủng diễn ra trong một thời gian dài từ thời đá cũ hậu kỳ và đã mới. Các nhà khảo cổ học sau khi nghiên cứu hiện vật Nam kinh - Động Đình đã đi đến kết luận các bộ lạc Mông đã xuất hiện ở đây vào thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên.
- Các nhà dân tộc học trên thế giới và trong nước như: R.F.l (Nga). RMO SE (Anh), KHSEAN (Nga), TORIDDI (Nhật), DINH SDIAU (Trung Quốc). PGS. Hoàng Nam; Nguyễn Đình Khoa đều thống nhất nhận định Tỉnh Quý Châu (Trung Quốc) là cái nôi của người Mông. Bản thân người Mông ở Đông Nam á đều coi tỉnh Quý Châu là nơi chôn rau cắt rốn của tổ tiên mình. Nguyên nhân dẫn đến các cuộc thiên di lớn của người Mông xuống các vùng Đông Nam á là bắt nguồn từ chính sách áp bức hà khắc của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ngay từ thời Nghiêu (2357 - 2258 TCN) và thời Thuấn (2255 - 2208 TCN) đã có chiến tranh giữa người Miêu và người Hoa. Sau các cuộc chiến tranh này đến nhà Hạ (2205 - 1706 TCN) người Mông chạy dạt xuống phía Nam. Người Mông từ Trung Quốc, ngay từ thời Nghiêu (2357 -2258 TCN) và thời Thuấn (2255 - 2208 TCN) đã có chiến tranh giữa người Miêu và người Hoa. Sau các cuộc chiến tranh này đến nhà Hạ (2205 - 1706 TCN) người Mông chạy dạt xuống phía Nam. Người Mông từ Trung quốc di vào Việt Nam thành nhiều đợt, nhưng có 3 đợt đông nhất: Đợt 1: Đời nhà Minh ban hành chính sách "Cải tổ quy hai" điều những người đứng đầu dòng họ và triều đình nhưng "Hữu chức vô quyền" đồng thời cho người Hán đến vùng Mông cái trị người Mông, người Mông đã đứng dậy chống lại chính sách này. Nhà Minh huy động hơn 60 vạn quân đánh dẹp, người Mông thua phải di cư xuống phía Nam. Trong đó có hàng trăm gia đình xuống Đồng Văn (Hà Giang) cách đây từ 14 - 15 đời (trên dưới 300 năm). Đợt 2: Đời nhà Thanh có đạo luật quy định 5 hộ người Mông mới được dùng một con dao Mông, cấm không được dùng kim khí làm công cụ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay
105 p | 121 | 29
-
Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Cty Bóng đèn Điện Quang - 2
9 p | 88 | 25
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu quy trình hạch toán kế toán thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thừa Thiên Huế
78 p | 97 | 17
-
Luận văn tốt nghiệp: Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở công ty vật tư kỹ thuật xi măng Hà Nội
77 p | 77 | 14
-
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị: Kinh tế tư nhân trong nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương
177 p | 66 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước theo hệ thống TABMIS tại kho bạc nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế
29 p | 70 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước theo hệ thống TABMIS tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế
29 p | 70 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp Cầu - Công ty cổ phần Xây Dựng Giao Thông Thừa Thiên Huế
123 p | 94 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền giám sát của công dân ở Việt Nam hiện nay
164 p | 22 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiệp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất tại Công ty CP Xây lắp Thừa Thiên Huế
119 p | 16 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản tại Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông tỉnh Thừa Thiên Huế
125 p | 19 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất tại Công ty CP Xây lắp Thừa Thiên Huế
119 p | 10 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Vật lý: Nghiên cứu các đại lượng nhiệt động của vật liệu trong lý thuyết XAFS phi điều hòa
136 p | 24 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân tại chi cục thuế khu vực Thanh Khê - Liên Chiểu, Đà Nẵng
121 p | 12 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước theo hệ thống TABMIS tại kho bạc nhà nước Thừa Thiên Huế
116 p | 18 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay
27 p | 34 | 2
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất tại Công ty cổ phần Xây lắp Thừa Thiên Huế
26 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn