Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm quyền con người
lượt xem 16
download
Tiêu chuẩn quốc tế và mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước trên thế giới 1.1. Khái niệm và các tiêu chuẩn quốc tế về cơ quan quốc gia về nhân quyền Mặc dù, đã tồn tại các tiêu chuẩn quốc tế về vị trí của cơ quan quốc gia về nhân quyền, nhưng rất khó để đi đến một định nghĩa hay có được một cách hiểu thống nhất “cơ quan quốc gia về nhân quyền là gì?”. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm quyền con người
- Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm quyền con người
- 1. Tiêu chuẩn quốc tế và mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước trên thế giới 1.1. Khái niệm và các tiêu chuẩn quốc tế về cơ quan quốc gia về nhân quyền Mặc dù, đã tồn tại các tiêu chuẩn quốc tế về vị trí của cơ quan quốc gia về nhân quyền, nhưng rất khó để đi đến một định nghĩa hay có được một cách hiểu thống nhất “cơ quan quốc gia về nhân quyền là gì?”. Trong khuôn khổ khái niệm liên quan tới các hoạt động đầu tiên của Liên hợp quốc trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, hiểu cơ quan quốc gia về nhân quyền là bất kỳ một cơ quan nào, ở cấp độ quốc gia có mức độ ảnh hưởng /tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc thúc đẩy, và bảo vệ quyền con người. Theo đó, cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan trợ giúp pháp lý và các cơ quan phúc lợi xã hội, đều được xem xét, lưu ý bình đẳng so với các uỷ ban quốc gia, văn phòng cơ quan thanh tra hay các thể chế tương tự khác, vì đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến bảo vệ, thúc đẩy quyền con người. Do tính chất và công thức áp dụng, cũng như cách hiểu về cơ quan nhân quyền như trên là rất rộng, nên cần thiết phải thu hẹp phạm vi, dựa trên chức năng hay mô hình phổ biến, trong đó đặc biệt nhấn mạnh cơ quan thực hiện chức năng liên quan trực tiếp tới các hoạt động giáo dục và thúc đẩy nhân quyền; tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề nhân quyền, điều tra và xem xét các khiếu nại liên quan tới vi phạm nhân
- quyền, do các thực thể cả công và tư gây ra. Tuy vậy, với cách hiểu theo hướng tiếp cận dựa trên chức năng để loại trừ các thể chế như cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp hay các tổ chức phúc lợi xã hội vẫn chưa thể đi đến một định nghĩa hay xác định theo cách hiểu tốt nhất cơ quan quốc gia về thúc đẩy, bảo vệ nhân quyền. Chính vì thế, một Hội thảo quốc tế đầu tiên về thể chế quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền đã được triệu tập tại thủ đô Pari từ ngày 7- 9/10/1991 và đã thông qua các Nguyên tắc Pari. Các nguyên tắc này sau đó được Uỷ ban Nhân quyền thông qua theo Nghị quyết 1992/54 và được Đại hội đồng LHQ chính thức thông qua theo Nghị quyết 48/134 năm 1993. Các Nguyên tắc Pari liên quan tới quy chế và chức năng của cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền đã liệt kê một loạt các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quốc gia (2). Đó là: - Đệ trình các khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về các vấn đề liên quan đến nhân quyền lên Chính phủ, Quốc hội hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác của Nhà nước; - Thúc đẩy, đảm bảo sự hài hoà của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế; - Nhận và xem xét đơn khiếu nại, tố cáo của cá nhân, công dân về các vụ vi phạm quyền con người;
- - Khuyến khích việc phê chuẩn, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người; - Thúc đẩy nhận thức chung về nhân quyền thông qua việc phổ biến thông tin, giáo dục, tuyên truyền và thực hiện các chương trình nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về quyền con người; - Hợp tác với cơ quan nhân quyền của Liên hợp quốc, tổ chức nhân quyền của quốc gia khác và các tổ chức nhân quyền phi chính phủ. Nguyên tắc cũng công nhận một số các cơ quan quốc gia có thẩm quyền được nhận và xem xét các khiếu nại cá nhân về các vụ vi phạm nhân quyền. Nguyên tắc quy định chức năng của cơ quan quốc gia trong lĩnh vực này dựa vào các cơ sở sau đây: - Tìm kiếm cách giải quyết vấn đề một cách thân tình thông qua trung gian, hoà giải, quyết định ràng buộc trách nhiệm và các phương tiện khác; - Thông tin cho người khiếu nại về các quyền và các phương tiện bồi thường sẵn có, thúc đẩy tiếp cận sự khôi phục thiệt hại; - Xem xét các khiếu nại và chỉ dẫn họ đến cơ quan có thẩm quyền; - Ra khuyến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm cả việc đề xuất sửa đổi pháp luật, các quy định, hay các thực tiễn hành chính mà làm tổn hại đến thực hiện quyền của cá nhân.
- Các Nguyên tắc cũng bao gồm các hướng dẫn chi tiết về thành phần của các cơ quan quốc gia về nhân quyền và việc bổ nhiệm các thành viên, bảo đảm tính độc lập và phương pháp hoạt động. Theo đó, tiêu chuẩn chung của cơ quan quốc gia về nhân quyền là bảo đảm (3): - Độc lập, được đảm bảo bằng hiến pháp hoặc đạo luật; - Độc lập với Chính phủ; - Đa nguyên, gồm cả thành viên; - Có nhiệm vụ rộng dựa trên các tiêu chuẩn nhân quyền phổ biến; - Có quyền hạn tối thiểu trong việc điều tra vi phạm nhân quyền; - Có nguồn tài chính đủ cho hoạt động độc lập. 1.2. Mô hình bộ máy nhân quyền của một số nước trên thế giới Thể chế /cơ quan quốc gia về nhân quyền (National human rights institutions - NHRIs) là các cơ quan hành chính được thiết lập nhằm mục đích bảo vệ và giám sát việc thực hiện luật pháp quốc gia và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong phạm vi quốc gia. Xu thế chung trên thế giới hiện nay, bên cạnh hệ thống cơ quan tư pháp, cụ thể là hệ thống toà án với chức năng xét xử các vụ án, bảo vệ quyền tự do của cá nhân, công dân đang hình thành cơ quan quốc gia về nhân quyền. Hiện nay có khoảng 119 nước trên thế giới đã thiết lập các cơ quan như vậy, mặc dù không phải nước nào cũng áp dụng đầy đủ các
- chuẩn mực được quy định trong Các nguyên tắc Pari về vị trí của cơ quan quốc gia về nhân quyền năm 1993. Các cơ quan quốc gia về quyền con người có thể phân thành hai nhóm cơ quan chính. Đó là: Uỷ ban Nhân quyền và Cơ quan thanh tra Quốc hội. Sự khác nhau giữa hai mô hình này, là ở chỗ, Cơ quan thanh tra được xây dựng dựa trên tư cách cá nhân, một người, thì Uỷ ban Nhân quyền là đại diện nhiều thành viên, đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau. Các cơ quan này, được thiết lập để xem xét, giải quyết các vấn đề khác nhau liên quan tới phân biệt đối xử, vi phạm nhân quyền... Mặc dù, trách nhiệm là rộng lớn, tuỳ thuộc mối quan tâm khác nhau ở mỗi nước. Song song với hai mô hình trên, các tổ chức chuyên biệt cũng tồn tại ở nhiều nước để bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như bảo vệ quyền của nhóm dân tộc thiểu số, người bản địa, trẻ em, phụ nữ, người tỵ nạn... 1.2.1. Mô hình Thanh tra Quốc hội: Tên tiếng Anh: Parliamentary Ombudsman, là mô hình phổ biến ở các nước Bắc Âu và châu Mỹ, có nguồn gốc từ Thuỵ Điển, được thành lập từ năm 1809 và sau đó phát triển rộng sang các nước như Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Canada. Hiện nay có khoảng 60 nước trên thế giới đã thành lập cơ quan Thanh tra Quốc hội. Thanh tra Quốc hội là một tổ chức do Quốc hội thành lập, nhưng hoạt động độc lập với tất cả các cơ quan nhà nước, chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về toàn bộ hoạt động của mình. Chức năng, nhiệm vụ
- chính của cơ quan thanh tra là: giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và Toà án trong việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật, đảm bảo tính khách quan, công bằng, bảo đảm quyền của công dân không bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ quan nhà nước. Giám sát hoạt động của Chính phủ, Thanh tra Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với các Bộ trưởng, các viên chức nhà nước và những người làm việc trong cơ quan hành chính, người có trách nhiệm thực thi công vụ trong cơ quan thực hiện lợi ích công cộng của chính quyền địa phương. Đối với Toà án có thẩm quyền xét xử độc lập, Thanh tra Quốc hội không can thiệp vào hoạt động xét xử của Toà án, nhưng lại có quyền giám sát việc chấp hành pháp luật và thực thi chức trách công vụ của các Thẩm phán và nhân viên Toà