Miền Bắc Việt Nam - Quặng hóa antimon: Phần 2
lượt xem 24
download
Phần 2 Tài liệu Quặng hóa antimon miền Bắc Việt Nam tiếp tục giới thiệu đến bạn nội dung phần còn lại chương III và chương IV về vấn đề thành tạo và quy luật phân bố quặng hóa antimon miền Bắc Việt Nam, phân vùng sinh khoáng và dự báo triển vọng quặng hóa antimon miền Bắc Việt Nam. Tài liệu là Tài liệu tham khảo bổ ích cho bạn đọc trong việc nghiên cứu về lĩnh vực này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Miền Bắc Việt Nam - Quặng hóa antimon: Phần 2
- Chương III VẤN ĐỀ THÀNH TẠO VÀ QUY LUẬT PHÂN BỐ QUẶNG HÓA ANTIMON MIỀN BẮC VIỆT NAM 3.1. Dãy thành hệ quặng nội sinh một số vùng quặng antimon Miền Bắc Việt Nam Nghiên cứu thành hệ quặng nội sinh cho một vùng quặng, một đới cấu trúc cụ thể là một công việc quan trọng nhằm xác lập các quy luật phân bố và thành tạo các mỏ quặng trong không gian và thời gian theo tiến trình phát triển địa chất - địa động lực của vùng quặng, cũng như đới cấu trúc đó. Các thành hệ quặng antimon có một liên quan nhất định với các thành hệ quặng nội sinh khác trong cùng một đới cấu trúc (trong nhiều đới cấu trúc chúng có tính phân đới ngang điển hình). Mối liên quan đó được thể hiện trong dãy thành hệ quặng đặc trưng cho một vùng quặng, một đới cấu trúc. 3.1.1. Khái niệm dãy thành hệ quặng Dãy thành hệ quặng (THQ) là nấc thang có mực tổ chức cao hơn và bao gồm các thành hệ quặng. Các thuật ngữ gần gũi với dãy thành hệ quặng: loạt thành hệ quặng, phức hệ thành hệ quặng, họ thành hệ quặng... Vấn đề dãy thành hệ quặng (THQ) được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến từ khá lâu, trong các công trình của Yu.A. Bilibin, V.A. Kuznetsov, S.S. Smirnov, I.N. Tomson, R.M. Konstantinov, D.I. Gorzhevsky G.A. Tvalchrelidze, O.A. Levitsky [196, 230, 233, 249, 251, 153, 302, 303, 305 …]. S.S. Smirnov (1944) xem loạt THQ là nhóm các mỏ huyết thống về mặt nguồn gốc, xuất hiện tuần tự trong thời gian, liên quan với các xâm nhập có tính chuyên hoá sinh khoáng khác nhau. Yu.A. Bilibin (1949) đề xuất khái niệm phức hệ THQ là nhóm các THQ được tạo thành gần như đồng thời và liên quan với một phức hệ magma. Các khái niệm gần gũi được nhiều nhà
- 108 Nguyễn Văn Bình nghiên cứu đề xuất: dãy nguồn gốc THQ (Kh.M Abdullaev. - 1960, 1961, 1964, G.A Tvalchrelidze - 1966), họ THQ (I.G. Magakian - 1967, 1969, 1974). Theo I.N. Tomson (1964 [358]) dãy THQ bao gồm các THQ (các kiểu khoáng hóa, cùng huyết thống) được thành tạo trong các giai đoạn địa chất khác nhau liên quan với một kiểu magma cụ thể. Theo D.I. Gorzhevsky (1965, 1966, 1986) phức hệ THQ là nhóm các THQ liên quan với một thành hệ địa chất nhất định (magma, biến chất, trầm tích) và có chung một số đặc điểm nhất định. Đặc biệt, vấn đề dãy THQ được V.A. Kuznetsov đề cập khá chi tiết trong các công trình của mình (1972, 1975, 1985). V.A. Kuznetsov đề xuất hệ thống các dãy THQ liên quan với các phức hệ magma trên nền kiến tạo (các dãy THQ giai đoạn địa máng sớm, giai đoạn giữa và nghịch đảo và phát triển địa máng, giai đoạn tạo núi, miền hoạt hoá magma - kiến tạo, miền nền). Theo V.A. Kuznetsov dãy nguồn gốc THQ (phức hệ quặng) là tổ hợp tự nhiên các THQ liên quan với một thành hệ magma hay phức hệ magma xác định. Seri nguồn gốc THQ là nhóm các THQ, dãy các THQ liên quan với các kiểu magma xác định và có nguồn vật chất quặng khác nhau. V.A. Kuznetsov phân chia 5 seri nguồn gốc THQ bao gồm 14 dãy THQ. R.M Konstantinov (1973) trên cơ sở tài liệu của Viễn Đông (LB Nga) và Đông Zabaikalia đã nghiên cứu dãy THQ không chỉ để hệ thống hoá các THQ mà còn như một phương pháp xác định sự phụ thuộc của THQ vào các chỉ tiêu địa chất - nguồn gốc khác nhau. R.M. Konstantinov phân biệt hai loại dãy THQ: dãy ngang THQ (do sự thay đổi thành phần tổ hợp khoáng vật bền vững, khác nhau về thành phần vật chất) và dãy đứng THQ (do sự thay đổi theo thời gian trong các giai đoạn khác nhau của quá trình thành tạo quặng liên quan với một phức hệ magma nhất định). Gần đây nhất, A.A. Sidorov [331, 333, 335, 338] có nhiều công trình nghiên cứu các dãy THQ ở Đông Bắc Liên bang Nga. Dãy THQ theo Đ.A. Sidorov là tập hợp các THQ được thành tạo trong các giai đoạn phát triển khác nhau (theo chiều giảm của nhiệt độ và các chỉ số hoá lý khác) của các đới kiến trúc - sinh khoáng (các terran, địa khối...) tương ứng với các bối cảnh kiến tạo - địa động lực khác nhau. Các THQ của một dãy THQ thường có chung cội rễ nguồn gốc và phụ thuộc rất lớn vào tiến trình magma - kiến tạo của khu vực. Các dãy THQ có thuộc tính đa nguồn gốc, có thể được hình thành trong nhiều giai đoạn khác nhau và có xu hướng biến đổi từ các hệ thống đa thành phần sang các hệ thống đơn giản hơn, thậm chí đến đơn
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 109 khoáng (đơn kim). Xu thế này xác định tính phân đới trong không gian của các mỏ quặng trong các đới kiến trúc sinh khoáng tương ứng với các thời đoạn sinh khoáng nhất định. A.A. Sidorov còn đưa ra khái niệm THQ cơ sở như là thành hệ quặng khởi đầu và là cội nguồn của dãy thành hệ quặng và ông cho rằng THQ cơ sở xác định sự phát triển và nội dung của toàn bộ phức hợp các mỏ khoáng sản trong vùng quặng [330, 331, 334, 337, 341]. Mỗi THQ cơ sở được đặc trưng bởi mối liên quan mật thiết với các thành hệ địa chất tương ứng nó xác định nội dung, các thuộc tính đặc thù và là đại diện chung cho cả dãy THQ. Như vậy có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau trong quan điểm phân chia các dãy THQ (nhóm các THQ) dựa trên bản chất nguồn gốc và mối liên quan mật thiết của chúng với tiến trình magma - kiến tạo khu vực và các thành hệ địa chất chứa chúng (nhất là các phức hệ magma...). Dãy các THQ gồm các THQ liên quan với nhau bằng sự chuyển tiếp từ từ giữa các tổ hợp cộng sinh khoáng vật bền vững (các kiểu khoáng hóa) hoặc có cùng huyết thống. Các dãy THQ thường được xác lập cho các đới kiến trúc sinh khoáng riêng biệt và cho các thời đoạn sinh khoáng đặc trưng. Vấn đề dãy THQ đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu sinh khoáng khu vực bởi lẽ dãy THQ đại diện và quy định bộ mặt sinh khoáng của các vùng quặng và các đới kiến trúc - sinh khoáng cụ thể. Thêm vào đó, bản chất và các thuộc tính đặc thù cũng như nguồn gốc phát sinh của mỏ quặng và thành hệ quặng chỉ có thể được xác lập rõ hơn khi tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể các khía cạnh của dãy THQ cho các vùng quặng và đới kiến trúc - sinh khoáng nhất định. Dưới đây, chúng tôi trình bày dãy thành hệ quặng vùng Chiêm Hóa theo quan điểm của A.A. Sidorov. Đây là vùng quặng có các mỏ antimon điển hình và là vùng được nghiên cứu khá kỹ. 3.1.2. Dãy thành hệ quặng nội sinh vùng Chiêm Hoá Bối cảnh kiến tạo vùng Chiêm Hoá: Vùng nghiên cứu thuộc phần đông, đông nam đới cấu trúc Lô - Gâm. Theo quan điểm của kiến tạo động hiện đại [19, 21, 32, 80, 82, 95, 97], đới kiến trúc sinh khoáng Lô - Gâm (chứa vùng Chiêm Hoá) ôm lấy vi vòm nguyên thuỷ Sông Chảy về phía đông, đông nam và được xem như sinh thành trong quá trình tăng
- 110 Nguyễn Văn Bình trưởng quanh vi vòm này. Trên khung cảnh Caledonit rộng lớn của miền uốn nếp Paleozoit Trung - Việt. Vùng nghiên cứu (và rộng hơn là đới kiến trúc Lô - Gâm) được thành tạo trên nền kiến trúc uốn nếp có vỏ lục địa tạo nên từ các kiến trúc đại dương thứ sinh Caledonit và về thực chất nó là một kiểu kiến trúc biển ven (võng rìa). Tham gia vào khung cấu trúc của đới kiến trúc - sinh khoáng Lô - Gâm có các phức hệ vật chất - kiến trúc (phức hệ VC-KT) sau (theo tiến trình phát triển của đới kiến trúc): Phức hệ VC-KT móng vỏ lục địa cổ - vòm Sông Chảy. Ở phía tây bắc và tây phát triển phức hệ VC - KT kiểu vỏ đại dương thứ sinh bao gồm: a) đunit - peridotit (phức hệ Nậm Bút σPZ, nb), metagabro - điabas (phức hệ Bạch Sa νεbs). Các thành tạo trên tạo thành hợp tạo kiểu ophiolit. b) Trầm tích lục nguyên - carbonat, lục nguyên (các hệ tầng: Hà Giang ε2hg, Chang Pung ε3cp, Lutxia O1lx). Phức hệ VC-KT sinh núi kiểu đới va chạm bao gồm: trầm tích lục nguyên - carbonat - phun trào axit (hệ tầng Pia Phương S2- D1pp), trầm tích lục nguyên dạng molas màu đỏ (hệ tầng Đại Thị D1đt), thành hệ granit-migmatit (phức hệ Sông Chảy PZ1- granit đồng va chạm), thành hệ granit (phức hệ Loa Sơn), thành hệ granit kiềm - syenit (phức hệ Pia Ma - granit kiềm sau va chạm). Các thành tạo này được biểu hiện dưới dạng các trũng molas (trũng sinh núi) đi kèm với các cấu trúc dạng vòm granit - migmatit và biến chất đồng tâm (Chiêm Hoá, Loa Sơn...). Phức hệ VC-KT nội mảng kiểu bồn trên lục địa bao gồm trầm tích lục nguyên - carbonat biển nông (các hệ tầng Bản Páp D2bp, Tốc Tát D3tt). Trên cùng là phức hệ VC-KT hoạt hoá magma - kiến tạo nội mảng: trầm tích molas lục địa chứa than (hệ tầng Vân Lãng T3n-rvl). Ở bậc cao hơn, kiến trúc dạng vòm Chiêm Hoá (cấu trúc nếp lồi dạng vòm) có nhân chứa các khối granit nhỏ và các đới biến chất đồng tâm chiếm vị trí trung tâm của đới kiến trúc sinh khoáng Lô - Gâm. Cấu trúc này xuất hiện vào nửa cuối Paleozoi và liên quan với vận động tạo vòm khu vực trên nền lục địa và là đại diện điển hình cho các kiến trúc dạng vòm tương tự khá phổ biến ở đông
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 111 bắc Việt Nam [82, 110, 123]. Phân bố ở trung tâm của kiến trúc dạng vòm Chiêm Hoá là đá phiến thạch anh - mica, gneis, đá phiến hai mica - đisten - granat, đá phiến hai mica. Phần trung tâm này được xác định là đới biến chất đisten - staurolit. Tại đây có các biểu hiện của các khối granit, migmatit, plagiogranit nhỏ. Trong phạm vi đới đisten - staurolit, Trần Tất Thắng [110] đã phát hiện các đá scarnơ và dạng scarnơ với tổ hợp cộng sinh khoáng vật: điopsit + spalerit + epidot + calcit - vezuvian + volastonit + pyroxen + granat. Tiếp ra ngoài là đá phiến hai mica - chlorit, đá phiến epidot - tremolit thuộc đới granat, tiếp theo là các đá phiến sericit - chlorit - biotit, đá phiến epidot - tremolit - chlorit, đá phiến talc - sericit thuộc đới biotit. Ngoài cùng là đá phiến sericit, sericit - chlorit, cát kết thuộc đới chlorit - sericit. Kiến trúc dạng vòm với các đới biến chất đồng tâm Chiêm Hoá chứa khá phong phú các biểu hiện quặng hoá của Pb-Zn, Au, Au- Ag, Sb, Sb-Au, As, pyrit , barit, Cu, (Sn) và được thể hiện trên hình 3.1. Các biểu hiện quặng hoá này tạo nên một số thành hệ quặng điển hình cho khu vực và thuộc về một dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur vàng xâm nhiễm. Dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm vùng Chiêm Hoá: Dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm được chúng tôi xác lập cho vùng Chiêm Hoá. Các đặc điểm cơ bản của dãy thành hệ quặng được tổng hợp trong bảng 1. Các thông tin đưa ra trong bản này được tác giả tổng hợp từ các tài liệu bản thân và các công trình đã công bố [4, 8, 15, 26, 45, 46, 47, 48, 50, 53, 55, 74, 76, 85, 98, 99, 100, 110, 115, 224, 225, 330, 331, 336, 337]. Dãy THQ thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm bao gồm 3 THQ: thành hệ thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm, thành hệ đa kim chứa vàng (sulfur - thạch anh - vàng) và thành hệ thạch anh - antimonit - vàng (antimon - vàng). Trong đó, thành hệ thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm được xem là thành hệ quặng cơ sở cho cả dãy thành hệ quặng. 1. Đại diện cho thành hệ thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm vùng Chiêm Hoá là các điểm quặng và điểm khoáng hoá: Khuôn Nưa, Kéo Ca, Đại Mãn, Khuôn Khương, Phiêng Giao, Pou Minh, Baren, Na Hiên, Pia Chác... Trên thực tế có thể thấy rằng trong
- 112 Nguyễn Văn Bình vùng Chiêm Hoá thể hiện khá rõ sự phát triển rộng rãi các mạch thạch anh - vàng liên quan chặt chẽ với pyrit hoá [4, 12, 17, 18]. Ngoài các điểm khoáng hoá kể trên, các ổ, vi mạch, mạch nhỏ của thạch anh - sulfur - vàng gặp ở rất nhiều nơi khác trong vùng dưới dạng xâm tán trong đá phiến thạch anh, đá phiến thạch anh - sericit, đá phiến vôi - silic, đá phiến đen... Quặng hoá phát triển dọc các đứt gãy nhỏ, đứt gãy nhánh, đới dập vỡ kiến tạo với phương chủ đạo là đông bắc - tây nam (ngoài ra còn có các phương tây bắc - đông nam và vĩ tuyến). Các khoáng vật chính: thạch anh, pyrit, arsenopyrit, marcasit, chalcopyrit, pyrotin, hematit, limonit. Các nguyên tố hoá học đặc trưng: Fe 1 - 43%; As 3 - 10%; Au 0,6 - 35g/t, Sb, Cu, Bi, Ga, Pb, Zn. Đây cũng chính là đối tượng khai thác vàng tự do của nhân dân ở vùng Chiêm Hoá. Các đặc điểm cơ bản nhất của thành hệ được thể hiện trong bảng 1. Ở đây, cần nhấn mạnh rằng tập hợp các mỏ dạng mạch thuộc các thành hệ quặng đa kim chứa vàng và quặng hóa antimonit - arsenopyrit - vàng phát triển chính trên nền phát triển rộng rãi của các biểu hiện thạch anh - vàng, pyrit - vàng... xâm nhiễm trong đá gốc vùng này. 2. Thành hệ đa kim chứa vàng (sulfur - thạch anh - vàng) vùng Chiêm Hoá chưa được đầu tư nghiên cứu một cách kỹ lưỡng như các thành hệ khác của cùng dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm [4, 76]. Các đặc điểm chính của thành hệ được tổng kết trong bảng 3.1. Thuộc về thành hệ đa kim chứa vàng là các mỏ và điểm quặng: Sum Kim, Khao Tinh Noi, Làng Ho, Pác Tả, Bắc Nhung, Ao Cam, Lũng Thí, Nà Déo... Các mỏ và điểm quặng phân bố ở cánh của nếp lồi địa phương, dọc các đới dăm kết kiến tạo, đới khe nứt, đứt gãy nhỏ phương đông bắc - tây nam. Môi trường chứa quặng chủ yếu là các đá trầm tích carbonat - lục nguyên xen ít phun trào axit hệ tầng Pia Phương (S2-D1pp). Tổ hợp cộng sinh khoáng vật chính: thạch anh, sphalerit, galenit, pyrit, calcit, antimonit, argentit. Các nguyên tố hoá học chính: Pb 3 - 63%; Zn 0,1-18%, ngoài ra còn có: As, Au, Ag, Cu, Cd, Sb. Cũng giống như hai thành hệ kia của dãy thành hệ thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm, thành hệ đa kim chứa vàng vùng Chiêm Hoá chưa được khẳng định mối liên quan về mặt nguồn gốc với hoạt động magma - granitoid trong vùng. Tuy các khối granitoid nhỏ và các biểu hiện granit hoá, migmatit hoá có mặt trong vùng nghiên cứu và chúng ta dễ dàng đề xuất mối liên quan cộng sinh
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 113 anh em (mối liên quan không gian trong cùng cấu trúc), song chúng ta vẫn chưa có được các dữ liệu có đủ sức thuyết phục (tuổi tuyệt đối, các số liệu về đồng vị Pb, Sr...). 3. Thuộc về thành hệ thạch anh - antimonit - vàng là các mỏ và điểm quặng: Làng Vài, Khuôn Pục, Hoà Phú, Cốc Táy, Lang Can, Khuôn Vài, Lùng Giàng, Khuôn Khương, Nà Mó... Đây là thành hệ khá điển hình trong một cấu trúc độc đáo - cấu trúc dạng vòm có nhân là các khối xâm nhập nhỏ granit, migmatit với các đới biến chất đồng tâm vùng Chiêm Hoá. Thành hệ này đã được đề cập khá kỹ trong nhiều công trình đã công bố và các đặc điểm chính của nó được thể hiện trong bảng 1. Các mỏ và điểm quặng của thành hệ tập trung ở phần rìa các cấu trúc dạng vòm trong đới biến chất biotit, sericit - chlorit, các đới biến chất này có thể xem như tương đương với tướng biến chất nhiệt độ thấp (Làng Vài, Khuôn Pục, Khuôn Khương, Cốc Táy...). Các mỏ và điểm quặng thường tập trung ở đỉnh (phần vòm) của cánh nếp lồi (Làng Vài), nếp lõm địa phương (Khuôn Pục), các đơn nghiêng (Hoà Phú, Cốc Táy, Khuôn Khương), đới khe nứt, hệ đứt gẫy và nơi giao nhau của chúng. Nhìn chung chúng đều gắn bó chặt chẽ với các đới dăm kết, đới cà nát, đới vò nhàu, dập vỡ. Ở vùng Chiêm Hoá hầu hết các mỏ và điểm quặng bị chi phối bởi hệ đứt gãy phương án vĩ tuyến, đặc biệt nơi giao nhau của đứt gãy á vĩ tuyến và đứt gãy phương BĐB - NTN (10 - 15o). Kết quả đo vẽ trường quặng cho phép khẳng định sự tập trung của quặng hoá vào đới khe nứt tách kề các đứt gãy trượt ngang trái. Các đứt gãy lớn không chứa mạch quặng, trong khi đó mạch quặng phân bố trong các đới đứt gãy địa phương, đứt gãy tựa dạng lông chim. Quang cảnh chung cho vùng Chiêm Hoá là các đới khoáng hoá antimonit - arsenopyrit - vàng thường tập trung trong các hệ thống đứt gãy phương á vĩ tuyến, bản thân các mạch quặng lại phát triển chủ yếu theo hướng ĐB -TN, một số nhỏ các thân quặng có phương kinh tuyến và ĐB - TN. Môi trường chứa quặng của thành hệ thạch anh - antimonit - vàng là các đá trầm tích lục nguyên, lục nguyên - carbonat xen ít phun trào axit gồm: đá phiến thạch anh - sericit, đá vôi, đá vôi hoa hoá, cát kết, bột kết, đá vôi silic hoá, đá phiến vôi - phlogopit, cát kết, quarzit. Dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur - vàng xâm nhiễm lần đầu tiên được xác lập cho vùng Chiêm Hoá. Việc trình bày các thành hệ trong dãy thành hệ quặng cho thấy mối liên quan giữa
- 114 Nguyễn Văn Bình các thành hệ quặng với nhau trong cùng một cấu trúc và mối liên quan của chúng với điều kiện kiến tạo - địa động lực, hoạt động magma và tiến trình phát triển lịch sử địa chất khu vực. Hình 3.1: Sơ đồ địa chất và khoáng sản nút quặng Chiêm Hóa 105 15 105 30 D1 pp Cu Cu Pb-Zn Sb 1 D1 pp Au As 5 Sb 8 Au 2 4 Au 9 Au 6 3 Py Sb 7 Au T3n-rvl Sb 22 10 γD 3 ns As 22 10 D1ml T3n-rvl Chiªm Hãa D1 pp Pb-Zn 11 D1 pp Au D1 pp 0 2 6km 105 15 105 30 Thành lËp cã tham kh¶o [31] T3n-rvl HÖ tÇng V©n L·ng ThÞ trÊn γD 3 ns Phøc hÖ Ng©n Son Má và diÓm quÆng D1 ml HÖ tÇng Mia LÐ Ranh giíi dÞa chÊt D1 pp HÖ tÇng Pia Phuong Đøt g·y 1-Nói ThÇn; 2-Lïng Giµng; 3-Cèc T¸y; 4-Nà Mo; 5-Khu«n Minh; 6-Khu«n Vài; 7-Khu«n Pôc; 8-Làng Bon; 9-Làng Vài; 10-Làng ¶i; 11-Pou Hinh.
- Bảng 3.1: Các đặc điểm chính của dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfur - vàng 114 xâm nhiễm vùng Chiêm Hoá Thành Đặc điểm cấu Môi trường Các khoáng vật Tổ hợp khoáng Nguyên tố Hình Biến đổi Các mỏ và điểm hệ trúc địa chất chứa chính vật hoá học thái thân vây quanh quặng quặng quặng quặng Thạch Nếp lồi, nếp Trầm tích Thạch anh, Thạch anh - vàng; Au: 1,3-35g/t, Ổ, xâm Thạch anh Kéo Ca, Khuôn anh - lõm địa lục nguyên, vàng, pyrit, thạch anh - sulfur - phổ biến 2 - tán, vi hoá, silic Nưa, Làng Bon, sulfur - phương lục nguyên arsenopyrit, vàng; thạch anh - 5g/t. Fe, Cu, mạch hoá, sericit Khe Bổn, Baren, vàng carbonat chancopyrit, pyrit - vàng; thạch As, Pb, Zn hoá Đại Mãn, Pou xâm (∈2hg, S2- marcasit, nyrotin anh - arsenopyrit - Minh, Phiêng nhiễm D1pp, D1đt) vàng. Giao, Na Hiên... Đa kim Nếp lồi, nếp Trầm tích Galenit, Galenit - Pb:3,62-63% Mạch, ổ, Thạch anh Khao Tinh Noi, chứa lõm địa lục nguyên, sphalerit, pyrit, sphalerit - vàng; Zn:0,1-18% thấu hoá, sericit Bắc Nhung, Ao vàng phương, hệ lục nguyên arsenopyrit, thạch anh - pyrit Sb:0,2-7,07% kính, hoá, hoa Cam, Cây Tó, (sulfur - thống đứt gãy. carbonat argentit, thạch - vàng. As:0,2-0,88% xâm tán hoá Làng Ho, Sum thạch (S2-D1pp, anh, antimonit, Au:0,7-8,6, Kim, Pác Tả … anh - D1đt) vàng, carbonat phổ biến 1- vàng) 2g/t Ag, Cu, Cd Thạch Cấu trúc dạng Trầm tích Antimonit, pyrit, Thạch anh - Sb:4-67% Mạch, ổ, Thạch anh Làng Vài, Núi anh - vòm nhân lục nguyên, vàng, sphalerit, antimonit - Au:1-23g/t thấu hoá, chlorit Thần, Khuôn antimonit chứa granitoid lục nguyên thạch anh, calcit, sphalerit - vàng; Ag:2- kính, hoá, silic Pục, Lang Can, – vàng và các đới carbonat arsenopyrit, thạch anh - 158g/T xâm tán, hoá, sericit Hoà Phú, Khuôn (antimon biến chất (∈2hg, S2- berthierit, arsenopyrit - As:0-25% dăm kết hoá, talc Vài, Nà Mó, – vàng) đồng tâm, nếp D1pp, D1đt) pyrotin, pyrit - vàng; Cu, Bi Zn, hoá, Làng Ải... Nguyễn Văn Bình lồi địa chancopyrit, thạch anh - Pb... carbonat phương, giao quặng đồng xám calcit-antimonit - hoá của hệ thống vàng; thạch anh đứt gãy. - pyrit - antimonit.
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 115 Các dãy thành hệ quặng tương tự có thể được xác lập cho các vùng quặng khác của Việt Nam: Tạ Khoa, Quỳ Châu - Tà Sỏi, rìa bắc địa khối KonTum, Pia Oắc (Sn - W, fluorit - U ⇒ Pb - Zn, Au, Fe ⇒ Sb, Au), Tam Đảo (Sn - W ⇒ Pb - Zn, Fe, Pb - Zn - barit ⇒ barit, Sb, Hg), Ngân Sơn - Na Rì, Thần Sa - Yên Cư, Cẩm Thủy - Bá Thước... 3.2. Vấn đề nguồn gốc và mô hình địa chất - nguồn gốc quặng hóa antimon Miền Bắc Việt Nam 3.2.1. Nguồn gốc quặng hóa antimon Nguồn gốc của quặng hóa là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu quặng hóa của bất kỳ loại hình kim loại nào. Vấn đề nguồn gốc quặng hóa antimon được đề cập đến trong nhiều công trình. Hầu hết các mỏ antimon được biết đến của thế giới và Việt Nam đều được xem là có nguồn gốc nhiệt dịch (hậu magma, nhiệt dịch khí - thành, phi magma…). Vấn đề nguồn gốc quặng hóa antimon bao gồm nhiều khía cạnh: nguồn cung cấp vật chất - năng lượng, thành phần dung dịch quặng, cơ chế vận chuyển, mối liên quan với môi trường xung quanh, tiến trình thành tạo quặng hóa … Trong một số miền sinh khoáng (Hoa - Việt, Trung Á), ta thường thấy các mỏ nhiệt dịch antimon và thủy ngân cùng tồn tại. Điều đó tạo cảm giác antimon và thủy ngân có mối liên quan mật thiết với nhau và thường được mô tả chung.Trên thực tế, các mỏ đơn kim Hg và Sb rất phổ biến (cả về số lượng và trữ lượng), còn các mỏ phức hợp Sb - Hg (Hg - Sb) ít hơn rất nhiều. Các mỏ đơn kim thủy ngân chứa ít hoặc không có antimon và ngược lại, các mỏ đơn kim Sb chứa rất ít hoặc không chứa Hg. Trong cùng mỏ Sb - Hg (Hg - Sb) antimonit tồn tại riêng biệt với cinnabar (thường thì anitmonit thành tạo trước). Các khoáng vật chứa cùng một lúc Sb và Hg rất hiếm gặp: livingstonit - HgSb4S8, tvalchrelidzeit - Hg12(Sb, As)8S15. Ở Việt Nam, các mỏ Yên Vệ, Yên Cư, Thần Sa, Vàng Pục … cùng chứa Sb và Hg, song quy mô của chúng rất nhỏ. Theo nguồn gốc, các mỏ antimon nhiệt dịch thường được phân làm 3 nhóm: nhiệt dịch - pluton (nhiệt dịch thể xâm nhập sâu), nhiệt dịch - phun trào và viễn nhiệt. Ở Việt Nam, tồn tại chủ yếu kiểu mỏ nhiệt dịch - pluton (Chiêm Hóa…) và kiểu mỏ nhiệt dịch viễn nhiệt (Mậu Duệ…). Một số mỏ khác cũng được nghiên cứu
- 116 Nguyễn Văn Bình khá kỹ, song tài liệu hiện có chỉ cho phép kết luận đó là các mỏ nhiệt dịch (Tà Sỏi, Năng Khả, Khe Chim - Dương Huy...). Đại diện cho kiểu mỏ nguồn gốc nhiệt dịch - pluton (nhiệt dịch thể xâm nhập sâu) là các mỏ thuộc thành hệ thạch anh - antimonit - vàng (antimon - vàng). Một số đặc điểm đặc trưng cho phép nói lên nguồn gốc và điều kiện thành tạo quặng hóa antimon - vàng của thành hệ thạch anh - antimonit - vàng: • Quặng hóa antimon - vàng thuộc thành hệ này phân bố trong một cấu trúc dạng vòm (nếp lồi dạng vòm có nhân là các khối granitoid nhỏ với các đới biến chất đồng tâm). Tại các mỏ và điểm quặng cụ thể, quặng hóa antimon phân bố ở phần cánh (gần đỉnh) của các nếp lồi địa phương, nếp lõm địa phương hoặc trong các cấu trúc đơn nghiêng. • Các thân quặng antimon có dạng mạch, mạch xâm nhiễm, thấu kính, ổ, đới mạch xâm nhiễm. Chúng phân bố chủ yếu trong hệ đứt gãy địa phương, hệ khe nứt tách, một số ít trong hệ khe nứt cắt, chỗ giao nhau của các hệ thống đứt gãy địa phương, trong các đới cà nát, đới phá hủy và dăm kết hóa mạnh. • Môi trường đá vây quanh là các trầm tích lục nguyên, lục nguyên - carbonat, lục nguyên - carbonat xen it phun trào axit (các hệ tầng: Hà Giang ε2hg, Pia Phương S2 - D1pp, Đại Thị D1đt). • Quặng hóa phát triển trong các giai đoạn sau: thạch anh - arsenopyrit - pyrit - vàng, thạch anh - antimonit - sphalerit - tetrahedrit - calcit và thạch anh - calcit. Như vậy, có thể thấy rằng quặng hóa antimon - vàng thuộc thành hệ thạch anh - antimonit - vàng có nguồn gốc nhiệt dịch - pluton (nhiệt dịch thể xâm nhập sâu) với đặc điểm có nhiều giai đoạn tạo khoáng. Tuy không thấy rõ quan hệ nguồn gốc trực tiếp giữa quặng hóa antimon - vàng và đá magma granitoid, song trong vùng phát triển các khối xâm nhập nhỏ (diorit, granodiorit, granit ...). Các đá này được xác định có khả năng sinh vàng nhiều hơn là sinh thiếc (xem chương IV, phần các yếu tố khống chế quặng hóa). Nguồn cung cấp vật chất cho quặng hóa antimon - vàng và các nguyên tố hóa học đi kèm được giả định có gốc từ lò magma dưới sâu. Dòng fluit từ dưới sâu được đưa vào miền có kiến trúc dạng vòm (kiến trúc nâng dạng vòm trên nền lục địa thứ sinh - vòm biến chất nhiệt đồng tâm có nhân chứa các khối xâm nhập granit, migmatit). Dung dịch quặng
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 117 được đưa vào các hệ thống đứt gãy cắt qua đỉnh của các nếp lồi. Quặng hóa dược lắng đọng theo phương thức lấp đầy là chủ yếu (quặng antimon có cấu tạo đặc sít, xâm tán, khối, mạch, mạch - xâm tán, ranh giới với đá vây quanh rõ ràng, không thấy có sự chuyển tiếp dần dần từ quặng hóa sang đá vây quanh) và thường phân bố ở đỉnh và cánh của nếp lồi, nơi có áp suất tĩnh giảm nhỏ hơn cả. Quặng antimon lấp đầy các khe nứt, khoảng trống, lỗ hỗng, đới dập vỡ, đới cà nát. Ngoài ra, quặng còn được thành tạo theo phương thức thay thế trao đổi (kiến trúc gặm mòn, vành riềm, đám hạt tàn dư). Đại diện cho các mỏ có nguồn gốc nhiệt dịch viễn nhiệt là các mỏ của thành hệ thạch anh - antimonit (antimon thực thụ). Có thể nêu ở đây các đặc điểm cơ bản của quặng antimon mỏ Mậu Duệ (thuộc thành hệ thạch anh - antimonit), qua đó có thể có những nhận xét bước đầu về nguồn gốc và điều kiện thành tạo của quặng hóa antimon: • Thành phần khoáng vật đơn giản chủ yếu là antimonit và thạch anh, các khoáng vật còn lại có số lượng không đáng kể. Tổ hợp các nguyên tố hóa học cũng đơn giản, chủ yếu là Sb, ngoài ra có As, Ag, Au, Hg. • Các thân quặng có dạng: thấu kính nằm trùng với mặt lớp, vỉa gần chỉnh hợp, ổ, mạch dài. • Quặng hóa thường tích tụ trong tầng trầm tích nhất định, quặng giàu thường tập trung giữa các mặt phân lớp, mặt tiếp xúc giữa tập đá cát kết, sét kết với đá phiến hoặc trong cát kết, bột kết. Đóng vai trò màn chắn là các tập đá phiến sét, đá phiến sét than. • Không thấy có mối liên quan nguồn gốc trực tiếp với hoạt động magma xâm nhập. Với các đặc điểm như vậy, quặng hóa antimon mỏ Mậu Duệ (thành hệ thạch anh - antimonit) có thể được xếp vào thành hệ antimon thực thụ có nguồn gốc viễn nhiệt theo quan điểm của V.I. Smirnov. Dung dịch quặng có thể có nguồn gốc sâu. Dòng dung dịch đi lên theo các đứt gãy mang theo S và Sb trong các kênh dẫn xâm nhập vào và tích tụ ở các vị trí thuận lợi: đới cà nát, đới phá hủy, các tập đá có độ rỗng lớn (cát kết, sét kết ...), ranh giới tiếp xúc giữa hai loại đá thuận lợi và không thuận lợi: giữa đá cát kết, sét kết và đá phiến sét, đá phiến sét than (chúng có lẽ đóng vai trò màn chắn). Một phần nguồn vật chất quặng có thể được huy động bởi tác động
- 118 Nguyễn Văn Bình của các dòng dung dịch nhiệt dịch. Các mỏ khác của Yên Minh và Mèo Vạc (Bản Trang, Phe Thán, Lẻo A, Pó Ma ...) cũng có nguồn gốc thành tạo tương tự. 3.2.2 Mô hình địa chất - nguồn gốc quặng hóa antimon vùng Chiêm Hóa Mô hình địa chất - nguồn gốc của thành hệ quặng antimon được chúng tôi nghiên cứu và đề xuất cho vùng Chiêm Hóa. Trong nghiên cứu địa chất mỏ quặng, mô hình hóa là một thủ pháp nghiên cứu thường được áp dụng một cách rộng rãi nhằm tổng kết và hệ thống hóa toàn bộ các hiểu biết về một mỏ quặng, một thành hệ quặng, một dãy thành hệ quặng hoặc một kiểu quặng hóa nhất định. Mô hình hóa các mỏ quặng là một bước đi tiếp theo cần thiết của phép phân tích thành hệ quặng và dãy thành hệ quặng. Các nhà nghiên cứu đã đề xuất các định nghĩa khác nhau về mô hình của thành hệ quặng. Năm 1985, V.A. Kuznetsov, E.G. Đistanov và A.A. Obolensky [249] đưa ra định nghĩa: “Mô hình - đó là cấu trúc hay hình mẫu thuận tiện cho việc xác lập lại một số trạng thái hay sự phát triển của hệ thống đang nghiên cứu”. Năm 1990, D.B. Rundkvist [304] cho rằng “nhiệm vụ chủ yếu của mô hình hóa các mỏ quặng là xem xét quá trình tạo quặng trong quy mô của toàn bộ hệ thống (nguồn cung cấp, nơi tích tụ, các điều kiện hóa lý của quá trình tạo khoáng, quy luật phát triển của chúng trong không gian và thời gian)”. A.I. Krivtsov và nhiều người khác sử dụng thuật ngữ mô hình như là một tập hợp, một hình mẫu tổng quát dựa trên các dấu hiệu đặc trưng nhất của thành hệ quặng. Skinner (1987) xem mô hình thành hệ quặng là danh mục đầy đủ các đặc trưng tiêu biểu được xác định trong phần lớn các mỏ của thành hệ. Theo Cox và Singer (1986) mô hình mỏ quặng là thông tin có hệ thống mô tả các tính chất đặc trưng của thành hệ quặng. Tùy thuộc vào các yếu tố đưa vào phân tích ta có các loại mô hình sau: mô hình mô tả (kinh nghiệm), mô hình các quá trình định tính, mô hình địa chất, mô hình địa hóa - khoáng vật, mô hình địa chất - nguồn gốc, mô hình tìm kiếm, mô hình thạch luận - địa động lực… Mô hình hóa một thành hệ quặng, một kiểu mỏ là xem xét tiến trình tạo quặng trên quy mô của toàn bộ hệ thống bao gồm nơi phát sinh, nguồn cung cấp năng lượng - vật chất, điều kiện tích tụ - tập trung quặng hóa, tác nhân vận chuyển, môi trường chứa quặng. Mô hình địa chất - nguồn gốc thành hệ quặng bao gồm các yếu tố và quá trình dẫn đến hình thành mỏ
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN 119 quặng, kể cả nguồn cung cấp fluit chứa quặng, vật chất tạo quặng, tác nhân vận chuyển, nguyên nhân và điều kiện tập trung quặng (tính chất tổng quát của hệ thống magma - quặng hóa). Hay nói một cách khác, mô hình hóa xem xét quy luật phát triển của chúng trong không gian và thời gian, dựa trên toàn bộ các hiểu biết về mỏ quặng. Mô hình về một khía cạnh nào đó có thể xem là hình mẫu của một đối tượng, một quá trình một cách làm, một thủ tục. Ở đây cần nhấn mạnh là bản chất nguồn gốc và các thuộc tính chung của thành hệ quặng có thể được phát hiện khi tiến hành mô hình hóa các thành hệ quặng Mô hình hóa hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng trong việc nghiên cứu nguồn gốc các mỏ quặng [45, 65, 164, 249, 252, 304, 305, 318, 333, 337, 388, 389]. Các mô hình được các nhà nghiên cứu xây dựng cho các loại hình quặng hóa cụ thể: V.I. Smirnov - mỏ conchedan, G.N. Scherba - Pb - Zn, kim loại quý hiếm, V.A. Zharikov - mỏ scarnơ, Ya.N. Belevtsev - mỏ biến chất, L.N. Ovchinnikov - mỏ nhiệt dich - pluton, G.B. Naumov - mỏ U, A.A. Sidorov - Au … Dưới đây chúng tôi áp dụng cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu vừa nêu trên vào việc nghiên cứu mô hình địa chất - nguồn gốc thành hệ quặng thạch anh - antimonit - vàng vùng Chiêm Hóa. Mô hình địa chất - nguồn gốc thành hệ thạch anh - antimonit - vàng vùng Chiêm Hóa Các đặc điểm địa chất - nguồn gốc của thành hệ thạch anh - antimonit - vàng vùng Chiêm Hóa đưa ra ở bảng 3.2; để so sánh chúng tôi trình bày các thành hệ quặng antimon thực thụ Yên Minh. 1. Các mỏ và điểm quặng antimon - vàng vùng Chiêm Hóa (Làng Vài, Khuôn Pục, Cốc Táy, Hòa Phú, Lang Can, Khuôn Khương, Nà Mó, Làng Ải, Cây Cóc, Khe Bổn…) thuộc về hệ thạch anh - antimonit - vàng phân bố trong cấu trúc dạng vòm với các đới biến chất đồng tâm có nhân là các khối xâm nhập magma granit, migmatit nhỏ. 2. Môi trường chứa quặng của thành hệ thạch anh - antimonit - vàng là các đá trầm tích lục nguyên, lục nguyên - carbonat xen ít phun trào axit gồm: đá phiếm thạck anh - sericit, đá phiến sericit, đá vôi, đá vôi hoa hóa, cát kết bột kết, đá vôi silic hóa, đá phiến vôi - phlogopit, cát kết - quarzit 3. Cấu trúc chứa quặng của thành hệ thạch anh - antimonit - vàng là cấu trúc nâng dạng vòm (Chiêm Hóa, Thổ Bình, Loa Sơn) với
- 120 Nguyễn Văn Bình các đới biến chất đồng tâm, nhân của cấu trúc là: đá phiến thạch anh - mica, gneiss, đới biến chất đisten - staurolit và các thể xâm nhập nhỏ granit, migmatit nhỏ. Bao quanh vòm là trầm tích lục nguyên, lục nguyên - carbonat với các lớp đá dốc thoải về các phía. Trong cấu trúc chứa quặng này phần lớn các mỏ và điểm quặng này tập trung ở phần ngoài (phần rìa) trong các đới biến chất biotit và sericit - chlorit 4. Các tài liệu hiện có chưa đủ để khẳng định một cách chắc chắn mối liên quan nguồn gốc của quặng hóa antimon - vàng với một khối magma granit hoặc một phức hệ magma cụ thể nào song những bằng chứng về mối liên quan không gian giữa quặng hóa antimon - vàng vùng Chiêm Hóa và các khối granitoid trong cùng một cấu trúc địa chất cũng như các đặc điểm thạch hóa cho phép giả định mối liên quan cộng sinh giữa quặng hóa antimon - vàng và các khối granit nhỏ. Chúng đều là sản phẩm phân dị của cùng một lò magma ở sâu (có thể trong một hệ thống magma - quặng hóa ?). Độ sâu và thời gian tách ra của dung dịch magma và dung dịch nhiệt dịch chứa quặng hóa có lẽ khác nhau. Các đá granitoid có thể xem như đóng vai trò nguồn cung cấp năng lượng để huy động lượng antimon và vàng sẵn có trong các thành tạo địa chất cổ hơn tập trung thành các mỏ quặng 5. Quặng hóa antimon - vàng được hình thành trong 3 giai đoạn; mỗi giai đoạn đặc trưng bằng THCSKV tương ứng. Giai đoạn I gồm THCSKV thạch anh - arsenopyrit - pyrit - vàng. Giai đoạn II gồm 2 THCSKV: sphalerit - chalcopyrit - tetrahedrit - pyrotin và thạch anh - antimon - calcit - berthierit - vàng. Giai đoạn III gồm THCSKV thạch anh - calcit 6. Quặng hóa antimon - vàng vùng Chiêm Hóa có nguồn gốc nhiệt dịch pluton. Dòng fluit chứa quặng tách ra từ lò magma dưới sâu, được đưa lên và tập trung trong các cấu trúc nâng dạng vòm. Quặng hóa lắng đọng theo phương thức lấp đầy. Nhiệt độ thành tạo của khoáng hóa 1950 - 3600. Thành hệ thạch anh - antimonit - vàng được xác định là thành viên cuối cùng của dãy thành hệ quặng: thạch anh - sulfua vàng xâm nhiễm ⇒ đa kim – vàng ⇒ thạch anh - antimonit - vàng đặc trưng cho giai đoạn hoạt động magma - kiến tạo. Quặng hóa antimon - vàng vùng Chiêm Hóa thuộc kiểu thành hệ sinh khoáng (TCQ = TMQ) + TTQ (theo quan niệm được trình bày trong: [149], [150], [245], [246], [303]).
- Chương III. Vấn đề thành tạo và q/ luật phân bổ quặng antimon Miền Bắc VN Bảng 3.2: Các đặc điểm địa chất – nguồn gốc thành hệ thạch anh – antimonit – vàng vùng Chiêm Hóa Kiểu THQ Môi trường chứa Cấu trúc chứa Thành hệ Kiểu Dãy THQ Các mỏ và antimon quặng quặng sinh khoáng nguồn gốc điểm quặng Thạch anh - Trầm tích lục Cấu trúc dạng (TCQ = TMQ) Nhiệt dịch * Vàng - thạch Làng Vài, antimonit - nguyên, lục nguyên vòm (nhân xâm + TTQ (nhiệt dịch anh - sulfua Khuôi Pục, vàng cacbonat: ∈2hg, S2- nhập granitoid, pluton?) xâm nhiễm Hòa Phú, Cốc Chiêm (antimon - D1pp, D1đt đới biến chất Táy, Lang vàng) đồng tâm) * Đa kim chứa Can, Cây Cóc, Hóa Au Khuôn Vài * Thạch anh - antimonit - vàng beresit Yên Thạch anh Trầm tích lục Trũng Mesozoi TCQ = TMQ Kiểu giả Mậu Duệ, Bó Minh - antimonit nguyên xen ít phun (aulacogen tầng nguồn Mới, Lũng (antimon trào axit: D2nq, nghịch đảo) gốc nhiệt Thầu, Bản thực thụ) P2đđ, T1-2sh dịch sâu Trang, Pó Ma … 121
- Nguyễn Văn Bình 122 Như vậy ta có thể nói rằng quặng hóa antimon vùng Chiêm Hóa mang đặc điểm thành hệ thạch anh - antimonit - vàng của dãy thành hệ quặng thạch anh - sulfua vàng xâm nhiễm, chúng có nguồn gốc nhiệt dịch và thuộc kiểu thành hệ sinh khoáng: (TCQ = TMQ) + TTQ. (Các chữ viết tắt: TCQ - thành hệ chứa quặng, TMQ – thành hệ mang quặng, TTQ - thành hệ tạo quặng). 3.3. Quy luật phân bố quặng hoá antimon Miền Bắc Việt Nam trong không gian 3.3.1. Một số nhận xét chung Sự phân bố của quặng hóa antimon Miền Bắc Việt Nam có quy luật và được thể hiện dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau. Quy luật phân bố của quặng hóa được thể hiện trong không gian, thời gian và trên nền vật chất - nguồn gốc khác nhau. Ngoại trừ một số điểm quặng antimon nằm đơn lẻ (Nậm Chảy, Tông Mừng, Bản Đáy, Khôn Re, Lục Ba, Xuân Mai, Tân Lâm, Phong An, Púng Giắt…), các mỏ và điểm quặng antimon Miền Bắc Việt Nam đều phân bố tập trung trong các đới cấu trúc địa chất với các bối cảnh địa động lực tương ứng, dọc các đới đứt gãy sâu hoặc tạo thành đai quặng hóa (phương kinh tuyến…). Ở quy mô toàn Miền Bắc Việt Nam có thể thấy quặng hóa antimon có các quy luật phân bố sau: a) Phân bố dọc các đứt gãy sâu hoặc tựa vào các đứt gãy sâu: Điện Biên - Lai Châu (điểm quặng Púng Giắt), Cao Bằng - Tiên Yên (nút quặng Đông Khê - Phục Hòa), Sông Thương (Khôn Re), Yên Tử - Móng Cái (vùng quặng Quảng Ninh), Đường 48 (Tà Sỏi), Sông Mã (Cẩm Thủy - Bá Thước). b) Tại miền Đông Bắc Việt Nam (tỉnh sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam) ta có thể thấy sự tăng trưởng của vỏ lục địa ôm quanh nhân lục địa cổ - vòm Sông Chảy; từ trong ra ngoài: tiểu lục địa Tiền Cambri Sông Chảy → đới cấu trúc Lô - Gâm (PZ) → các đới cấu trúc Chang Pung - Hạ Lang - Bắc Sơn (Cốc Xô) (PZ) → các trũng Mesozoi Sông Hiến - An Châu (MZ) và đới cấu trúc Quảng Ninh. Cũng theo chiều hướng tăng trưởng này ta thấy có sự thay đổi tương ứng của quặng hóa nội sinh (antimon): đới kiến trúc - sinh khoáng Sông Chảy (Au, Pb - Zn, Sn - As - Au)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Miền Bắc Việt Nam - Hoạt động magma và sinh khoáng nội mảng: Phần 1
247 p | 146 | 39
-
Miền Bắc Việt Nam - Hoạt động magma và sinh khoáng nội mảng: Phần 2
125 p | 134 | 31
-
Việt Nam - Lịch sử tự nhiên: Phần 1
140 p | 132 | 24
-
Đánh giá diễn biến mưa axit ở miền bắc việt nam: phần 2
91 p | 96 | 11
-
Đánh giá diễn biến mưa axit ở miền bắc việt nam
71 p | 80 | 9
-
Một số kết quả đánh giá tiềm năng năng lượng của các nguồn địa nhiệt triển vọng ở vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam
11 p | 75 | 6
-
Tri thức bản địa của các dân tộc thiểu số trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam
8 p | 62 | 4
-
Sử dụng các chỉ số để đánh giá chất lượng nước và phân loại mức độ phú dưỡng của vùng nước ven biển miền Bắc Việt Nam
8 p | 88 | 4
-
Nghiên cứu xây dựng đường cong IDF cho các vùng mưa thuộc miền Bắc Việt Nam
8 p | 79 | 4
-
Quần xã ve giáp (Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất núi chè, Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, vùng trung du bắc Niệt Nam
9 p | 46 | 2
-
Tính dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu của rừng ngập mặn ven biển miền bắc Việt Nam
6 p | 53 | 2
-
Phát hiện virus gây bệnh thối đen mũ chúa (Black queen cell virus) trên ong mật ở một số tỉnh miền bắc Việt Nam
6 p | 19 | 2
-
Hiện trạng các loài chuột chù răng trắng giống crocidura (mammalia: soricidae) ở miền bắc Việt Nam
6 p | 54 | 2
-
Một số giống Tràm trà giàu Terpinen-4-ol có triển vọng trên một số lập địa tại miền Bắc Việt Nam
6 p | 38 | 2
-
Dẫn liệu về thành phần loài mối (Insecta: Isoptera) gây hại một số công trình di tích ở miền Bắc Việt Nam và hiệu quả phòng trừ
7 p | 76 | 2
-
So sánh độ chính xác dị thường độ cao mô hình trọng trường trái đất SGG - UGM - 2 và EGM 2008 khu vực miền Bắc Việt Nam
12 p | 24 | 2
-
Phân tích định lượng các chỉ số đa dạng sinh học và phân bố của thảm thực vật thân gỗ rừng ngập mặn ven biển miền Bắc Việt Nam
8 p | 76 | 1
-
Đặc tính sinh học và sinh học phân tử của chủng virus dịch tả lợn châu phi phân lập được tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
9 p | 36 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn