intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Hương Hoa Cỏ Mới | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

35
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án là đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chỉ ra được những nội dung đã được các công trình nghiên cứu làm rõ mà Luận án có thể kế thừa, phát triển, những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THẾ ANH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 938 01 06 HÀ NỘI - 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ BÁO Phản biện 1: .................................................................. .................................................................. Phản biện 2: .................................................................. .................................................................. Phản biện 3: ................................................................. .................................................................. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi .... giờ .... ngày ...... tháng ..... năm 2021 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng (TĐKT) đã được hình thành ngay từ những ngày đầu thành lập nước và được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Công tác TĐKT từ chỗ chỉ là những khẩu hiệu, những lời kêu gọi, đã được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật từ Luật cho tới các Nghị định, Thông tư… về TĐKT. Thực hiện pháp luật TĐKT cũng theo đó đã trải qua nhiều giai đoạn, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng và góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Căn cứ vào thẩm quyền được quy định, các cấp, các ngành trong toàn quốc đã phát động các phong trào thi đua (PTTĐ) ở nhiều quy mô khác nhau, từ phong trào chung toàn quốc do Thủ tướng Chính phủ phát động đến các PTTĐ do các Bộ, ban, ngành, địa phương hưởng ứng. Cùng với việc thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật TĐKT cũng như tuyên truyền về nội dung, mục đích, ý nghĩa vai trò của các PTTĐ, các PTTĐ đã thu hút được đông đảo người dân, người lao động tham gia. Đồng thời, các quy định pháp luật về công tác khen thưởng được thực hiện tốt. Việc đảm bảo những nguyên tắc kịp thời, chính xác, công khai trong khen thưởng đã đem lại những tâm lý tích cực trong xã hội. Những hình thức khen thưởng (HTKT) từ Giấy khen, Bằng khen, cho tới Huân chương các loại cũng như các danh hiệu thi đua (DHTĐ) đã được trao tặng cho những tấm gương điển hình tiên tiến là cá nhân, tập thể trong lao động, sản xuất và chiến đấu. Điều này không chỉ để ghi nhận sự đóng góp và tôn vinh những cá nhân, tập thể đó, mà còn giúp tạo không khí lao động, làm việc sôi nổi để từ đó tạo động lực cho các cá nhân nỗ lực, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp vào thành tích chung của tập thể. Để thực hiện tốt pháp luật TĐKT cẩn có sự tham mưu, trực tiếp thực hiện, triển khai các quy định pháp luật TĐKT. Điều đó được thể hiện trong việc tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT bao gồm Hội đồng TĐ-KT, Vụ, Ban, Phòng TĐ-KT và cán bộ phụ trách công tác TĐKT về cơ bản đã bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những bất cập, hạn chế tố như: Hệ thống các văn bản pháp luật TĐKT còn nhiều khoảng trống, các mối quan hệ trong lĩnh vực TĐKT chưa được ghi nhận, quy định đầy đủ. Việc phân cấp, phân quyền trong công tác TĐKT chưa được rõ ràng, cụ thể và thống nhất thực hiện ở các nơi. Các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện các DHTĐ, HTKT còn chung chung, chưa sát hợp với thực tiễn… Pháp luật TĐKT có chứa đựng nhiều quy phạm tùy nghi, là nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện pháp luật TĐKT chưa được thống nhất. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn của cấp trên đối với các vướng mắc, phát sinh của cấp dưới trong nhiều trường hợp chưa đảm bảo
  4. 2 tính thiết thực, phù hợp với đặc thù của từng tổ chức, địa phương... Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới các văn bản pháp luật TĐKT luôn được sửa đổi, bổ sung trong thời gian ngắn. Thực hiện pháp luật TĐKT trong việc tổ chức, triển khai các phong trào thi đua còn mang tính hình thức, chưa đảm bảo trọng tâm, trọng điểm, chưa thu hút được sự quan tâm của người dân, người lao động. Bên cạnh đó, việc thành lập và hoạt động của các cụm, khối thi đua chưa thực sự có hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật TĐKT còn hạn chế, các cá nhân, tập thể chưa nhận thức được đúng vị trí, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật TĐKT, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Việc áp dụng các quy định pháp luật về khen thưởng chưa được thực hiện hiệu quả. Còn xảy ra các trường hợp sai sót trong xác định thẩm quyền xét tặng, hình thức khen thưởng, các điều kiện, tiêu chuẩn và chế độ khen thưởng. Ngoài ra, trong THPL về khen thưởng, tính độc lập chưa được đảm bảo. Việc thực hiện pháp luật TĐKT còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính trị, ngoại giao, văn hóa, tài chính,... ảnh hưởng tính độc lập. Điều này dẫn tới tình trạng khen thưởng chưa đúng người, đúng việc, tạo tâm lý tiêu cực tới người dân, người lao động và làm giảm sự tôn vinh, suy tôn đối với những người được khen thưởng xứng đáng do có thành tích thực chất. Chưa có sự thống nhất trong thực hiện các quy định pháp luật TĐKT về thành lập hệ thống tổ chức, bộ máy, cán bộ làm công tác TĐKT trong các tổ chức, địa phương trên cả nước. Trong quá trình đổi mới hiện nay, để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra, đòi hỏi phải nghiên cứu pháp luật TĐKT và thực hiện pháp luật TĐKT để nhận diện các hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các quan điểm, giải pháp để khắc phục. Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong phạm vi Luận án Tiến sĩ, ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án là góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật TĐKT, đánh giá khái quát thực trạng thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chỉ ra được những nội dung đã được các công trình nghiên cứu làm rõ mà Luận án có thể kế thừa, phát triển, những vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu. Hai là, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật TĐKT bao gồm: khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, các hình thức thực hiện pháp luật TĐKT và các yếu tố tác động tới thực hiện pháp
  5. 3 luật TĐKT. Đồng thời nghiên cứu việc thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở một số nước trên thế giới và nhận định một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam. Ba là, nghiên cứu, phân tích đánh giá khái quát quá trình phát triển của pháp luật TĐKT ở Việt Nam, thực trạng thực hiện pháp luật TĐKT hiện nay, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của kết quả, hạn chế. Bốn là, từ kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn xác các quan điểm và đề xuất các giải pháp thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay, trong đó có sự tham khảo, nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện pháp luật TĐKT ở một số nước trên thế giới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay, qua thực tế một số Bộ, ban, ngành và khu vực hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đồng thời, luận án so sánh và rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về thực hiện pháp luật TĐKT ở một số nước trên thế giới, có giá trị tham khảo ở Việt Nam. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật TĐKT chia thành hai giai đoạn từ sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa năm 1945 cho tới nay, trong đó tập trung giai đoạn từ năm 2003, khi lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật TĐKT. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói chung và pháp luật TĐKT, thực hiện pháp luật TĐKT nói riêng; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc thực hiện pháp luật TĐKT. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp luận, luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. Về các phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp và phương pháp tổng hợp. 5. Điểm mới về khoa học của luận án - Luận án đưa ra cách tiếp cận vấn đề thực hiện pháp luật TĐKT từ góc độ lý luận và lịchasử nhà nước và pháp luật. - Luận án xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật TĐKT làm nền tảng xuyên suốt nội dung trong Luận án; chỉ ra được một số đặc điểm, hình thức
  6. 4 thực hiện pháp luật TĐKT; phân tích các nội dung điều chỉnh của pháp luật về TĐKT và vai trò, các yếu tốt tác động đến thực hiện pháp luật TĐKT. - Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam theo các giai đoạn trước năm 2003 và từ năm 2003 đến nay, gắn với các hình thức thực hiện pháp luật; từ đó, rút ra các ưu điểm, hạn chếavà nguyên nhân của các ưu điểm, hạn chế đó trong thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. - Luận án đưa ra những quanađiểm và đề xuất các giải pháp có tính khả thi trong thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phầnalàm sáng tỏ thêm một số nội dung lý luận thực hiện pháp luật TĐKT. - Về mặt thực tiễn, những quan điểm, giải pháp được đề xuất trong Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt các cơ quan, tổachức, cá nhân làm công tác TĐKT. Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật nói chung và về pháp luật TĐKT nói riêng trong chương trình giảng dạy trung cấp, cao cấp lý luận chính trị hiện nay ở nước ta. 7. Về bố cục của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được kết cấu làm 4 chương 12 tiết. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, những công trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên cứu pháp luật về tuyển dụng công chức được công bố thời gian qua gồm: Một (01) đề tài khoa học cấp nhà nước; một (01) đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ; tám (08) sách chuyên khảo; và bốn (04) bài viết đăng trên các tạp chí khoa học. Ngoài ra, còn có một số sách chuyên khảo, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ nghiên cứu về thi đua, khen thưởng. Trong đó bao gồm các tác phẩm của các tác giả trong nước và nước ngoài. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, những công trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên cứu pháp luật về tuyển dụng công chức được công bố thời gian qua gồm: Hai (02) đề tài khoa học cấp nhà nước; hai (02) đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ; một (01) sách chuyên khảo; và hai (02) bài viết đăng trên các tạp chí khoa học.
  7. 5 Luận án đánh giá các tác phẩm trên theo từng vấn đề: hệ thống pháp luật TĐKT, thực trạng các quy định pháp luật về TĐKT và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật TĐKT ở Việt Nam. 1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, những công trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên cứu pháp luật về tuyển dụng công chức được công bố thời gian qua gồm: bốn (04) đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ; ba (03) sách chuyên khảo; và hai (02) bài viết đăng trên các tạp chí khoa học; Hai (02) Luận án và ba (03) Luận văn và một số tài liệu khác. Luận án đánh giá theo hai nội dung: thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật thi đua khen thưởng ở Việt Nam nói riêng. Mỗi nội dung, Luận án nhận xét theo từng vấn đề: thực trạng thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. 1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN 1.4.1. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thực hiện pháp luật TĐKT cho thấy: Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về TĐKT được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên số lượng công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật TĐKT còn ít, chưa phong phú và đa dạng, phần lớn được tiếp cận và nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà nước. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đã được công bố, đã làm sáng tỏ nhiều khía cạnh lý luận về thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam. Nhiều công trình đã đi sâu đánh giá thực trạng công tác TĐKT đối với một số lĩnh vực cụ thể hoặc tại một địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, một số công trình nghiên cứu đã dành sự quan tâm tới việc đề xuất các giải pháp, trong đó có các giải pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật TĐKT ở nước ta hiện nay. Đây là kết quả có thể kế thừa, phát triển trong nghiên cứu đề tài luận án. 1.4.2. Những vấn đề liên quan đến thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng đã đƣợc nghiên cứu sáng tỏ, có kết luận thống nhất luận án có thể kế thừa, phát triển Thứ nhất, trên phương diện lý luận: Các công trình đã có sự thống nhất về các vấn đề: quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về TĐKT; khái niệm, ý nghĩa và bản chất của TĐKT; về vị trí, tầm quan trọng của công tác TĐKT đối các sự phát triển kinh tế-xã hội. Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức THPL ở Việt Nam qua các công trình nghiên cứu có những nét cơ bản như nhau. Các công trình nghiên cứu đã tổng kết được quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về THPL.
  8. 6 Thứ ba, TĐKT dần trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Trong đó phải kể đến ngành quản lý công, hành chính công, tư tưởng Hồ Chí Minh… Điều này xuất phát từ thực tế hiện nay, công tác TĐKT ngày càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng, coi đây là một công cụ quản lý hữu hiệu đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tập thể và người lao động. Thứ tư, các công trình đều chỉ ra rằng, pháp luật về TĐKT là khung pháp lý và là cơ sở pháp lý quan trọng để từ đó thực hiện công tác TĐKT trong thực tiễn. Các tác giả cũng đã đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật TĐKT để phù hợp hơn với thực tiễn PTTĐ và công tác khen thưởng hiện nay. 1.4.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án nhƣng chƣa đƣợc giải quyết thấu đáo hoặc chƣa đƣợc đặt ra Thứ nhất, pháp luật TĐKT là một trong những lĩnh vực được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Các công trình kể trên được thực hiện chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2013 trở về trước. Do vậy, tình hình thực tiễn THPL TĐKT trong giai đoạn gần đây chưa được nghiên cứu, bổ sung. Thứ hai, các công trình khoa học nghiên cứu về pháp luật TĐKT còn rất ít. Đa số các công trình kể trên nghiên cứu về công tác TĐKT nói chung. Do đó, các đặc điểm của pháp luật TĐKT chưa được đi sâu phân tích, so sánh làm rõ tính đặc thù so với hệ thống pháp luật trong lĩnh vực khác. Thứ ba, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp và tổng thể về vấn đề thực hiện pháp luật TĐKT. Các công trình mới chỉ nghiên cứu được một nội dung trong thực hiện pháp luật TĐKT chứ chưa phân tích đầy đủ và tổng thể, chưa thấy được sự tác động qua lại cũng như chuyển hoá lẫn nhau trong việc thực hiện pháp luật TĐKT. Đặc biệt việc phân tích thực trạng thực hiện pháp luật TĐKT với các hình thức thực hiện chưa được làm rõ. 1.4.4. Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Một là, tiếp cận từ góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật về các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật TĐKT bao gồm: khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, các hình thức THPL, các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật TĐKT cũng như thực hiện pháp luật về TĐKT ở một số nước và giá trị tham khảo đối với Việt Nam. Hai là, phân tích thực trạng pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay dựa trên nội dung của pháp luật TĐKT thể hiện ra ngoài bằng các hình thức THPL bao gồm: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Ba là, từ việc phân tích những kết quả, hạn chế của thực hiện pháp luật TĐKT, luận giải được tính cấp thiết, các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay. 1.4.5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 1.4.5.1. Giả thuyết nghiên cứu Thi đua, khen thưởng, pháp luật TĐKT và thực hiện pháp luật TĐKT đã
  9. 7 được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện, được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế. Để thực hiện pháp luật TĐKT đạt nhiều kết quả cần phải nhận thức đúng đắn về TĐKT, pháp luật TĐKT, đặc điểm, nội dung, vai trò, hình thức thực hiện pháp luật TĐKT và các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật TĐKT. Từ đó nhận diện đúng thực trạng thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó để có quan điểm, giải pháp khắc phục, bảo đảm thực hiện pháp luật TĐKT góp phần tạo động lực và sức mạnh cho quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh mới hiện nay. 1.4.5.2. Câu hỏi nghiên cứu Luận án cần trả lời một số câu hỏi nghiên cứu sau đây: - Câu hỏi nghiên cứu lớn có tính chất bao trùm luận án: Làm thế nào để bảo đảm thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay? - Các câu hỏi cụ thể: (1) Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng là gì? Thực hiện pháp luật TĐKT bao gồm những nội dung gì, được thể hiện trong thực tiễn qua những hình thức nào? Các yếu tố nào tác động tới kết quả thực hiện pháp luật TĐKT trong thực tế? (2) Pháp luật thi đua, khen thưởng được thực hiện ở Việt Nam đã có những những bước phát triển như thế nào? Trong thời gian vừa qua đã đạt những kết quả gì, còn những hạn chế gì và ở mức độ nào? Các kết quả và hạn chế đó do những nguyên nhân, yếu tố nào tác động tới? (3) Để việc thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam trong thời gian tới đạt kết quả tốt hơn, cần phải xác định những quan điểm như thế nào? Áp dụng những giải pháp gì để khắc phục những nguyên nhân hoặc giảm bớt sự ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố đã được nhận diện? Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG 2.1.1. Khái niệm thi đua, khen thƣởng 2.1.1.1. Khái niệm thi đua Trên cơ sở phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thương, Luận án đưa ra khái niệm: "Thi đua là hoạt động có tính tự thân, gắn liền với bản chất của con người, thông qua lao động mà hoàn thiện bản thân và từ đó góp phần tạo dựng xã hội tốt đẹp hơn".
  10. 8 2.1.1.2. Khái niệm khen thưởng Khen thưởng là "hành vi của cấp có thẩm quyền nhằm ghi nhận và suy tôn những cá nhân, tập thể, dựa trên sự đóng của các cá nhân, tâp thể đó đối với tổ chức và xã hội ". 2.1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng Thứ nhất, thi đua là cơ sở, nền tảng của công tác khen thưởng Thứ hai, thực hiện công tác khen thưởng tốt sẽ có tác dụng tích cực tới hiệu quả của các phong trào thi đua 2.1.2. Khái niệm pháp luật thi đua, khen thƣởng Các nhóm quan hệ xã hội cơ bản trong thực hiện pháp luật TĐKT được hình thành, có thể khái quát vào thành ba nhóm quan hệ sau đây: Thứ nhất, nhóm quan hệ giữa cấp phát động và cấp hưởng ưởng; Thứ hai, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức-quản lý công tác thi đua, khen thưởng; Thứ ba, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục công tác thi đua, khen thưởng Từ phân tích trên có thể hiểu pháp luật TĐKT như sau: Pháp luật thi đua, khen thưởng là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng. 2.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng Dựa trên các khái niệm công cụ, Luận án đưa ra khái niệm thực hiện pháp luật TĐKT: "Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng là hành vi thực tế, hợp pháp được hình thành trong quá trình hiện thực hóa các quy định của pháp luật TĐKT nhằm mở rộng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về TĐKT." 2.1.4. Đặc điểm thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng ở Việt Nam Thực hiện pháp luật TĐKT ở Việt Nam bên cạnh những đặc điểm chung về THPL có tính phổ quát, còn có những điểm riêng, đó là: 2.1.4.1.Chủ thể tham gia quá trình thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng rất đa dạng Chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật thi đua rất rộng, theo Điều 2 Luật Thi đua, Khen thưởng 2003 quy định: "Luật này áp dụng đối với cá nhân, tập thể người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và cá nhân, tập thể người nước ngoài". Đối với chủ thể là cá nhân tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật TĐKT bao gồm công dân Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Đối với tập thể bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị Lực lượng vũ trang nhân dân, gia đình, cơ quan, tổ chức nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam
  11. 9 2.1.4.2. Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng gắn liền với tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc Thực hiện pháp luật TĐKT cũng mang tính chất riêng có của Việt Nam, không giống bất kỳ quốc gia nào. Xuất phát từ việc hệ thống pháp luật TĐKT được hình thành dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin về TĐKT và được Hồ Chí Minh tiếp thu, sáng tạo, phát triển kết hợp với chủ nghĩa yêu nước của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là một trong những nội dung quan trọng, đóng góp rất quan trọng về mặt lý luận trong việc hình thành hệ thống pháp luật TĐKT hiện nay. 2.1.4.3. Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng dựa trên hệ thống văn bản pháp luật đa dạng, phong phú Pháp luật TĐKT bao gồm hệ thống nhiều loại văn bản khác nhau, do nhiều cơ quan ban hành gồm các loại văn bản như: Luật, sắc lệnh, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, thông tư.... Hiện nay, hệ thống các văn bản của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước điều chỉnh công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay có 16 chỉ thị, thông báo, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; 16 Nghị định của Chính phủ, 04 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 13 Thông tư của Bộ Nội vụ và các Bộ liên quan. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến các Quy chế giải thưởng, cũng có thể được coi là các yếu tố tạo nên sự đa dạng của hệ thống pháp luật thi đua, khen thưởng hiện nay. Hiện trong cả nước có khoảng trên 20 quy chế giải thưởng. Đối với các địa phương cũng có những chính sách, phương thức khen thưởng khác nhau nhằm ghi nhận những đóng góp của tập thể, cá nhân trong phạm vi quản lý của mình. 2.1.4.4. Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng gắn chặt với thực tiễn môi trường thi đua ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương Hiệu quả thực hiện pháp luật TĐKT gắn chặt chẽ với thực tiễn ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương khác nhau về đặc điểm, tính chất, đối tượng, phạm vi… do đó mà thực hiện pháp luật TĐKT thể hiện ở phong trào thi đua và công tác khen thưởng cũng khác nhau và vô cùng đa dạng. Pháp luật TĐKT không bao trùm hết được các vấn đề này, mà giao quyền chủ động cho từng cơ quan, đơn vị, địa phương, dựa vào chức năng nhiệm vụ, đặc điểm, tình hình của mình mà phát động các PTTĐ khác nhau, thực hiện các chính sách khen thưởng khác nhau. 2.1.5. Vai trò của thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng 2.1.5.1. Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thi đua, khen thưởng vào thực tiễn Pháp luật TĐKT là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, và Nhà nước về TĐKT nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện
  12. 10 có hiệu quả trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật cũng là phương tiện để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và cũng là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. 2.1.5.2. Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng góp phần bảo đảm môi trường thi đua, khen thưởng hiệu quả, thực chất Môi trường TĐKT là một bộ phận trong tổng thể môi trường làm việc của từng cơ quan, địa phương. Nó có sự liên kết chặt chẽ, mối quan hệ biên chứng hai chiều với việc hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan, địa phương. Môi trường thi đua là tổng hợp những yếu tố ảnh hưởng tới công tác TĐKT trong một tập thể. Môi trường TĐKT tốt thể hiện ở khía cạnh như: cơ chế, chính sách khen thưởng hướng tới người lao động, việc xét tặng DHTD, HTKT khách quan, công bằng, xét tặng đúng người, đúng việc, có nhiều phong trào thiết thực,… sẽ là nhân tố tạo động lực quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ của từng tập thể, cá nhân. Chiều ngược lại, việc hoàn thành nhiệm vụ của từng tập thể, cá nhân lại có tác động tích cực tới môi trường TĐKT, giúp cho không khí thi đua thêm sôi nổi, tạo đựng sự hưng phấn, nỗ lực, hăng say làm việc cho mọi người, từ đó có thêm nhiều mô hình mới, cách làm hay, những gương điển hình tiên tiến hơn trong PTTĐ. 2.1.5.3. Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của các tập thể, cá nhân Thực hiện pháp luật TĐKT không những là công cụ quản lý hữu hiệu của các cấp quản lý, lãnh đạo, mà còn góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của các tập thể, cá nhân. Kết quả của việc thực hiện pháp luật TĐKT được sử dụng vào nhiều công tác khác, đặc biệt công tác quản lý cán bộ. Đó là nâng ngạch, nâng lương, quy hoạch, bổ nhiệm…, đồng thời cũng là cơ sở để đánh giá, xếp loại đảng viên, công đoàn viên… Do đó, TĐKT ngày càng thể hiện là quyền lợi thiết thân của người lao động. 2.1.5.4. Thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng góp phần tạo tâm lý tích cực tới các tập thể, cá nhân trong thực hiện hoàn thành nhiệm vụ Thi đua là một nhu cầu của con người. Con người có nhu cầu được tôn vinh, được ghi nhận đối với những gì mà họ đạt được. Để người lao động giữ được sự cố gắng, nhiệt tình, nỗ lực trong công việc, đòi hỏi người lãnh đạo không những biết tổ chức, thực hiện những hoạt động mang tính thi đua, nhằm khơi gợi, tạo khí thế trong lao động. Đồng thời, cũng phải biết nhìn nhận từ trong đội ngũ người lao động, những cá nhân, tập thể nổi trội, xuất sắc, tiêu biểu để biểu dương, khen thưởng kịp thời. Vừa để tôn vinh cá nhân những người lao động, và tập thể đó, mà còn có tác dụng nêu gương cho các cá nhân, tập thể khác noi theo.
  13. 11 2.2. NỘI DUNG VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG 2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng Thứ nhất, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, phát động phong trào thi đua Trong tổ chức, phát động các PTTĐ phải thực hiện đúng các nội dung về mục tiêu, nguyên tắc, thẩm quyền. Theo đó, pháp luật TĐKT đã quy định rõ, mục tiêu của thi đua là nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời, THPL trong thi đua phải tuân theo các nguyên tắc gồm tự nguyện, tự giác, công khai, đoàn kết, hợp tác, cùng phát triển. Các PTTĐ được tổ chức, phát động dưới hai hình thức là thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt. Thứ hai, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong thực hiện công tác xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng Các nguyên tắc khi THPL về khen thưởng được quy định trong Luật gồm (1) Chính xác, công bằng, công khai và kịp thời; (2) Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng; (3) Bảo đảm tính thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng; (4) Kết hợp chặt chẽ giữa động viên về tinh thần phải đi đôi với thưởng về vật chất. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thực hiện cũng cụ thể hóa và bổ sung các nguyên tắc cho phù hợp với thực tiễn THPL khen thưởng. Thực hiện pháp luật TĐKT trong xét tặng khen thưởng cần căn cứ vào tiêu chuẩn khen thưởng; phạm vi, mức độ ảnh hưởng của thành tích; trách nhiệm, hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích. Trong đó, tiêu chuẩn khen thưởng được quy định cho từng hình thức, loại hình khen thưởng, danh hiệu thi đua, từng mức hạng, từng chính sách khen thưởng; tương ứng với thành tích đạt được và mức độ công lao đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước, của cơ quan và địa phương. Thứ ba, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng Thực hiện pháp luật TĐKT trong quản lý nhà nước về công tác TĐKT bao gồm các nội dung sau: (1) Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng; (2) Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng; (3) Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; (4) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng; (5) Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng; (6) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng; (7) Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng.
  14. 12 Thứ tư, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng. (1) Bộ máy làm công tác TĐKT được thành lập ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã và các Tổng công ty nhà nước. Các nội dung về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng được thực hiện theo các quy định tại Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04- 10-2005 của Chính phủ về tổ chức làm công tác TĐKT. (2) Việc THPL về tổ chức Hội đồng Thi đua - Khen thưởng được quy định tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31-7-2017 của Chính phủ. 2.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng 2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật thi đua, khen thưởng Căn cứ vào tính chất của hình thức tuân thủ pháp luật nói chung, tuân thủ pháp luật trong THPL TĐKT là hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình để không thực hiện những hành vi, hoạt động mà pháp luật thi đua, khen nghiêm cấm, không cho phép thực hiện. Hình thức tuân thủ pháp luật TĐKT có thể biểu hiện cách xử sự thụ động của các chủ thể; song, nó cũng có thể biểu hiện sự tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật TĐKT. 2.2.3.2. Chấp hành pháp luật thi đua, khen thưởng Chấp hành pháp luật TĐKT là một hình thức THPL, trong đó, các chủ thể pháp luật TĐKT thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực được quy định trong pháp luật TĐKT. Số lượng các quy định đề cập tới trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể trong THPL TĐKT cũng không có nhiều. Chủ yếu tập trung đối với các chủ thể là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động TĐKT. 2.2.3.3. Sử dụng pháp luật thi đua, khen thưởng Sử dụng pháp luật về TĐKT là hình thức của THPL. Theo đó, các chủ thể thực hiện quyền của mình một cách tự giác và tích cực, nghĩa là thực hiện các hành vi mà pháp luật TĐKT cho phép. Đây là một trong những hình thức quan trọng nhất của các tổ chức, cá nhân được pháp luật TĐKT quy định chi tiết, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền lợi ích, là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm tôn trọng và phải tạo mọi điều kiện cho tổ chức, cá nhân sử dụng quyền dân chủ của mình. 2.2.3.4. Áp dụng pháp luật về thi đua, khen thưởng Áp dụng pháp luật về TĐKT là một hình thức THPL đặc biệt, theo đó, nhà nước thông qua các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật TĐKT thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật TĐKT để tạo ra các quyết định
  15. 13 làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong thực hiện pháp luật TĐKT. 2.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM 2.3.1. Yếu tố chính trị Chính trị cũng là một trong số các yếu tố có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới THPL TĐKT. Không giống với kinh tế, tác động, ảnh hưởng của yếu tố chính trị đối với THPL TĐKT là tác động, ảnh hưởng giữa các bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc. Mối quan hệ giữa chính trị và việc THPL là mối quan hệ có sự tác động qua lại, ảnh hưởng và tương hỗ lẫn nhau. 2.3.2. Yếu tố kinh tế Pháp luật TĐKT nằm ở thượng tầng kiến trúc, do đó bị quyết định bởi các yếu tố cơ sở hạ tầng, trong đó có kinh tế. Yếu tố kinh tế tác động tới việc thực hiện pháp luật TĐKT có thể nhìn nhận ở hai nội dung: một là trong triển khai các PTTĐ, hai là trong công tác khen thưởng.Tác động của yếu tốt kinh tế tới thực hiện pháp luật TĐKT thể hiện trước hết trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật TĐKT. Ngoài ra, trong công tác khen thưởng, yếu tố kinh tế còn được đánh giá qua các quyền lợi kèm theo các HTKT. Mức thưởng phù hợp sẽ khơi gợi được người lao động nỗ lực làm việc hơn rất nhiều lần. 2.3.3. Yếu tố văn hóa, tƣ tƣởng Sự tác động, ảnh hưởng của văn hóa đối với thực hiện pháp luật TĐKT thể hiện trước hết và rõ ràng nhất là quyền bình đẳng, công bằng của mọi đối tượng và mọi thành phần trong xã hội. Theo đó, mọi tập thể, cá nhân đều bình đẳng, không phân biệt trong thực hiện quyền tham gia vào PTTĐ và xét khen thưởng. Thi đua và khen thưởng được xem xét đưới khía cạnh là trách nhiệm là quyền lợi của mỗi một tập thể, cá nhân. Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cho mỗi tập thể, cá nhân thực hiện quyền tham gia PTTĐ và công tác khen thưởng. 2.3.4. Yếu tố xã hội Sự tác động của yếu tố xã hội đối với thực hiện pháp luật TĐKT là biểu hiện của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Việc triển khai thực hiện pháp luật TĐKT phải phù hợp với yếu tố xã hội. Khi hoàn cảnh thay đổi, nhiệm vụ thay đổi, dẫn tới việc thực hiện pháp luật TĐKT cũng phải thay đổi theo. 2.3.5. Yếu tố hội nhập quốc tế Yếu tố hội nhập quốc tế tác động qua các kênh giao tiếp quốc tế khác nhau về nội dung TĐKT (nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật, các hoạt động nghiên cứu khoa học, báo cáo chuyên gia, hội thảo...). Mặc dù các chính sách TĐKT ở các nước không giống nhau, tuy nhiên, với bản chất là tạo động lực trong công việc và ghi nhận những thành tích mà các tập thể, cá nhân đạt được thì việc học tập kinh nghiệm giữa các nước là hoàn toàn có thể.
  16. 14 2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở MỘT SỐ NƢỚC VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM 2.4.1. Thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng ở một số nƣớc trên thế giới Qua nghiên cứu các quy định khen thưởng của một số nước trên thế giới gồm những nước có hệ văn hoá, khu vực địa lý và thể chế chính trị tương đồng với Việt Nam như Cu Ba, Trung Quốc, Thái Lan, đồng thời Luận án cũng tham khảo một số quốc gia khác như Anh, Hoa Kỳ, Pháp nhận thấy những điểm tương đồng và khác biệt như sau: Thứ nhất, các điểm khác biệt so với thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam Một là, không có hệ thống các quy định liên quan đến công tác thi đua. Hai là, hệ thống các hình thức khen thưởng ít. Ba là, thẩm quyền khen thưởng tập trung ở các cấp hành chính trung ương. Thứ hai, các điểm tương đồng so với thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam Một là, các nước đã hình thành và THPL về khen thưởng từ rất sớm. Hai là, vai trò, mục đích của THPL thi đua, khen thưởng. Ba là, đối tượng trong THPL thi đua, khen thưởng đa dạng, đặc biệt ở các nước phương Đông. 2.4.2. Giá trị tham khảo từ thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng ở một số nƣớc trên thế giới đối với Việt Nam Thứ nhất, lấy khen thưởng là động lực. Thứ hai, cách thức trao tặng, tôn vinh. Thứ ba, đối tượng khen thưởng. Thứ tư, nâng cao giá trị tinh thần đối với các HTKT. Chƣơng 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1.1. Kết quả thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng 3.1.1.1. Kết quả thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, phát động phong trào thi đua Thứ nhất, việc tổ chức, phát động các phong trào thi đua hiện nay được được thực hiện rộng khắp ở các cơ quan, đơn vị cũng như các địa phương trong cả nước Các PTTĐ do các cấp phát động đều có sự tự nguyện tham gia của các cá
  17. 15 nhân, tập thể. Qua việc tổ chức lấy ý kiến, tuyên truyền về PTTĐ, các cá nhân, tập thể thấy rằng, tham gia thi đua chính là thể hiện trách nhiệm đối với tập thể, cũng như đối với chính mình. Nguyên tắc không được bắt buộc tham gia hoặc cản trở các cá nhân, tập thể đăng ký tham gia PTTĐ thực hiện nghiêm túc. Thứ hai, việc chấp hành pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức phong trào thi đua được tập trung vào một số nội dung sau: Một là, trong tổ chức phát động PTTĐ, việc tổ chức PTTĐ là nghĩa vụ và cũng là trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Hai là, tổ chức lấy ý kiến của người lao động về việc tổ chức, phát động PTTĐ. Ba là, tổ chức tuyên truyền, động viên người lao động tham gia PTTĐ. Bốn là, thủ trưởng đơn vị các cấp đã tích cực tổ chức, triển khai nhiều hoạt động thiết thực để khích lệ, động viên người lao động, người dân tự giác, hăng hái thi đua lao động, sản xuất, học tập, công tác, sáng tạo, góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thứ ba, việc áp dụng pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, phát động phong trào thi đua đạt được một số kết quả sau Một là, thực hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật, thủ trưởng đơn vị các cấp đã phát động nhiều PTTĐ yêu nước, để khơi dậy, tạo động lực cho người lao động phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Hai là, các PTTĐ toàn quốc do Thủ tướng Chỉnh phủ phát động cũng đã được triển khai kết quả tốt. Thứ tư, việc sử dụng pháp luật trong tổ chức, phát động các phong trào thi đua với các nội dung là các cá nhân, tập thể thực hiện quyền của mình theo quy định pháp luật đã đạt được một số kết quả sau Một là, quyền thể hiện quan điểm của mình về PTTĐ trong cơ quan, đơn vị. Hai là, quyền đăng ký tham gia PTTĐ. 3.1.1.2. Kết quả thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong thực hiện công tác xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng Thứ nhất, kết quả tuân thủ pháp luật trong thực hiện công tác xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức thi đua Một là, các cá nhân, tập thể đề nghị khen thưởng, các cấp trình khen đã tuân thủ nghiêm túc việc kê khai thủ tục, hồ sơ, quy trình đề nghị khen thưởng, xét tặng các DHTĐ, HTKT. Hai là, bên cạnh sự hoàn thiện, rõ ràng hơn của pháp luật TĐKT, cùng với sự phát triển của tổ chức - bộ máy làm công tác TĐKT, cũng như nhận thức của cán bộ phụ trách công tác TĐKT được nâng cao, việc tham mưu thực hiện công tác khen thưởng các DHTĐ, HTKT theo thẩm quyền được tuân thủ nghiêm chỉnh theo quy định pháp luật. Thứ hai, kết quả chấp hành pháp luật trong thực hiện công tác xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức thi đua
  18. 16 Một là, việc thực hiện các quy định, nguyên tắc trong xét tặng các DHTĐ và HTKT được đảm bảo. Các DHTĐ, HTKT được xét tặng phù hợp với đối tượng, chức năng, nhiệm vụ được giao của tập thể, cá nhân và thành tích đạt được. Mặt khác, căn cứ vào thẩm quyền được quy định, để phù hợp hơn với thực tiễn PTTĐ cũng như nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, thủ trưởng các đơn vị có thể đề ra những chính sách khen thưởng riêng đối với các tập thể, cá nhân mình quản lý. Hai là, thực hiện việc đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, sơ kết, tổng kết công tác thi đua được tiến hành thường xuyên, định kỳ. Ba là, chấp hành tốt các quy định về thời hạn thẩm định hồ sơ khen thưởng tương đối tốt, đảm bảo nguyên tắc kịp thời trong khen thưởng. Thứ ba, kết quả áp dụng pháp luật trong thực hiện công tác xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức thi đua Một là, đối với khen thưởng cấp Nhà nước, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ, căn cứ vào thẩm quyền của mình đã ban hành các quyết định khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân trong và ngoài nước. Số lượng khen thưởng cấp Nhà nước có xu hướng giảm dần, khắc phục tình trạng khen tràn lan trong giai đoạn trước. Hai là, khen thưởng người lao động trực tiếp được khen thưởng tăng lên. Qua đó cho thấy hiện tượng "khen thưởng tràn lan" và "khen thưởng sĩ quan" đã dần từng bước được khắc phục. Thứ tư, kết quả sử dụng pháp luật thi đua, khen thưởng trong xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức thi đua Một là, quyền được đề nghị xét tặng danh hiệu, HTKT theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ các quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện của các DHTĐ, HTKT, tổ chức, cá nhân được quyền đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng. Người lao động tự mình thực hiện, bằng việc báo cáo thành tích mình đạt được trong công việc, có sự xác nhận của các bên có liên quan (chính quyền, đoàn thể…) và được Hội đồng TĐ-KT đơn vị tổ chức lấy ý kiến của mọi người. Hai là, quyền góp ý, đề nghị cấp có thẩm quyền xét tặng danh hiệu, HTKT cho cá nhân, tập thể. Thực hiện quyền được góp ý kiến của người dân theo quy định trên, trong giai đoạn 2015-2018, Ban TĐ-KT Trung ương đã lấy ý kiến nhân dân 14 lần, trong đó có 10 lần về Chiến sĩ thi đua toàn quốc (đối với 323 trường hợp) và 03 lần đối với việc phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang (123 trường hợp) . Bên cạnh đó, việc thực hiện quyền đề nghị cấp có thẩm quyền xét tặng các danh hiệu, HTKT cho các cá nhân, tập thể có đủ thành tích và tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật cũng được người dân thực hiện nhiều. Đây là việc người dân tự phát hiện ra những tấm gương người tốt việc tốt và đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng.
  19. 17 3.1.1.3. Kết quả thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng. Thứ nhất, kết quả trong việc thành lập tổ chức, bộ máy là công tác thi đua, khen thưởng Bộ máy làm công tác TĐKT được kiện toàn và thống nhất theo hướng tinh gọn, nhằm thực hiện hiệu quả nhất công tác thực hiện pháp luật TĐKT. Cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT theo pháp luật được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Cán bộ làm công tác TĐKT được tăng cường về số lượng, có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất chính trị vững vàng. Hội đồng TĐ- KT các cấp cũng được kiện toàn và hoạt động hiệu quả theo các quy định của pháp luật TĐKT. Thứ hai, trong chấp hành các quy định pháp luật về tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng.Hội đồng TĐ-KT các bộ, ngành, địa phương tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức các PTTĐ và thực hiện công tác khen thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện các mô hình mới, cách làm hay trong các PTTĐ. Hội đồng và Thường trực Hội đồng các cấp thường xuyên trao đổi, thảo luận những vấn đề trọng tâm, trọng điểm việc thực hiện nhiệm vụ trong kỳ, bàn các giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc từ cơ sở để kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo. Thành viên Hội đồng TĐ-KT các cấp đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ được phân công; tham dự sơ kết, tổng kết hoạt động của các cụm, khối thi đua để nắm bắt tình hình và có ý kiến chỉ đạo kịp thời; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám việc triển khai các PTTĐ và thực hiện chính sách, pháp luật về TĐKT. 3.1.1.4. Kết quả thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng Thứ nhất, kết quả trong việc ban hành thể chế, chính sách về công tác thi đua, khen thưởng. Công tác xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về TĐKT nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong những năm qua, Ban TĐ-KT Trung ương đã tập trung nghiên cứu, tham mưu trình cấp có thẩm quyền thực hiện nhiều đề án sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về TĐKT. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương cùng các bộ, ngành liên quan đã chủ động phối hợp trong xây dựng các Nghị định quy định về Danh hiệu vinh dự Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước. Ban hành văn bản hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện các quy định về công tác TĐKT. Hai là, kết quả trong việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng. Công tác tuyên truyền các PTTĐ, biểu dương, tôn vinh nhân rộng điển hình tiên tiến được các cấp, các ngành tập trung quan tâm
  20. 18 chỉ đạo và có nhiều chuyển biến rõ nét. Cơ quan làm công tác TĐKT các cấp và cơ quan thông tin, truyền thông đã phối hợp chặt chẽ trong việc đẩy mạnh tuyên truyền, biểu dương các điển hình tiên tiến như: giới thiệu các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến cho các cơ quan thông tấn, báo chí; phối hợp xây dựng chuyên trang, chuyên mục, tăng thời lượng đưa tin tuyên truyền gương "người tốt, việc tốt", xây dựng nội dung chuyên đề về TĐKT. Ba là, kết quả trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo và các đơn phản ánh, đề nghị, thực hiện theo pháp luật TĐKT cũng như pháp luật khiếu nại tố cáo. Các trường hợp đơn, thư đều có công văn trả lời, giải đáp, hướng dẫn cụ thể để đối tượng thực hiện chính sách người có công được thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng được nguyện vọng của công dân. 3.1.2. Nguyên nhân của ƣu điểm trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng 3.1.2.1. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TĐKT nói riêng cũng như những chính sách về công tác TĐKT ở Việt Nam hiện nay đã đạt được những tiến bộ nhất định, tạo cơ sở cho việc thực hiện và bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của người dân trong lĩnh vực TĐKT. Thứ hai, kinh tế Việt Nam những năm gần đây có bước phát triển mạnh, cũng như những thành tựu xã hội đạt được trong tạo nguồn lực quan trọng trong việc THPL nói chung và pháp luật TĐKT nói riêng đạt những thành 3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng công tác TĐKT. Coi công tác TĐKT là một động lực quan trọng khơi gợi sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, từ đó phát huy được sự đoàn kết, sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp trong THPL TĐKT. Thứ ba, nhận thức của đội ngũ cán bộ có sự thay đổi, chuyển biến. Từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cho tới nhận thức của người lao động về công tác TĐKT. Thứ tư, sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT. 3.2. HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN 3.2.1. Hạn chế trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thƣởng 3.2.1.1. Hạn chế trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong tổ chức, phát động phong trào thi đua Thứ nhất, việc thực hiện quyền của người lao động trong tổ chức, phát động các phong trào thi đua còn hình thức và chưa thống nhất
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2