án. Ngoài việc thực hiện thẩm quyền giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và Toà án, Thanh tra Quốc hội còn thực hiện chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân - một hoạt động chủ yếu nhất của Thanh tra - và tiến hành các hoạt động thanh tra đối với trại giam, bệnh viện và một số cơ sở của Nhà nước theo quy định của pháp luật, những nơi có công dân bị tước quyền tự do hoặc có nguy cơ bị đe doạ tước quyền tự do. Khi cần thiết, Thanh tra Quốc hội thực hiện thẩm quyền điều tra xem xét làm rõ vụ việc theo đơn tố giác của công dân, tin tức do báo chí công bố hoặc dư luận xã hội. Nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm, Thanh tra viên Quốc hội có quyền tiến hành điều tra sơ bộ, tự mình khởi tố vụ án hình sự, đề nghị cơ quan công tố truy tố trước pháp luật.
- Để đảm bảo hoạt động của cơ quan Thanh tra có hiệu lực và hiệu quả, khẳng định tính trung thực, khách quan và minh bạch trong việc giải quyết vụ việc, pháp luật của đa số các nước quy định tính chất phi đảng phái chính trị trong hoạt động thanh tra. Tổ chức của Thanh tra có cơ cấu gọn nhẹ khoảng từ 4 - 6 thanh tra viên, gồm có Chủ tịch Thanh tra Quốc hội và các thanh tra viên do Quốc hội bầu theo nhiệm kỳ nhất định, dài hay ngắn tuỳ thuộc vào mỗi nước, nhưng thông thường khoảng 4 năm. Thanh tra viên Quốc hội phải là người có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức và nghiệp vụ cao, có kiến thức pháp luật, am hiểu thực tiễn, có thâm niên công tác trong hoạt động pháp luật như đã là thẩm phán Toà án tối cao, đã là luật sư hoặc đã công tác ở một số cơ quan hành chính nhà nước. Thanh tra Quốc hội là cơ quan của Quốc hội do Quốc hội thành lập, thực hiện quyền giám sát tối cao của cơ quan dân cử - cơ quan quyền lực Nhà nước. Hoạt động của Thanh tra dựa trên nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sức ép, tác động và ảnh hưởng của bất cứ cá nhân, cơ quan nhà nước nào, kể cả Quốc hội cũng không được can thiệp vào hoạt động của Thanh tra. Quyền hạn của Thanh tra bắt nguồn từ quyền lực của Quốc hội, hoạt động thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và thực hiện quyền thanh tra, điều tra theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Mô hình ủy ban Nhân quyền:
- Tên tiếng Anh: Commission on Human rights, là tổ chức, so với mô hình Thanh tra Quốc hội ra đời muộn hơn, vào khoảng giữa thập kỷ 80 trở lại đây. Tuy nhiên, cũng giống như Thanh tra Quốc hội, Uỷ ban quốc gia về Nhân quyền do Quốc hội thành lập bằng một đạo luật riêng hoặc được quy định ngay trong hiến pháp hoặc cả hiến pháp và luật. Mô hình này đã phát triển nhiều ở các nước châu á như: úc, ấn Độ, Inđônêxia, Nêpal, New Zealand, Philipin, Sri Lanka, Fiji, Mông Cổ, Hàn Quốc, Malayxia, Thái Lan. Gần đây một số nước cũng đã nghiên cứu và thành lập cơ chế nhân quyền theo kiểu này như Bănglađét, Papua New Guinea, Vương quốc Anh... Chức năng và nhiệm vụ của ủy ban nhân quyền ở mỗi nước có những điểm khác nhau, nhưng nhìn tổng quát, Uỷ ban có những điểm chung là thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về các chuẩn mực quốc tế và cả các quy định của quốc gia về quyền con người ở các cấp độ trong nước và khu vực; khuyến nghị với Chính phủ, các cơ quan Chính phủ về chính sách, pháp luật liên quan đến quyền con người, các vấn đề ảnh hưởng đến việc tuân thủ nhân quyền; khuyến nghị Chính phủ tích cực tham gia phê chuẩn và gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền; hợp tác với các tổ chức nhân quyền của Liên hợp quốc, tổ chức nhân quyền khu vực và tổ chức nhân quyền của quốc gia khác; tiến hành các chương trình nghiên cứu, khảo sát thực tế về nhân quyền; giám sát thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia đã phê chuẩn hay gia nhập; đồng thời tích cực tham gia các hoạt động điều tra vi phạm
- nhân quyền; nhận, xem xét và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của cá nhân; giám sát hoạt động giam giữ ở trại giam. So với mô hình Thanh tra Quốc hội, cơ cấu bộ máy của Uỷ ban Nhân quyền thường lớn hơn, tương đương một bộ trong cơ quan nhà nước. Trong tổ chức của Uỷ ban có các bộ phận cấu thành như có thể có các tiểu ban đặc trách về một vấn đề nào đó, chẳng hạn Uỷ ban Nhân quyền của Inđônêxia có đến ba Tiểu ban: Tiểu ban Giáo dục và Nhận thức Công chúng về Nhân quyền, Tiểu ban Giám sát Công ước quốc tế về Nhân quyền, Tiểu ban Giám sát Thực hiện Nhân quyền; ngoài ra, Uỷ ban của một số nước có các bộ phận chuyên trách như về dân tộc thiểu số, về phụ nữ, trẻ em, người bản xứ, nhập cư... Do tính chất hoạt động của Uỷ ban đòi hỏi tính hiệu quả, nên tiêu chuẩn thành viên của Uỷ ban, cũng giống thanh tra viên Quốc hội phải là những người có phẩm chất, chuyên môn cao, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, nhất là kinh nghiệm, kiến thức về pháp luật và quyền con người, nên Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban thường đã là Chánh án hoặc Thẩm phán Toà án tối cao, Toà án cao cấp. Ví dụ ở ấn Độ, Chủ tịch Uỷ ban phải là Chánh toà Tư pháp của Toà án tối cao, các thành viên phải là thẩm phán của Toà án tối cao hoặc Chánh toà Tư pháp của Toà cao cấp. Hoạt động của Uỷ ban được đảm bảo theo hiến pháp và luật, để tạo sự độc lập với cơ quan của Chính phủ và Toà án. Chủ tịch và các thành viên chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
- 1.2.3. Mô hình Trung tâm Nhân quyền (Centre for Human rights) hay Viện Nhân quyền (Inntitute For Human Rights) Ngoài hai mô hình chính là Uỷ ban Nhân quyền và Thanh tra Quốc hội, còn có cơ quan với tên gọi khác là Trung tâm Nhân quyền hay Viện Nhân quyền. So với mô hình Thanh tra Quốc hội hay Uỷ ban về Nhân quyền, mô hình Trung tâm nhân quyền hay Viện Nhân quyền được thành lập theo một đạo luật do Quốc hội ban hành, đến nay không nhiều, mà mô hình Trung tâm Nhân quyền chủ yếu là tổ chức phi chính phủ, thường được thành lập trong trường đại học hoặc viện nghiên cứu. Hiện có Trung tâm Nhân quyền Đan Mạch, được thành lập trên cơ sở một đạo luật do Quốc hội Đan Mạch ban hành với chức năng chủ yếu là nghiên cứu, khảo sát, giáo dục và thông tin nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về nhân quyền, mà không có chức năng thanh tra, giám sát Chính phủ, hoạt động xét xử của Toà án; nhận, xem xét và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của cá nhân, vì chức năng này ở Đan Mạch được giao cho Thanh tra Quốc hội. Trung tâm Nhân quyền Đan Mạch hoạt động từ năm 1987 đến tháng 7/2002, do có sự thay đổi về chính trị nên nhiệm vụ của Trung tâm bị thu hẹp hơn và được đổi tên thành Viện Nhân quyền trực thuộc Trung tâm Nhân quyền và Các vấn đề Đối ngoại. Một số nước ở Bắc Âu thành lập Trung tâm Nhân quyền, như Trung tâm Nhân quyền Na Uy, thuộc Đại học tổng hợp Oslo hay Viện Raoul
- Wallenberg về Nhân quyền và Luật Nhân đạo, thuộc Đại học Lund, Thuỵ Điển. 1.2.4. Các cơ quan chuyên trách Các cơ quan chuyên trách thường tập trung vào bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Tất nhiên các nhóm xã hội này là khác nhau ở mỗi nước, nhưng có một đặc điểm chung là họ thường bị phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về giới tính, dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, quốc tịch... Các tổ chức chuyên môn này được thiết lập để thúc đẩy các chính sách của Chính phủ có liên quan tới lợi ích của nhóm xã hội cụ thể. Tại hầu hết các nước trên thế giới, các tổ chức này đều hoạt động với chức năng tương tự như Uỷ ban nhân quyền. Họ cũng được giao những thẩm quyền cụ thể để điều tra các vụ vi phạm nhân quyền, liên quan tới phân biệt đối xử đối với thành viên của nhóm xã hội dễ bị tổn thương; và cũng như các cơ quan nhân quyền khác, họ ra khuyến nghị đối với cơ quan có thẩm quyền của quốc gia. Dù tên gọi có khác nhau, phản ánh sự đa dạng về trình độ phát triển của nền kinh tế, hệ thống chính trị, văn hoá, xã hội cũng như ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của dân chúng ở mỗi nước, nhưng nhìn chung, các tổ chức nhân quyền được thành lập là nằm trong cơ chế quốc gia nhằm bảo vệ, thúc đẩy các giá trị của tự do, dân chủ và quyền con người. Cơ chế bộ máy nhân quyền quốc gia được thành lập, không thể thay thế vai trò của Toà án, cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan
- của Quốc hội và cơ quan của Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội hay tổ chức phi chính phủ mà trái lại, nó giúp cho sự hoàn thiện của các cơ quan này bằng việc phối hợp, đảm bảo cho các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao hơn ý thức trách nhiệm trong hoạt động công vụ, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm quyền và các lợi ích hợp pháp của người dân từ phía cơ quan công quyền. Từ tiêu chuẩn, mô hình cơ quan quốc gia về nhân quyền ở một số nước trên thế giới, như đã phân tích ở trên có thể rút ra những đặc điểm của cơ quan quốc gia về nhân quyền. Đó là: Cơ quan quốc gia về nhân quyền phần lớn đều do Nghị viện thành lập, đảm bảo sự độc lập trong hoạt động với cơ quan hành pháp và tư pháp, có chức năng giám sát liên tục hoạt động của Chính phủ, có quy chế hoạt động riêng được quy định trong hiến pháp hay một đạo luật do Quốc hội ban hành. 2. Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở nước ta được quy định trong Hiến pháp và luật. Đảm bảo thực hiện các quyền hiến định và luật định, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Quyền con người được đảm bảo thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước đo của nền dân chủ, văn minh, của tự do và tiến bộ xã hội; qua đó thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của Nhà nước. Thực tiễn Việt Nam và
- kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng, bên cạnh hệ thống pháp luật tiến bộ, đòi hỏi phải có một cơ chế phối hợp rất đồng bộ giữa tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và chính cá nhân, công dân cũng phải biết tự mình bảo vệ các quyền của mình, đó là cơ sở để quyền con người được đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên, ứng với các tiêu chuẩn quốc tế như đã phân tích, ở nước ta hiện nay chưa có một cơ quan chuyên trách bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người như mô hình của một số nước trên thế giới. Do vậy, nghiên cứu cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chính là làm rõ và tăng cường hơn nữa hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước (cả cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp) tiến tới nghiên cứu thiết lập cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong tương lai là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, nhưng nhân dân không thực hiện quyền lực nhà nước trực tiếp mà quyền lực lại được uỷ thác tập trung thống nhất ở Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X khẳng định rất rõ mục tiêu nhất quán của Đảng ta là: chăm lo cho con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền tự do của công dân và theo đuổi xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Nhà nước pháp quyền Việt nam, trong thiết kế tổ chức bộ máy áp dụng nguyên tắc tập quyền XHCN, nhưng có sự tiếp thu những nhân tố hợp lý của học thuyết phân quyền. Nghĩa là, quyền lực nhà nước thống nhất ở Quốc hội, nhưng Quốc hội không phải là toàn quyền mà chỉ nắm quyền lực lập hiến và lập pháp; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; còn thẩm quyền quản lý tất cả các lĩnh vực thuộc về đối nội và đối ngoại được giao cho Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; thẩm quyền công tố được giao cho Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là cơ quan kiểm sát giữ quyền buộc tội và kiểm sát hoạt động tư pháp; thẩm quyền xét xử được giao cho Toà án nhân dân với tư cách là cơ quan xét xử của Nhà nước Việt Nam. Và như vậy, xây dựng cơ chế đảm bảo quyền con người ở nước ta không thể không làm rõ sự phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ của cả ba nhánh quyền lực nhà nước này với bốn cơ quan kiến tạo thành bộ máy Nhà nước ta. 2.1. Vai trò của Quốc hội trong việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người Quốc hội ở nước ta được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoạt động của Quốc hội là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước, do đó Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người. Với chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật. Quyền con
- người, quyền công dân là một trong những nội dung quan trọng cấu thành Hiến pháp và luật. Trong mối quan hệ này, có thể nói xây dựng Hiến pháp và luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân, vì không có pháp luật thì không có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người, và do vậy, hoạt động lập hiến và lập pháp là cơ sở ban đầu, tiền đề cho các hoạt động đảm bảo quyền con người tiếp theo của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và của chính cá nhân, công dân. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân theo hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Các cơ quan quan trọng khác của bộ máy nhà nước như Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo hoạt động công tác của mình trước Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp thì Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực của Quốc hội - giữa hai kỳ họp. Bên cạnh đó, Quốc hội còn thực hiện quyền quyết định về các vấn đề quan trọng khác của đất nước như chiến tranh, hoà bình; tình trạng khẩn cấp; chính sách phát triển kinh tế, xã hội; chính sách dân tộc và tôn giáo; quyết định các công trình quan trọng của đất nước; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế v.v.. Đây là những vấn đề lớn, hệ trọng có liên quan trực tiếp tới quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Vì
- vậy, tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong việc đảm bảo quyền con người chính là dân chủ hoá hoạt động của Quốc hội; làm cho Quốc hội có thực quyền hơn nữa. Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành luật, đảm bảo sự tham gia nhiều hơn của nhân dân trong quá trình soạn thảo và thông qua luật. Nâng cao vị thế của Quốc hội và nhất là trong điều kiện Quốc hội không họp thường xuyên thì cần tăng cường vai trò của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội trong sáng quyền lập pháp; giám sát hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; đặc biệt tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong giám sát hoạt động tư pháp và tiếp nhận, giải quyết kịp thời, nhanh chóng đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Quốc hội. Đối với các vấn đề quan trọng của đất nước được Quốc hội quyết định, trong khi chưa thể đưa ra lấy ý kiến của nhân dân hay tiến tới tổ chức trưng cầu dân ý thì đòi hỏi phải thận trọng, suy xét kỹ lưỡng trước khi thông qua theo một quy trình chặt chẽ. Tăng cường cơ chế Quốc hội trong việc đảm bảo quyền con người hiện nay đặt ra nhu cầu cần nghiên cứu kinh nghiệm mô hình Quốc hội của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Nên chăng, nghiên cứu thành lập mô hình cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombusdman) nhằm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri hoặc nghiên cứu có thể thành lập Uỷ ban Nhân quyền trực thuộc Quốc hội để giải quyết các vấn đề về nhân quyền...
- 2.2. Vai trò của Chính phủ trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người Là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc đảm bảo, thúc đẩy và phát triển quyền tự do dân chủ của công dân. Trong điều kiện hiện nay, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan bộ máy hành chính đảm bảo tinh gọn, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, mà một trong những yêu cầu đặt ra là bộ máy hoạt động của Chính phủ phải trong sạch, hoạt động công khai, minh bạch, hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch và sách nhiễu nhân dân. Làm được điều đó đòi hỏi tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, loại bỏ những thủ tục phiền hà trong các khâu như xin phép, cấp phép. Tiến tới hành chính nhà nước là phục vụ nhân dân chứ không phải là hành dân, nhân dân xin Nhà nước. Đẩy mạnh và mở rộng các dịch vụ hành chính công và giảm dần việc Nhà nước ôm đồm tất cả mọi việc. Nghiên cứu những vấn đề mà nhân dân có thể tự quản lý được thì chuyển giao cho nhân dân thông qua các tổ chức chính trị, xã hội; tổ chức xã hội, nghề nghiệp mà không cần thiết Nhà nước phải quản lý; đồng thời một trong những vấn đề không kém phần quan trọng nếu không nói là có tính quyết định đến toàn bộ hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan công quyền đó là đội ngũ cán bộ, công chức.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tận tâm phục vụ nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với vấn đề bảo vệ quyền con người. Cán bộ công quyền vừa là người thay mặt cho Nhà nước bảo vệ quyền tự do của nhân dân, nhưng trên thực tế, trong quá trình thực hiện công vụ lại là người dễ xâm phạm quyền tự do của nhân dân. Do vậy, một đội ngũ cán bộ có năng lực, có phẩm chất đạo đức, thực hiện nhiệm vụ biết vì dân là yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đặt ra yêu cầu trách nhiệm công vụ. Quan chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định. Ngoài những quy định của pháp luật, quan chức nhà nước không được phép làm, kể cả những việc mà pháp luật chưa quy định, ngược lại công dân có quyền được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, mở ra chân trời rộng lớn cho quyền tự do của nhân dân. Xây dựng trách nhiệm công vụ đối với cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước nhằm giảm thiểu nguy cơ xâm hại quyền tự do của nhân dân đòi hỏi trong tất cả các hoạt động của cơ quan công quyền phải minh bạch, công khai hoá (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia). Trong thời điểm hiện tại, thực hiện thật tốt Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước đang đặt ra cấp bách hiện nay. Tình trạng mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan chính là mất dân chủ, không thực hiện chế độ minh bạch, không công khai hoá. Bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin về các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, chế độ công vụ và trách nhiệm công vụ phải được xác định rõ ràng,
- cả về trách nhiệm và quyền hạn; đồng thời xây dựng tính chịu trách nhiệm đối với những hành vi sai trái xâm hại quyền tự do dân chủ của công dân với những chế tài thích đáng. Xây dựng cơ chế kiểm tra theo quy chế cơ quan. Đòi hỏi kể cả cán bộ cao nhất của cơ quan cũng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cán bộ trong chính cơ quan mình. Cần thiết xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát trong nội bộ cơ quan. Nghiên cứu áp dụng thí điểm mô hình quản lý cán bộ thông qua công việc ở một số cơ quan thích hợp. Lấy hiệu quả công việc là thước đo trình độ chuyên môn, nghề nghiệp; không nhất thiết quản lý cán bộ theo giờ hành chính. Đảm bảo hoàn thành công vụ là mục tiêu phấn đấu của cán bộ, công chức. Có thể sử dụng nhiều phương pháp, công cụ khác nhau để đánh giá mức độ hoàn thành công việc. Chẳng hạn dùng phương pháp định lượng hay định tính tuỳ tính chất công việc của mỗi cơ quan; qua đó là cơ sở, tiêu chuẩn để đánh giá, sắp xếp, bố trí cán bộ đúng vị trí. Và đó cũng là cơ sở để nâng lương, nâng ngạch, nhằm giảm thiểu mục tiêu phấn đấu là chức vụ, quyền hạn và tư tưởng dậm chân tại chỗ hay “đến hẹn lại lên”. 2.3. Vai trò của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người (4)”. Việc nhấn mạnh vai trò của cơ quan tư pháp đối với việc bảo vệ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình - Luật cạnh tranh- chương 6
26 p | 339 | 112
-
Một số mô hình cung ứng hàng hoá, dịch vụ công và kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam
24 p | 222 | 60
-
Mấy biện pháp tăng cường hợp tác quốc tế bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mớ
8 p | 182 | 44
-
Mô hình Tập đoàn đại học Quốc gia của Nhật Bản và mô hình Đại học Quốc gia theo Dự thảo Luật giáo dục Đại học Việt Nam
10 p | 136 | 19
-
Nghiên cứu khám phá các nhân tố tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
11 p | 113 | 17
-
Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II)
24 p | 103 | 13
-
Khái quát về Nhà nước Chủ nghĩa xã hội Việt Nam
23 p | 118 | 12
-
Cơ quan nhân quyền quốc gia: Mô hình chương trình thách thức và giải pháp
57 p | 95 | 10
-
Kinh nghiệm về mô hình tổ chức bộ máy liên kết vùng ở Mỹ và Hàn Quốc: Bài học đối với Việt Nam
9 p | 111 | 9
-
Hợp tác Nhà nước - DN: Phải có lợi cho số đông
3 p | 99 | 7
-
Tổ chức bộ máy chính phủ một số nước và kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo
10 p | 39 | 4
-
Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và những gợi ý cho Việt Nam
10 p | 52 | 3
-
Bộ luật lao động (sửa đổi) cần quy định về xây dựng cơ quan hòa giải tranh chấp lao động quốc gia
7 p | 34 | 3
-
Quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể tại các doanh nghiệp FDI ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay – thực trạng và khuyến nghị
13 p | 40 | 3
-
Chính quyền mở và sự tham gia của người dân vào quản lí nhà nước
9 p | 30 | 2
-
Các quy định cơ bản về quyền tư pháp trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
18 p | 87 | 1
-
Yếu tố ảnh hưởng đến sự gắn kết của người lao động với tổ chức công đoàn cơ sở tại Việt Nam trong bối cảnh thực hiện các Hiệp định tự do thế hệ mới: Nghiên cứu trường hợp doanh nghiệp may
15 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn