M nhưng không d
C th là “xem xét, cho phép t chức tín dụng nước ngoài mua lại, sáp nhập t
chức tín dụng yếu kém của Việt Nam và tăng gii hạn s hữu c phần của t chức
tín dụng nước ngoài tại các ngân hàng thương mại c phần yếu kém”. Đây
hướng giải quyết được xem là đỡ được gánh nặng chi phí cho Nhà nước, nhưng
theo những người trong ngành thì không d thực hiện.
hướng m
Trong những năm qua, nhiều nhà đầu nước ngoài có ý định đầu vào lĩnh vực
ngân hàng Việt Namđều t ra ngán ngại trước giới hạn v t l s hữu c phần
dành cho nước ngoài (tối đa 30% vốn điều lệ). Và một c đông chiến lược nước
ngoài cũng ch được nắm không quá 20% c phần của một ngân hàng trong nước.
Vì vậy lời hứa cho tăng t l s hữu của t chức tín dụng nước ngoài tại các ngân
hàng Việt Nam là điều mong ch của các t chức tín dụng ớc ngoài.
H s hội thâm nhập th trường tài chính Việt Nam nhanh hơn vì có th
được nâng mức s hữu vốn nước ngoài cao hơn mức 20% hiện nay và s hữu
mạng lưới chi nhánh sẵn của các t chức tín dụng yếu kém. Th trường tài chính
cũng được lành mạnh hóa nhanh hơn, khi các t chức tín dụng nước ngoài với
nguồn vốn, công ngh và kinh nghiệm quảns giúp các t chức tín dụng yếu
kém cải t nhanh và hiệu qu n.
Ông Hải cho rằng theo tập quán trên th trường quốc tế, khi mua các t chức tín
dụng yếu kém, các t chức đều muốn mua c phần để tr thành c đông lớn nhất
(thậm chí c đông duy nhất) để có th nắm quyền điều hành, đưa người vào các v
trí quản lý quan trọng nhằm tái cấu t chức đó, điều chỉnh hoặc thay đổi chiến
lược kinh doanh... Vì vậy, khi trần t l s hữu vốn của nhà đầu chiến lược
nước ngoài được nâng lên, các t chức tín dụng ớc ngoài s có quan tâm nhiều
hơn đối với các t chức tín dụng trong nước.
Nếu như các qu đầu v rất dè dặt với s không minh bạch của các ngân
hàng yếu Việt Nam, thì các ngân hàng nước ngoài lại quan m nhiều đến các
vấn đề khác như giấy phép thành lập, mạng lưới, khách hàng… ch không ch qua
báo cáo tài chính hay những con số, vì vậy vẫn s có các ngân hàng nước ngoài
muốn đầu vào ngân hàng yếu của Việt Nam.
Còn theo phó tổng giám đốc một ngân hàng c phần tại TPHCM quy định này
đang m ra một hướng đi cho ngân hàng yếu. Đó là h có th suy nghĩ đến việc
bán bt một s lượng c phần lớn cho các t chức tín dụng nước ngoài. Xem như
chuyển “một m bòng bong” cho đối tác mới giải quyết, vì tình hình hiện tại của
h đã quá khó, phải nhn tái cấp vốn liên tục, phải chịu s giám sát khắt khe của
Ngân hàng Nhà nước. “H có mời gọi được hay không thì chưa biết nhưng cũng
xem như còn một hướng đi khác ngoài việc ngồi ch kế hoạch sáp nhập của Ngân
hàng Nhà nước”, v này nói thêm.
Chưa th mừng vội
Chuyên gia tài chính Lê Xuân Nghĩa cho rằng s không d dàng gì để kêu gọi
được nhà đầu nước ngoài mua c phần của các ngân hàng yếu. Vì lẽ, một trong
các vấn đề ln nhất hiện nay của các ngân hàng yếu chính là n xấu. “Có nhiều
ngân hàng n xấu ợt luôn vốn ch s hữu, vốn điều l thì ngân hàng nước ngoài
h mua v làm gì?”, ông Nghĩa nói. Ông cho rng các nước, thường thì chính
ph s b tiền mua c phần của ngân hàng, rồi nắm quyền kiểm soát, sau khi làm
ănlãi tr lại thì s bán ra cho các nhà đầu tư, ch không th kêu gọi h b tiền
ra mua trong khi tình hình tài chính của các ngân hàng đã quá t hại.
cho rằng trong khi bản thân những người trong cuộc còn chưa thấy cửa ra thì dù
quy định cho phép tăng t l s hữu, chắc chắn người ngoài cuộc cũng không dám
nhảy vào, nhấtđối với nhà đầu nước ngoài thường muốn mua c phiếu để tr
thành c đông chiến lược. Ông cho biết, nhiều ngân hàng không b đưa vào
nhóm yếu kém hiện cũng không d đàm phán để bán bớt c phần thì việc t chức
tín dụng nước ngoài mua c phần của các ngân hàng yếu kém là rất khó.
. Vì vậy, nhà đầu ớc ngoài thiếu s tin tưởng các ngân hàng Việt Nam, h t
hỏi không biết chuyệnđang xảy ra bên trong các ngân hàng. Nhiều khi mua
phải các ngân hàng mà cách làm ăn, h thống quản lý, tài sản…