intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luật sư và Tư duy pháp lý - Nguyễn Ngọc Bích

Chia sẻ: Đại Học Đại Nam | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:448

22
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách Tư duy pháp lý của Luật sư được biên soạn gồm có 4 phần chính, trình bày cụ thể như sau: sửa soạn tinh thần; phương pháp tư duy pháp lý; thực tập; mở rộng kiến thức. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luật sư và Tư duy pháp lý - Nguyễn Ngọc Bích

  1. Tải sách miễn phí tại Luật sư Online - iluatsu.com
  2. BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Nguyễn Ngọc Bích Tư duy pháp lý của luật sư / Nguyễn Ngọc Bích. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015. 444 tr. : minh họa ; 23 cm. 1. Luật sư. 2. Luật sư -- Việt Nam. 3. Nghề luật sư -- Việt Nam. I. Ts. 1. Lawyers. 2. Lawyers -- Việt Nam. 3. Legal profession --Việt Nam. 340.092 -- ddc 23 N573-B58
  3. LỜI NÓI ĐẦU Q uyển sách này là phiên bản mới của quyển Tài ba của luật sư xuất bản năm 2010 và tái bản hai lần sau đó. Đó là kết quả của những góp ý từ độc giả, của kinh nghiệm tác giả thu thập được qua các lớp học được tổ chức tại Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh cũng như sự tìm tòi và học hỏi của bản thân trong suốt 5 năm qua. Cũng như sách trước, quyển sách này được viết cho các luật sư mới bước chân vào nghề. Tựa quyển sách nêu bật một điều kiện tri thức của luật sư, điều mà họ phải có khi hành nghề. Đó là công cụ của họ, giống như người nông dân phải có cuốc. Tư duy pháp lý của luật sư bắt nguồn từ khả năng phân tích của họ và kết quả của nó là các lập luận trình bày cho người khác. Luật sư phải giỏi phân tích vì trong nghề nghiệp của mình, họ phải đương đầu với các sự kiện hay các thực tại nhất định của cuộc sống. Khách hàng không đem một văn bản luật đến cho luật sư mà là một vụ tranh chấp, một vấn đề pháp lý cần có câu trả lời. Đáp ứng cho khách hàng, luật sư phải phân tích vụ việc và đề ra giải pháp phù hợp luật lệ. Vậy trước hết, luật sư biết cách tư duy pháp lý là để phục vụ mình! Trong một vụ tranh chấp được xét xử ở tòa thì luôn luôn có hai bên. Luật sư của nguyên đơn nộp lý lẽ lên tòa để khởi kiện thay cho thân chủ. Họ khởi đầu một vụ kiện. Ở đó chống đỡ cho thân chủ – bị đơn – là một luật sư khác. Họ giúp kết thúc vụ án. Biết tư duy pháp lý, cả hai nghiên cứu vụ việc một cách “toàn diện, đầy đủ và khách quan”. Do vậy họ sẽ đóng góp nhiều lý lẽ để tòa án xem xét trong quá trình tố tụng. Chính luật sư của nguyên đơn sẽ làm cho công việc ban đầu của thẩm phán thành dễ dàng hay rắc rối. Như thế, tư duy pháp lý của luật sư đóng góp đáng kể cho tòa án. Trong một vụ tư vấn, luật sư chỉ có đối tác, hiển hiện đâu đó. Tư duy pháp lý giúp họ phân tích vụ việc để thấy trọng tâm, bản chất của nó, hầu đề nghị cách thực hiện đúng và nhanh. Được như vậy là vì sự phân tích trong tư duy pháp lý đòi hỏi luật sư phải có kiến thức. 5  
  4. Tư duy pháp lý trình bày ở đây là một phương pháp, một “cái cuốc”. Nó sẽ giúp các luật sư mới vào nghề, khi chịu học và được chỉ bảo thêm, thì không bao lâu có thể một mình đảm nhận công việc. Ở đây, tác giả cố gắng trình bày phương pháp một cách rõ ràng và tỉ mỉ. Điều đó làm cho quyển sách này khác với các quyển trước có cùng nội dung. Và để cho quyển sách không dày quá, chỉ có một số vụ án mới được thêm vào. So với quyển sách đầu tiên xuất bản năm 2003, đến quyển năm 2015 này, thời gian đã đủ dài để độc giả quen thuộc với phương pháp trong sách, vốn được du nhập từ nước ngoài và đã được “địa phương hóa”. Tất nhiên cố gắng đó đã không thể là một thành quả nếu không có Nhà xuất bản Trẻ làm … “bà đỡ” trong thời gian đã nêu cũng như sự giúp đỡ của các bạn bè thân thiết. Dẫu sao, quyển sách này vẫn còn những khiếm khuyết. Lời nói đầu xin được ngưng ở đây với câu: Xin quý độc giả tha thứ và chỉ giáo về những khiếm khuyết, vốn không thể tránh được do sự bất toàn của con người. Nguyễn Ngọc Bích Tháng 3 năm 2015 6 TƯ DUY PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ  
  5. CHỮ VIẾT TẮT VÀ CHÚ THÍCH BLDS Bộ luật dân sự trước năm 2005 CHKL Câu hỏi pháp lý kết luận CHMC Câu hỏi pháp lý mấu chốt CHPT Câu hỏi pháp lý phụ thuộc CHPL Câu hỏi pháp lý hay vấn đề pháp lý LDS Bộ luật dân sự năm 2005 LHS Bộ luật hình sự SKMC Sự kiện mấu chốt SKPT Sự kiện phụ thuộc SKQT Sự kiện quan trọng TDPL Tư duy pháp lý Chú thích 1.  cách đánh số: Vì nội dung đề cập nhiều loại bài viết khác nhau, từ Về những nguồn khác nhau, nên cách đánh số trong sách này không thể liên tục và nhất quán từ đầu đến cuối mà được chia làm hai loại: - Loại đánh theo từng phần, chương và mục để độc giả biết thứ tự - chung của quyển sách; - Loại đánh theo từng bài ngắn nhỏ; sự liên tục chỉ nằm trong từng bài - một; khi sang bài khác có thể đánh số khác, nhưng trong từng bài thứ tự liên tục vẫn được giữ để độc giả theo dõi. 2. Trong những bài viết của tôi, các điều luật của LDS được trích dẫn là luật 2005, còn trong các vụ án, hay các bài trích dẫn của các tác giả khác, các điều khoản được nêu là luật hiện hành vào lúc bài ấy được viết, do các tác giả ấy nêu và có thể viết tắt là BLDS. Tôi không cập nhật chúng vì là của người khác viết. Điều tôi nhắm vào là các sự kiện giúp phân tích, còn các điều luật chỉ có mặt cho đủ bộ. TDPL là một luồng 7  
  6. suy nghĩ. Nó giống như nhìn một dòng nước chảy. Ta nhìn dòng nước trôi, lững lờ hay cuồn cuộn, và không để ý đến hai bờ nhô ra hay thụt vào. Do vậy, khi suy nghĩ, ta chỉ cần nhớ “đã có một điều trong luật” và điều đó là cơ sở để mình dựa vào hầu mở rộng sang các chi tiết khác. Biết “có một điều luật nào đó” thì chỉ nhớ mang máng, không cần phải nhớ chính xác là điều số 40 khoản 1 hay 2…. Nhớ chính xác như thế sẽ làm chậm tốc độ suy nghĩ và cũng không cần thiết. Sau khi đã giải quyết xong, có giải pháp, lúc ấy ta mới tra văn bản để tìm điều khoản chính xác. Tôi gọi đó là giai đoạn 2 của TDPL. Bạn nào quan tâm về các điều luật thì nhớ nhé: BLDS thứ ba đang trong vòng thảo luận. 3.  đây tôi dùng cách nói chuyện, coi độc giả như một người thuộc phái Ở đẹp, lại thông minh để… khơi nguồn cảm hứng khi viết. Có một ca sĩ rất nổi tiếng. Tôi hỏi ông ta làm sao để hát hay, ông trả lời là khi hát thì tưởng tượng đang hát cho một người và tập trung vào đấy! Tôi bắt chước ông ấy. Vậy là chúng mình “nói chuyện mí nhau” để các bạn đọc mà không chán (vì đụng đến luật theo cách nào đi nữa cũng chán cả). Bố cục quyển sách Đối tượng của quyển sách này là luật sư đang tập sự trong một đoàn luật sư. Nó giúp bạn “kiếm tiền từ thân chủ”. Bởi thế bạn nào còn đang là sinh viên hay học viên, tức đang phải “kiếm điểm từ thầy dạy” thì nên hỏi ý kiến các thầy của mình trước khi dùng. Bạn có thể hỏi tôi là: Khi học ở Học viện Tư pháp, tôi đã được dạy và đọc nhiều về các kỹ năng của luật sư, vậy TDPL dạy thêm kỹ năng gì? Tôi xin trả lời là đi tìm các câu hỏi pháp lý (legal issue) nằm trong một vụ tranh chấp. Nó đi xa hơn và sâu hơn quá trình nghiên cứu một vụ án mà bạn đã học ở Học viện Tư pháp, vốn được khái quát như sau1: i. Nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án; ii. Đọc lướt qua toàn bộ hồ sơ; iii. Ghi chép các sự kiện chính theo ngày tháng, theo nội dung sự việc, theo sự kiện; “Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ kiện dân sự”; (Hà Nội: Học viện Tư pháp; NXB Công 1 an Nhân dân, 2007); t.289. 8 TƯ DUY PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ  
  7. iv. Sắp xếp và nghiên cứu các chứng cứ; v. Suy nghĩ về phương hướng để tìm ra giải pháp giải quyết vụ án có lợi cho khách hàng của mình. Để thực hiện công việc ấy, tôi chia quyển sách này ra làm bốn phần: • Phần một: Giới thiệu với bạn về TDPL và đưa ra các điều kiện bạn phải có, hay phải thay đổi so với trước kia để có thể có TDPL. Tốt nghiệp trường luật xong bạn chưa có khả năng TDPL để làm luật sư; vì trường luật đào tạo bạn làm cán bộ pháp chế (tức là soạn luật để cho người khác áp dụng, và giám sát việc thực hiện luật). Bạn sẽ biết về điều này rõ hơn khi đọc Chương 2 của Phần này. • Phần hai: Trình bày cách TDPL; gồm phương pháp thực hiện; các vụ án để bạn… luyện chưởng và biết tính chất của các CHPL. • Phần ba: Đưa ra một số vụ án để các bạn tập làm một mình hầu kiểm tra mức độ sử dụng TDPL. • Phần bốn: Một số bài đọc thêm để bạn mở rộng kiến thức. Điều tôi chú trọng trong quyển sách là thu thập các sự kiện, vụ việc để phân tích. Chúng xuất phát từ thực tế, do tôi thu thập từ các bài của báo chí và các bản án của các tòa án khác nhau. Tuy nhiên, tôi không ghi lại các nguồn, số bản án, số báo… vì tôi muốn các bạn chỉ quan tâm đến các sự kiện hay vụ việc có thật để bạn có dữ kiện phân tích; và xin nhấn mạnh, không có một mục đích nào khác. Như đã nói ở Lời nói đầu, số vụ án trong sách này không tăng nhiều so với sách cũ; vì tôi sợ quyển sách sẽ dày như… từ điển, khó cầm. Vấn đề là đi vào chất lượng. Đây là sách “dạy nghề”, không phải sách nghiên cứu. Ngoài ra vì “cái cuốc” mà bạn muốn trang bị cho mình vốn trừu tượng, nên nhiều khi tôi phải nhấn mạnh, làm cho nó rõ ra bằng hình minh họa, và lặp đi lặp lại ở nhiều chỗ. Việc này giống như cầm tay chỉ việc. Mong bạn không khó chịu vì cứ phải nghe đi nghe lại mãi. Để đền cho bạn, tôi có nhờ một đồng nghiệp vẽ minh họa ở vài chỗ. Tự nhận họa sĩ tay ngang, người vẽ tên là Huỳnh Thị Kim Hồng. 9  
  8. Mục lục Lời nói đầu. .................................................................................................... 5 . Chữ viết tắt và chú thích................................................................................ 7 PHẦN MỘT  SỬA SOẠN TINH THẦN Chương 1: Các vấn đề cơ bản...................................................................15 Chương 2: Luật là một cái bình có hai quai............................................40 Chương 3: Luật pháp dạy cho luật sư.....................................................49 Chương 4: Việc áp sự kiện vào luật pháp.................................................76 Chương 5: Xem thêm về câu hỏi pháp lý..............................................116 PHẦN HAI  PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY PHÁP LÝ Phương pháp tư duy pháp lý.................................................................131 Chương 1: Đường dẫn vào tư duy pháp lý............................................132 Chương 2: Cách tư duy pháp lý..............................................................152 Chương 3: Thực hành tư duy pháp lý...................................................165 Chương 4: Một số vụ khác để mở rộng.................................................205 Chương 5: Tính tương đối của câu hỏi pháp lý ...................................289 PHẦN BA  THỰC TẬP Thực tập..................................................................................................325 Chương 1: Một số vụ...............................................................................326 Chương 2: Giải đáp đề nghị...................................................................388 PHẦN BỐN  MỞ RỘNG KIẾN THỨC Mở rộng kiến thức..................................................................................395 Bài 1:  ự khác biệt giữa hai cách trình bày S luật pháp dạy cho sinh viên luật������������������������������������������������397 Bài 2: Dân luật và thông luật khác nhau thế nào?................................402
  9. Bài 3: Các bản án: sự khác biệt trên thực tế..........................................409 Bài 4: Irac - Một cách tư duy pháp lý ở Mỹ............................................422 Bài 5: Suy nghĩ như một luật sư.............................................................427 Bài 6: Những điều luật sư không được làm với khách hàng.................430 Bài 7: Nội dung hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ hay thế cải...............437 Sách tham khảo......................................................................................441
  10. PHẦN MỘT SỬA SOẠN TINH THẦN
  11. CHƯƠNG Các vấn đề cơ bản 1 Mục 1: Tư duy pháp lý là gì? TDPL là cách thức suy nghĩ của luật sư để tìm ra giải pháp cho một vụ tranh chấp phù hợp với luật lệ. Một vụ tranh chấp có thể là một vụ án ở tòa, hay một vấn đề về luật lệ phải giải quyết. Muốn tìm ra giải pháp thì phải đi tìm câu hỏi pháp lý của vụ đó. Thí dụ, một vụ hối lộ được đem ra xét xử thì vấn đề pháp lý của nó là: quà biếu được đưa trước hay sau khi có giấy phép? Và giá trị món quà là bao nhiêu? Mỗi vụ tranh chấp thường có nhiều vấn đề pháp lý; luật sư phải đi tìm vấn đề nào là chính, là quan trọng nhất, tìm ra và giải quyết được rồi thì sẽ dễ dàng giải quyết các vấn đề khác ít quan trọng hơn. Quá trình đi tìm được thực hiện bằng cách suy nghĩ trong đầu nên được gọi là TDPL. I. K  hái niệm về vấn đề pháp lý – Câu hỏi pháp lý – Câu hỏi mấu chốt Khi bạn phải suy nghĩ về một việc gì đó thì nó là “một vấn đề” của bạn. Thí dụ… lấy chồng! Bạn sẽ phải suy nghĩ nhiều thứ. Đó là những điều khác nhau về mặt tình cảm. Ta gọi nó là vấn đề tình cảm. Về vấn đề này ít ai đi hỏi luật sư! Một doanh nhân cũng có vấn đề của họ. Ấy là làm sao để có lợi nhuận cao khi sản xuất một sản phẩm nào đó. Đấy là vấn đề kinh doanh. Người ta không bàn với luật sư về vấn đề ấy; vì nó là vấn đề thương mại. Là luật sư, khách hàng đưa đến cho bạn một vụ việc mà họ đã làm hay định làm để hỏi ý kiến của bạn. Vụ việc họ hỏi thì đối với luật sư là vấn đề pháp lý. Nó sẽ tạo ra nhiều câu hỏi liên quan đến luật, gọi là câu hỏi pháp lý. Thí dụ một phụ nữ đến kể với bạn là thường bị ông chồng đánh, ông ta vũ Các vấn đề cơ bản 15  
  12. phu lắm; vậy phải đối xử với ông ta như thế nào? Ly hôn được không? Vụ việc đó là một vấn đề hay một câu hỏi pháp lý đối với bạn. Nó có ba yếu tố: (i) ông chồng hay đánh đập vợ; (ii) bị đánh đập thì ly hôn được không hay đi thưa về tội hành hạ người khác nếu muốn con cái vẫn có cha? (iii) suy nghĩ để chọn thưa tội nào; tức là áp dụng luật nào? Yếu tố (i) được gọi là sự kiện có thể gồm những lần khác nhau bà kia bị đánh. Yếu tố (ii) là luật pháp điều chỉnh (luật hôn nhân gia đình hay luật hình sự). Yếu tố (iii) là sự chọn lựa luật điều chỉnh. Sự chọn lựa đó có thể trở thành tranh chấp khi bên đối phương (là người chồng) có ý kiến trái ngược. Nếu luật điều chỉnh không bị tranh chấp, hay áp dụng được thì yếu tố (iii) trở thành giải pháp hay chế tài (phạt cải tạo, cho ly hôn). Vậy một câu hỏi hay một vấn đề pháp lý thường có ba yếu tố và nó thường là một cuộc tranh chấp giữa hai bên. Hai bên này khi chưa ra tòa thì là thủ phạm và nạn nhân; lúc ở tòa thì là nguyên đơn và bị đơn. Người ta phân biệt luật lệ mà bạn đã học khi còn ở trường là luật pháp trên lý thuyết. Luật pháp mà luật sư phải xem xét hay sẽ đem đến hình phạt là luật pháp trong thực tế. Công việc của bạn nằm trong lĩnh vực sau và nó thường gắn với các sự kiện. Khi còn học luật, bạn biết một quy phạm pháp luật có ba phần: giả định, quy định, và chế tài. Thường bạn nhớ nhiều hai phần sau. Thế nhưng khi luật được đưa vào thực tế thì người ta chú trọng nhiều vào phần giả định. Và nó có muôn màu muôn vẻ: là các vụ việc đã xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Ta sẽ gọi nó là các vụ việc. Mỗi một khách hàng đến gặp bạn có một vụ việc khác nhau. Như vậy nghĩa là phần giả định trong một quy phạm pháp luật khi đi vào thực tế sẽ trở thành đa diện, đa sắc. Và chúng được gọi là thực tại, thực tế và sự kiện. “Thực tại là những gì có thực chứ không mộng tưởng1”; hoặc là tổng thể nói chung của những gì đang tồn tại xung quanh chúng ta theo nghĩa triết học, thí dụ, một gia đình hạnh phúc. Thực tế cũng là tổng thể nói chung “những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội, về mặt có quan hệ đến đời sống con người2”, thí dụ, hai vợ chồng yêu nhau. Ở đây hai nghĩa này được dùng lẫn lộn với nhau, tùy ngữ cảnh. Sự kiện là một việc gì đó đã xảy ra, thí dụ, cành cây gãy rơi xuống đất Từ điển và Danh từ triết học của Trần Văn Hiến Minh. 1 Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê. 2 16 TƯ DUY PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ  
  13. Câu hỏi pháp lý được đặt ra khi bạn tìm cách giải quyết một vụ tranh chấp hay một vấn đề pháp lý. Trở lại vụ bà nữ thân chủ nêu ở trên, ta có thể đặt ra câu hỏi pháp lý gồm 3 yếu tố như sau: • Một vụ việc nhất định (đã xảy ra hay sẽ xảy ra): bà ấy thường bị chồng đánh. Vụ việc ấy gọi là một sự kiện, hay sự kiện pháp lý. • Một điều luật nhất định điều chỉnh sự kiện ấy: Luật hôn nhân gia đình. Điều luật ấy khi được dẫn ra hay chiếu vào thì sẽ có hướng để giải đáp vấn đề của sự kiện. • Sự kết hợp giữa luật điều chỉnh với sự kiện đã tạo nên tranh cãi: Bị bạo hành như thế có thể xin ly hôn được không? Hoặc bạn phải băn khoăn áp dụng như thế không biết đúng hay sai; hoặc có một chế tài phát sinh. Các sự kiện CÂU + HỎI Luật áp dụng PHÁP LÝ + Mối băn khoăn/tranh cãi về sự kết hợp trên. Kết quả mong muốn Xin nêu một thí dụ khác làm rõ hơn câu hỏi pháp lý: Một nhân viên đi giao hàng của công ty mình cho một cửa hàng bán lẻ. Trên đường đi người này ghé vào một tiệm sách và bị thương vì xe đụng trên đường từ tiệm sách đến cửa hàng bán lẻ. Vậy có thể áp dụng luật lao động không và nạn nhân có được coi là bị tai nạn lao động không? Ta phân tích 3 yếu tố nằm trong câu hỏi pháp lý: a. (i) Nhân viên đi giao hàng công ty cho một cửa hàng bán lẻ; (ii) trên đường ghé tiệm sách; và (iii) bị thương vì xe đụng trên đường từ tiệm sách đến cửa hàng bán lẻ là các sự kiện pháp lý. b. Có thể dựa trên luật lao động không? là luật điều chỉnh hay luật áp dụng. c. Nạn nhân có được coi là bị tai nạn lao động không? là câu hỏi pháp lý. Các vấn đề cơ bản 17  
  14. Trong vụ này ta thấy có ba sự kiện. Trong đó sự kiện quan trọng nhất là “bị thương vì đụng xe khi đi từ tiệm sách đến cửa hàng bán lẻ”. Sở dĩ ta nói được như thế vì mình đã suy nghĩ, đã phân tích và so sánh với các sự kiện khác. Sự kiện quan trọng nhất kia được gọi sự kiện mấu chốt (SKMC). Hai sự kiện còn lại là sự kiện phụ thuộc. Trong TDPL người ta xem xét các sự kiện khác nhau trong nội vụ để tìm ra SKMC. Từ SKMC người ta sẽ đặt được câu hỏi pháp lý. Và nó sẽ là câu hỏi mấu chốt (CHMC). Để so sánh, câu hỏi pháp lý được sách vở của Mỹ định nghĩa là: “… Một điểm riêng rẽ, chắc chắn và quan trọng; nó là một vấn đề mà bên này xác định, nhưng bên kia phủ nhận. Khi một sự kiện được một bên nêu trong đơn khởi kiện nhưng bị bên kia bác bỏ trong bản ý kiến phúc đáp thì sự kiện đó trở thành một câu hỏi giữa hai bên”1. Câu hỏi có hai thứ: về pháp lý (“issue of law”) và về sự kiện (“issue of fact”). Bạn thấy định nghĩa này chú trọng vào yếu tố (iii) ta nêu ở trên. Khi học ở Mỹ, đọc câu định nghĩa này rồi mà tôi vẫn còn “bơi ná thở” vì chưa biết hết các yếu tố của CHPL. Vì thế ở cuối Phần này tôi dành một chương riêng đưa ra các vụ án để các bạn nắm CHPL cho chắc. Vì TDPL trình bày ở đây được du nhập từ Mỹ và được cải biến ít nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh của ta nên tôi nêu ở đây các khái niệm và từ ngữ tương đương ở Mỹ có liên quan đến các điều ta học. “Câu hỏi pháp lý” thì người Mỹ nói là “legal issue”. Từ ngữ “câu hỏi” không thôi là “issue” hay “question”. Từ “issue” hay được sử dụng trong một vụ tranh chấp và dùng ở tòa; còn “question” hay dùng trong văn bản hoặc nói chuyện. “Đi tìm câu hỏi pháp lý” thì tiếng Anh là “spotting the isue” hay “pick up the issue”. “Câu hỏi mấu chốt” là “key issue”. Ở Mỹ hay Anh, việc chánh án làm khi soạn bản án được gọi là “legal reasoning” (tư duy pháp lý). Luật sư tham dự một phần lớn trong đó (đưa giải pháp và đề nghị biện pháp) nên việc luật sư làm được gọi là “thinking like a lawyer” hay “lawyering skill” (suy nghĩ kiểu của luật sư, tài ba của luật sư). Luật sư và sinh viên luật ở Mỹ thường chỉ nói đơn giản là “legal issue” (câu hỏi pháp lý) hay “key issue” (câu hỏi mấu chốt). Tuy nhiên, họ lại có các khái niệm pháp lý rất chi tiết vì thừa hưởng văn hóa của người Anh. Mà ở Anh, vào những thập kỷ lập quốc đầu tiên, khi ra tòa hai bên không có Từ điển Black’s Law định nghĩa về “issue”. 1 18 TƯ DUY PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2