intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối liên quan giữa hành vi tình dục và nguy cơ các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ở nam giới

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

13
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Mối liên quan giữa hành vi tình dục và nguy cơ các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ở nam giới phân tích các ảnh hưởng của thói quen và hành vi tình dục đến khả năng mắc STDs ở nam giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối liên quan giữa hành vi tình dục và nguy cơ các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ở nam giới

  1. Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 INSTITUTE OF COMMUNITY HEALTH CORRELATION OF SEXUAL BEHAVIORS AND THE RISK OF SEXUAL TRANSMITTED DISEASE IN MEN Vu Thai Hoang1*, Nguyen Hoai Bac2,3, Nguyen Cao Thang3 Military Hospital 175 – 786 Nguyen Kiem, Ward 3, Go Vap, Ho Chi Minh city, Vietnam 1 2 Hanoi Medical University – No.1 Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam 3 Hanoi Medical University Hospital – No.1 Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 10/05/2023 Revised 03/06/2023; Accepted 30/06/2023 ABSTRACT Background: Sexually transmitted diseases (STDs) have been a public health issue in many developing countries, especially in Vietnam. Despite the critical role of sexual behaviors and attitude as the leading cause of increasing the risk of infection, little has been done to understand this problem deeply in Vietnam. Objects: To analyze the impact of sexual behaviors on the risk of sexually transmitted diseases. Subjects and Methods: We conducted a study on 3005 men who presented to the Andrology Clinic of Hanoi Medical University Hospital. Results: The mean age of first intercourse was 21.5 years old. On average, the number of sex- ual partners of our subjects was 2,91 ± 2,83. The overall rate of STDs was 9.95%, in which the proportion of STDs was higher in the single men group than the married group (11.8% vs. 7.5%) and men having first intercourse before 25 years old compared with their counterpart (21.1% vs. 13.2%). Conclusions: Subjects with multiple unstable sexual partners were 2.1 times more likely to be infected with STDs, and the risk of infecting STDs will rise 6% for each additional sex partner. From all the above, we recommend sex education and safe sex propaganda should be mandatory for public health to prevent spreading STDs. Key word: Age of first intercourse, STDs, sexual partners. *Corressponding author Email address: drhoangvt@gmail.com Phone number: (+84) 339009380 85
  2. V.T. Hoang et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 MỐI LIÊN QUAN GIỮA HÀNH VI TÌNH DỤC VÀ NGUY CƠ CÁC BỆNH LÂY NHIỄM QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC Ở NAM GIỚI Vũ Thái Hoàng1*, Nguyễn Hoài Bắc2,3, Nguyễn Cao Thắng3 1 Bệnh viện Quân Y 175 – 786 Nguyễn Kiệm, phường 3, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh, Việt Nam 2 Trường Đại học Y Hà Nội – Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 3 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội – Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam Ngày nhận bài: 10/05/2023 Chỉnh sửa ngày: 03/06/2023; Ngày duyệt đăng: 30/06/2023 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STDs) là một trong các bệnh lý phổ biến ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Thái độ và hành vi tình dục không lành mạnh luôn được coi là những là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc các bệnh này. Mục tiêu: Phân tích các ảnh hưởng của thói quen và hành vi tình dục đến khả năng mắc STDs ở nam giới. Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 3005 bệnh nhân được lấy ngẫu nhiên trong số bệnh nhân đến khám tại phòng khám Khoa Nam học và Y Học giới tính, Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội. Kết quả: Độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu của nhóm đối tượng là 21,5 tuổi. Số đối tác quan hệ tình dục ổn định là 2,91 ± 2,83 người, tỉ lệ mắc STDs trong nhóm là 9,95%. Trong đó, tỉ lệ mắc STDs ở nhóm đối tượng còn độc thân cao hơn so với nhóm đối tượng đã có gia đình (11,8% so với 7,5%, p
  3. V.T. Hoang et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 giáo dục giới tính tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Sự nghiệm PCR các vi khuẩn thường lây nhiễm qua đường thiếu hiểu biết về an toàn tình dục cũng như các thói tình dục, soi tươi tìm vi khuẩn và cấy khuẩn làm kháng quen tình dục không lành mạnh có thể trong thời kỳ hội sinh đồ nếu có. nhập đã ảnh hưởng tiêu cực đến nam giới Việt Nam qua các khía cạnh như các bệnh lây truyền qua đường tình 2.3. Xử lý số liệu dục, có thai ngoài ý muốn và kể cả những rối loạn tâm Phần mềm R phiên bản 4.0.2 cho hệ điều hành Win- lý sau đó [2]. dows 10 được dùng để xử lý số liệu trong nghiên cứu Mặc dù có nhiều thay đổi và thách thức đang phải đối này. Tính chuẩn của phân bố được kiểm định bằng thuật mặt hiện tại, các nghiên cứu đánh giá về vấn đề này tại toán Kolmogorov-Smirnov. Sự khác biệt giữa hai nhóm Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Đa phần các nghiên cứu được kiểm định bằng Wilcoxon test với biến định lượng mới chỉ tập trung đánh giá thói quen tình dục cũng như phân bố không chuẩn và bằng Chi squared test với biến tỉ lệ các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở các nhóm định tính. Mô hình hồi quy logistic được dùng để dự đối tượng nguy cơ cao (như gái mại dâm, người đồng đoán khả năng xuất hiện STDs trên các bệnh nhân có tính…). Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Mối yếu tố nhiều đối tác quan hệ, quan hệ tình dục không có liên quan giữa thái độ, hành vi tình dục đối với các bệnh biện pháp bảo vệ. Kết quả được coi là có ý nghĩa thống lây nhiễm qua đường tình dục ở nam giới” nhằm mô tả kê với giá trị p < 0,05. các thay đổi về thói quen và hành vi tình dục dựa trên 2.4. Đạo đức nghiên cứu các yếu tố xã hội, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám đốc bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Các thông tin liên quan đến người tham gia nghiên cứu được đảm bảo bí mật. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu 3. KẾT QUẢ Lấy ngẫu nhiên đối tượng bệnh nhân đến khám tại Qua nghiên cứu trên 3005 bệnh nhân ngẫu nhiên đến phòng khám Nam học Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ khám tại Khoa Nam học và Y học giới tính chúng tôi tháng 1 năm 2020 đến tháng 9 năm 2020. thu được kết quả như sau: tuổi quan hệ tình dục lần đầu Tiêu chuẩn lựa chọn: tiên là 21,5 ± 3,59 tuổi, số đối tác quan hệ tình dục ổn định trung bình là 2,91 ± 2,83 người, tỉ lệ mắc STDs - Nam giới đã quan hệ tình dục có độ tuổi từ 16 đến 60 chiếm 9,95%. tuổi. 3.1. Độ tuổi lần đầu quan hệ tình dục - Khai thác đầy đủ tiền sử các thói quen tình dục và tiền sử mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có hồi cứu. 2.2.2. Quy trình nghiên cứu Đối tượng nam giới đến khám tại phòng khám Nam học Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, sẽ được sàng lọc, phân loại, khai thác thông tin về tiền sử, bệnh sử. Các bệnh nhân được khai thác các thông tin cá nhân theo yếu tố xã hôi, hoạt động – thói quen tình dục của bản thân. Các trường hợp có triệu chứng của hội chứng niệu đạo sẽ được hỏi cụ thể về đối tác quan hệ tình dục, thời gian lần cuối quan hệ, thời gian xuất hiện các triệu chứng của hội chứng niệu đạo như: tiểu buốt, tiểu rắt, cảm giác nóng rát trong niệu đạo, chảy dịch niệu đạo. Nhận xét: Trong nhóm đối tượng thuộc ngành dịch vụ Sau đó bệnh nhân sẽ được chỉ định thực hiện một số có tuổi quan hệ sớm nhất 20,66 ± 3,42 tuổi, ngược lại xét nghiệm cận lâm sàng nhằm phục vụ cho chẩn đoán với nhóm đối tượng là trí thức có tuổi quan hệ muộn và điều trị, các trường hợp nghi ngờ có STDs sẽ được nhất 22,13±3,66 tuổi. lấy dịch ổ loét, dịch niệu đạo hoặc massage tiền liệt tuyến để lấy dịch tiền liệt tuyến, theo đó được làm xét 3.2. Đặc điểm chung của các nhóm đối tượng 87
  4. V.T. Hoang et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 Không Nhận xét: Nhóm đối tượng sinh sau năm 1990 có tỉ Đặc điểm Có STDs p lệ mắc STDs cao hơn nhóm còn lại (54% và 46% với STDs N % N % p=0,074). Tương tự, đối tượng nam giới chưa lập gia đình có tỉ lệ lây nhiễm STDs cao hơn những người đã Năm sinh 0,074 có gia đình (11,8% và 7,5% với p
  5. V.T. Hoang et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 nhóm đối tượng chưa có gia đình số đối tác quan hệ nhân vẫn đang còn chưa thực sự được ủng hộ. ổn định trung bình là 2,75 ± 2,64. Những bệnh nhân có quan hệ tình dục không an toàn (quan hệ với gái mại Tuy vậy, với sự hội nhập quốc tế, những người trẻ được dâm hoặc đối tác quan hệ 1 lần) có tỉ lệ mắc STDs cao tiếp xúc với nhiều nền văn hóa và hệ tư tưởng khác hơn so với nhóm còn lại. nhau dẫn đến một sự thay đổi trong lối sống và quan niệm về tình dục của chính họ. Người trẻ đang có xu 3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng mắc STDs hướng quan hệ tình dục trước hôn nhân nhiều hơn và độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu của họ cũng thấp hơn. Yếu tố OR 95% CI p Các nghiên cứu cho thấy độ tuổi quan hệ tình dục lần Năm sinh đầu giảm sẽ làm gia tăng số lượng bạn tình về sau [4]. Ngoài ta, công tác giáo dục giới tính ở Việt Nam còn rất 1990 0,93 0,7 1,56 các bệnh lây truyền qua đường tình dục ngày càng tăng Tuổi lần đầu quan hệ cao và khó kiểm soát hơn. (năm) =25 0,8 0,58 1,49 nam giới trẻ tuổi và độc thân chưa có sự ràng buộc về Thủ dâm pháp luật và đạo đức xã hội. Chính vì vậy, họ có thể tự 0,52- do thay đổi bạn tình và có sự dễ dãi hơn đối với vấn Có 0,86 0,57 1,46 đề tình dục [7]. Thêm vào đó, nhiều nam giới cho rằng Không 1 việc có nhiều bạn tình càng chứng tỏ bản lĩnh đàn ông. Kết quả của chúng tôi cho thấy có đến 49,3% nam giới Quan hệ với đối tác không ổn định chưa có gia đình có mắc STDs trong khi đó còn số này ở nhóm đã có gia đình là 36,5% với p
  6. V.T. Hoang et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 85-90 với đối tác không ổn định có nguy cơ lây nhiễm STDs estimates and trends from nationally representa- cao gấp 2,1 lần so với nhóm đối tượng không quan hệ tive cross‐sectional surveys of more than 100 tình dục với đối tác không ổn định. Đồng thời chúng 000 women. Acta Obstet Gynecol Scand, 99(2), tôi cũng nhận thấy đối với nam giới cứ thêm 1 đối tác 2020, 175–185. quan hệ tình dục thì nguy cơ lây nhiễm các bệnh STD [10] Kaestle CE, Young Age at First Sexual Inter- lại tăng thêm 6%. course and Sexually Transmitted Infections in Adolescents and Young Adults. American Jour- nal of Epidemiology, 161(8), 2005, 774–780. 5. KẾT LUẬN - Độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu trung bình của nhóm đối tượng được khảo sát là 21,5 tuổi. - Nguy cơ mắc STDs cao thường gặp ở nam giới trẻ tuổi còn độc thân và bắt đầu quan hệ tình dục sớm. Việc quan hệ tình dục với các đối tác không ổn định làm gia tăng nguy cơ mắc STDs thêm 2,1 lần, cứ thêm 1 đối tác QHTD tình dục sẽ làm tăng nguy cơ mắc STDs lên 6%. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] World Health Organization, Report on global sexual transmitted infection surveillance, 2018. [2] Nguyễn Thị Phương Thanh, Đào Anh Sơn, Nguyễn Hữu Đức Anh và cộng sự, Kiến thức, thái độ về các bệnh lây truyền qua đường tình dục của sinh viên đại học tại Hà Nội năm 2019. Tạp chí Nghiên cứu y học 126(2), 2020, 129- 137. [3] Tổng cục thống kê, Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, 2019 . [4] Ku L, Sonenstein FL, Pleck JH, Factors Influ- encing First Intercourse for TeenageMen. 15. Public Health Rep.;108(6), 1993, 680-694. [5] Zhu G, Bosma AK, Early sexual initiation in Eu- rope and its relationship with legislative change: A systematic review. International Journal of Law, Crime and Justice, 57, 70–82, 2019. [6] Vũ Mạnh Lợi, Tình dục trước hôn nhân: nghiên cứu so sánh thanh niên Hà Nội, Thượng Hải, Đài Loan. Tạp chí Xã hội học thực nghiệm, 110(2), 2010, 21-30 [7] Kim S, Lee C, Factors Affecting Sexually Trans- mitted Infections in South Korean High School Students. Public Health Nurs, 33(3), 2016, 179– 188. [8] Brookmeyer KA, Haderxhanaj LT, Hogben M et al., Sexual risk behaviors and STDs among per- sons who inject drugs: A national study. Preven- tive Medicine, 2019, 126, 105779. [9] Hansen BT, Kjær SK, Arnheim‐Dahlström L et al., Age at first intercourse, number of partners and sexually transmitted infection prevalence among Danish, Norwegian and Swedish women: 90
  7. Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 64, Special Issue 6 (2023) 91-97 INSTITUTE OF COMMUNITY HEALTH CASES OF CONGENITAL ADRENAL HYPERPLASIA DIAGNOSED AND TREATED IN VIET DUC UNIVERSITY HOSPITAL IN 2015-2022 Tran Thi Ngoc Anh1*, Nguyen Viet Hoa1, Nguyen Quang1, Tran Thi Chi Mai2 1 Viet Duc University Hospital – 40 Trang Thi, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 2 Vietnam National Children's Hospital – 18/879 La Thanh, Lang Thuong, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 10/05/2023 Revised 25/05/2023; Accepted 26/06/2023 ABSTRACT Congenital adrenal hyperplasia (CAH) is a congenital, genetic disease due to a decrease in adrenal cortisol synthesis that causes an increase in the ACTH secretion of the pituitary gland, which increases the adrenal gland and increases adrenal androgen secretion. CAH is the most common cause of sexual developmental disorders in people with chromosome 46, XX. Subjects: All people diagnosed with CAH at the Vietduc Hospital in the period 2015–2022. Methods: Retrospective clinical descriptive study. Results: 17 people were diagnosed with CAH aged 4 to 26, chromosomes 46, XX, and had symptoms of masculinization ranging from less to more severe, such as clitomegaly, primary amenorrhee, muscle development, uterus and vaginal undevelopment, polycysteovarian, some patients had complete masculinization. Tests have high testosterone and ACTH, normal cortisol, or low cortisol, depending on the time of sampling. Lifelong treatment with hydrocortisone supplements and increased doses during surgery ensure safety for the patient. Conclusion: CAH is the cause of female masculinization, the late treatment of CAH causes amenorrhee and infertility. Keywords: Congenital adrenal hyperplasia, 46, XX, masculinization *Corressponding author Email address: ngocanhbm@gmail.com Phone number: (+84) 904395444 91
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2