intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên trong bầu cử

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

53
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bầu cử, dù theo quy trình nào thì trọng tâm vẫn là mối quan hệ giữa người đi bầu và người được bầu, hay nói cách khác là giữa cử tri và các ứng cử viên. Trong một cuộc bầu cử dân chủ, việc lựa chọn ai phải do cử tri quyết định, quy trình đặt ra cho cuộc bầu cử suy cho cùng là để người dân thực hiện tốt hơn quyền lựa chọn của mình chứ không phải làm hạn chế quyền này của họ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên trong bầu cử

  1. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT MÖËI QUAN HÏå GIÛÄA CÛÃ TRI VAÂ ÛÁNG CÛÃ VIÏN TRONG BÊÌU CÛÃ THái THị THU TraNG* Bầu cử, dù theo quy trình nào thì trọng tâm vẫn là mối quan hệ giữa người đi bầu và người được bầu, hay nói cách khác là giữa cử tri và các ứng cử viên. Trong một cuộc bầu cử dân chủ, việc lựa chọn ai phải do cử tri quyết định, quy trình đặt ra cho cuộc bầu cử suy cho cùng là để người dân thực hiện tốt hơn quyền lựa chọn của mình chứ không phải làm hạn chế quyền này của họ. 1. Bản chất mối quan hệ giữa cử tri và chọn và trao quyền là ai. Còn từ phía ứng cử ứng cử viên viên, họ sẽ có cơ hội để vận động cử tri bỏ Nhà nước dân chủ là nhà nước mà phiếu cho mình. quyền lực thuộc về nhân dân, nhưng nói như 2. Quy định của pháp luật hiện hành về vậy không có nghĩa là cần phải có một mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên “chính phủ toàn dân”1 vì đó là một điều lý Thứ nhất, mối quan hệ giữa cử tri và tưởng. Còn thực tế, người dân phải lựa chọn ứng cử viên trong quá trình hiệp thương những người mà họ tin tưởng rằng, những Theo Nghị quyết liên tịch số người đó có thể sử dụng quyền lực nhà nước 1 1 / 2 0 1 6 / N Q LT / U B T V Q H - C P - để phục vụ cho ý chí, nguyện vọng của nhân ĐCTUBTWMTTQVN ngày 01/02/2016 dân. Bầu cử dân chủ chính là cơ sở đầu tiên của Ủy ban thường vụ Quốc hội để nhân dân thực hiện hình thức dân chủ đại (UBTVQH), Chính phủ và Đoàn Chủ tịch diện. Như vậy, bản chất mối quan hệ giữa Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc cử tri và ứng cử viên trong chế độ bầu cử (MTTQ) Việt Nam về hướng dẫn quy trình dân chủ chính là sự lựa chọn và trao quyền hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại của người dân cho người mà nhân dân tín biểu Quốc hội (ĐBQH) nhiệm kỳ XIV, đại nhiệm. Muốn được như vậy, trong suốt quá biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) nhiệm kỳ trình bầu cử, quan hệ giữa cử tri và ứng cử 2016 - 2021, sau khi hội nghị hiệp thương viên phải thực sự gắn bó, liên hệ chặt chẽ để lần thứ nhất kết thúc, các cơ quan, tổ chức, cử tri thực sự hiểu rõ người mình muốn lựa đơn vị vũ trang đã xác định được số lượng * ThS, Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội. 1 Jonh Stuart Mill, Chính thể đại diện, nguồn: “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới”, tr. 79. NGHIÏN CÛÁU 32 LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
  2. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT người ứng cử được phép giới thiệu, sẽ tổ cử cư trú hoặc có thể cả nơi người ứng cử chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét của cử tri công tác. Cụ thể: về những người được dự kiến giới thiệu ứng - Người ứng cử ĐBQH ở trung ương: cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp. Mặc dù gửi lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú (Khoản 2 giai đoạn này, những người dự kiến được Điều 43 Luật Bầu cử năm 2015); người ứng giới thiệu chưa chính thức là ứng cử viên, cử ĐBQH ở cấp tỉnh: gửi lấy ý kiến cử tri nhưng đây là tiền đề cho mối quan hệ giữa nơi cư trú, đối với người tự ứng cử thì còn cử tri và ứng cử viên. Sự tham gia của cử tri được gửi lấy ý kiến của cử tri nơi người đó ngay từ giai đoạn dự kiến người được giới công tác (Khoản 2 Điều 44 Luật Bầu cử năm thiệu sẽ đảm bảo người được giới thiệu phải 2015). dựa trên sự tín nhiệm của cử tri, tránh việc - Người ứng cử đại biểu HĐND các cấp: giới thiệu mang tính chủ quan, duy ý chí của lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, đối với người tự những chủ thể có thẩm quyền giới thiệu. ứng cử hoặc được thôn, tổ dân phố giới thiệu Theo Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu ứng cử đại biểu HĐND cấp xã thì còn lấy ý HĐND năm 2015 (Luật Bầu cử năm 2015), kiến cử tri nơi người đó công tác (Khoản 2 mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên được Điều 53 Luật Bầu cử năm 2015). hình thành chính thức là giữa vòng hội nghị Số lượng cử tri tham dự Hội nghị được hiệp thương lần thứ hai và hội nghị hiệp quy định chi tiết tại Nghị quyết số thương lần thứ ba, thông qua Hội nghị cử tri 1134/2016/UBTVQH132 của UBTVQH. để lấy ý kiến của cử tri đối với các ứng cử - Số lượng cử tri nơi công tác: Số lượng viên được giới thiệu hoặc tự ứng cử làm căn cử tri tham dự hội nghị cử tri nơi công tác cứ lên danh sách ứng cử viên chính thức. hoặc nơi làm việc để lấy ý kiến về người Căn cứ các Điều 45, Điều 46, Điều 54, Điều ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND ở những nơi 55 Luật Bầu cử năm 2015, Hội nghị cử tri có dưới một trăm cử tri thì tổ chức Hội nghị được tiến hành tại thôn, tổ dân phố nơi toàn thể, nhưng phải bảo đảm ít nhất là hai người ứng cử cư trú do Ban thường trực phần ba tổng số cử tri tham dự. Nơi có từ MTTQ Việt Nam cấp xã phối hợp với Ủy một trăm cử tri trở lên thì có thể tổ chức Hội ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì. nghị đại diện cử tri nhưng phải bảo đảm ít Bên cạnh đó, đối với những ứng cử viên cần nhất là bảy mươi cử tri tham dự. Tùy đặc phải lấy ý kiến của cử tri nơi người đó công điểm, tình hình thực tế của cơ quan, tổ chức, tác thì được tổ chức tại chính tổ chức, đơn đơn vị, Ban chấp hành Công đoàn phối hợp vị nơi người đó làm việc và do người đứng với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn đầu tổ chức, đơn vị phối hợp với Ban chấp vị phân bổ số lượng người để các tổ chức hành Công đoàn triệu tập và chủ trì. công đoàn trực thuộc cử đại diện tham dự; Như vậy, trong quá trình hiệp thương, trường hợp không có tổ chức Công đoàn thì mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được thực hiện rộng rãi mà chỉ giới phân bổ số lượng người để các đơn vị trực hạn giữa cử tri ở địa phương nơi người ứng thuộc cử đại diện tham dự (khoản 3 Điều 1). 2 Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 quy định chi tiết, hướng dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri; việc giới thiệu người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã ở thôn, tổ dân phố; việc hiệp thương, giới thiệu người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND trong bầu cử bổ sung. NGHIÏN CÛÁU Söë 10(314) T5/2016 LÊÅP PHAÁP 33
  3. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT - Số lượng cử tri nơi cư trú: Số lượng cử trong việc hình thành danh sách ứng cử viên tri tham dự Hội nghị cử tri nơi cư trú để lấy ý chính thức. Theo quy định, về cơ bản, kết kiến về người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND quả biểu quyết của cử tri tại Hội nghị cử tri nơi có dưới một trăm cử tri thì tổ chức Hội dành cho các ứng cử viên không trực tiếp nghị toàn thể, nhưng phải bảo đảm trên 50% quyết định việc người ứng cử có được ghi số cử tri tham dự. Nơi có từ một trăm cử tri tên trong danh sách ứng cử viên chính thức trở lên thì phải bảo đảm ít nhất là năm mươi hay không, mà đây chỉ là một trong những lăm cử tri tham dự (khoản 3 Điều 2). yếu tố để cơ quan nhà nước có thẩm quyền Tại Hội nghị, cử tri nghe người tổ chức phối hợp với tổ chức MTTQ lấy làm cơ sở đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử lập danh sách ứng cử viên chính thức3. và có quyền phát biểu ý kiến đối với từng Ngoại trừ trường hợp bầu cử đại biểu người ứng cử (Điều 4 Nghị quyết số HĐND cấp xã, thì tỷ lệ biểu quyết của cử tri 1134/2016/UBTVQH13). mang tính quyết định: “Người được giới Nhận xét: Như vậy, trong quá trình hiệp thiệu ứng cử là người được trên 50% cử tri thương, mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử có mặt tín nhiệm” (điểm đ, khoản 2, Điều 6 viên đã được hình thành, cử tri có cơ hội để Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13). nắm bắt những điểm cơ bản của ứng cử Kiến nghị: Để đảm bảo tính dân chủ viên, ý kiến của cử tri chính là căn cứ để trong bầu cử, cần thiết phải có những quy đánh giá phẩm chất, năng lực của người định đảm bảo cho cử tri đóng vai trò quan ứng cử, kiểm tra tính đúng đắn của việc giới trọng hơn nữa trong giai đoạn này, ví dụ: thiệu người ra ứng cử của cơ quan, tổ chức, tăng cường tỷ lệ cử tri tham gia Hội nghị cử đơn vị trên cơ sở đảm bảo phù hợp với ý tri, kết quả biểu quyết của cử tri phải có tính chí, nguyện vọng của cử tri. Thế nhưng, quy quyết định trong vấn đề lập danh sách ứng định về nội dung này đang thể hiện sự bất cử viên chính thức. Trong một tương lai xa cập, cụ thể: hơn, có thể thay thế chế độ hiệp thương bằng Một là, quy định chưa đảm bảo sự thống chế độ bầu cử hai vòng4. nhất trong tiêu chuẩn tỷ lệ cử tri có mặt tại Thứ hai, mối quan hệ giữa cử tri và ứng Hội nghị: Đối với nơi số lượng cử tri ít hơn cử viên trong giai đoạn vận động bầu cử một trăm thì sự tham gia của cử tri căn cứ tỷ Thời gian vận động bầu cử được thực lệ phần trăm, còn đối với nơi có số lượng cử hiện từ ngày công bố danh sách chính thức tri trên một trăm người thì lại quy định số và kết thúc trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu lượng cử tri tối thiểu cụ thể (bảy mươi cử tri, 24 giờ (Điều 64 Luật Bầu cử năm 2015). năm lăm cử tri). Sẽ là không tương thích, khi Đây là giai đoạn giúp cử tri hiểu rõ hơn về ví dụ, Trường Đại học Luật Hà Nội, số năng lực, phẩm chất của người ứng cử, cũng lượng cử tri là khoảng năm trăm người, nên là cơ hội để các ứng cử viên thuyết phục, nếu lấy số lượng cử tri tối thiểu thì chỉ cần kêu gọi cử tri bỏ phiếu cho mình. Luật Bầu bảy mươi cử tri. Số cử tri này chỉ bằng cử năm 2015 đã có những quy định chi tiết, khoảng 14% tổng số cử tri. cụ thể về mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử Hai là, về tính quyết định của cử tri viên trong giai đoạn này. Luật Bầu cử năm 3 Khoản 2 Điều 48, khoản 2 Điều 49, khoản 2 Điều 56 Luật Bầu cử năm 2015. 4 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tham luận tại Hội thảo khoa học của Đại học Quốc gia ngày 2/7/2012, tr. 33. NGHIÏN CÛÁU 34 LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
  4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 2015 quy định ứng cử viên thực hiện vận quan trọng với cả ứng cử viên và cử tri. Ở động bầu cử qua hai hình thức5: một số nước trên thế giới, tính tranh cử trong Một là, thông qua Hội nghị tiếp xúc cử quá trình vận động bầu cử được thể hiện rất tri: Tại Hội nghị, cử tri địa phương sẽ được rõ, các ứng cử viên phải bỏ ra nhiều công nghe tiểu sử tóm tắt của các ứng cử viên; sức, tài chính, chủ động tổ chức, xây dựng từng người ứng cử báo cáo với cử tri về chương trình vận động cử tri nhằm thuyết chương trình hành động của mình nếu được phục công dân ủng hộ, bỏ phiếu cho mình. trúng cử. Cử tri có thể nêu ý kiến, đề đạt Tại nhiều nước trên thế giới, kết quả của nguyện vọng của mình với những người ứng cuộc bầu cử có thể được định hình ít nhiều cử. Luật Bầu cử năm 2015 còn bổ sung quy ở giai đoạn này mà không cần chờ đến giai định về nguyên tắc trong việc tiếp xúc giữa đoạn bỏ phiếu. “Vận động tranh cử có thể cử tri và người ứng cử tại Hội nghị: “Người coi là linh hồn của cuộc bầu cử”8 bởi nó ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn khiến cho cuộc bầu cử được sôi nổi hơn, gay và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm”6. cấn hơn, người ứng cử sẽ thể hiện được tâm Hai là, thông qua phương tiện thông tin huyết của mình, đồng thời người dân cũng đại chúng: Đây là cách thức vận động khá bị thu hút, quan tâm nhiều hơn đến đời sống hiệu quả, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay chính trị và quyền làm chủ của họ. Ở Việt khi việc sử dụng công nghệ thông tin khá Nam, hiện không có tranh cử trong vận động phổ biến trong đời sống nhân dân. Với hình bầu cử, mà vận động bầu cử chủ yếu dựa thức này, mặc dù cử tri và ứng cử viên trên việc tổ chức của MTTQ và chính quyền không trực tiếp gặp nhau như hình thức tiếp địa phương; chưa có sự chủ động của người xúc cử tri, nhưng qua phương tiện thông tin ứng cử, do đó, mối quan hệ giữa cử tri và đại chúng, phạm vi tiếp cận đến các cử tri sẽ người ứng cử cũng khá bình lặng, khó có thể rộng rãi hơn. đẩy lên tới “cao trào” như ở những nước tổ Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định chức bầu cử có hoạt động tranh cử. một số hành động bị cấm trong giai đoạn Có thể thấy, mối quan hệ giữa cử tri và vận động bầu cử, giúp mối quan hệ giữa cử người ứng cử ở giai đoạn này, nếu không tri và người ứng cử thực sự khách quan, đảm được chú trọng, thì người dân sẽ khó hiểu bảo sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong rõ, đánh giá đúng về ứng cử viên, nên việc mối quan hệ với cử tri, đồng thời giúp cử tri bỏ phiếu ở giai đoạn sau sẽ trở nên mơ hồ đánh giá người ứng cử một cách đúng đắn, và cảm tính. Mặt khác, vận động bầu cử ví dụ: người ứng cử không được lạm dụng không chỉ có ý nghĩa ở việc giúp cử tri hiểu chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện rõ hơn về những người mà mình sắp sửa bỏ thông tin đại chúng trong vận động bầu cử; phiếu cho họ, từ đó khiến họ tin tưởng hơn không sử dụng biện pháp hoặc hứa tặng, vào sự lựa chọn của mình, mà còn đảm bảo cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất sự ràng buộc với những ứng cử viên, buộc để lôi kéo, mua chuộc cử tri7… họ khi trúng cử phải thực hiện đúng với Nhận xét: Mọi cuộc bầu cử đều có giai những gì đã tuyên bố với cử tri. Điều này có đoạn vận động bầu cử. Đây là giai đoạn rất ý nghĩa rất quan trọng để sau này đánh giá 5 Điều 65 Luật Bầu cử năm 2015. 6 Điểm d khoản 2 Điều 66 Luật Bầu cử năm 2015. 7 Khoản 2, khoản 4 Điều 68 Luật bầu cử năm 2015. 8 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tlđd. NGHIÏN CÛÁU Söë 10(314) T5/2016 LÊÅP PHAÁP 35
  5. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT năng lực của ĐBQH, đại biểu HĐND. Đặc đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu biệt là khi, các tiêu chí cụ thể để bãi nhiệm cử thì người nhiều tuổi hơn sẽ trúng cử9. đại biểu còn đang rất chung chung và khó Ngoài ra, mối quan hệ giữa cử tri với thực hiện. ứng cử viên còn được thể hiện trong hoạt Kiến nghị: Mặc dù Luật Bầu cử năm động bầu cử thêm, bầu cử lại, bầu cử bổ 2015 đã chú trọng hơn trong việc quy định sung10. nội dung vận động bầu cử, nhưng để thu hút Nhận xét: về cơ bản, pháp luật bầu cử người dân quan tâm đến hoạt động vận động đã quy định khá rõ ràng mối quan hệ giữa bầu cử hơn nữa, cần phải có những biện cử tri và ứng cử viên trong giai đoạn bỏ pháp thúc đẩy hoạt động này, ví dụ: thời phiếu. Cử tri là chủ thể quyết định ai là gian, địa điểm tiếp xúc cử tri phải được người trúng cử thông qua lá phiếu của mình. thông báo rộng rãi hơn, khuyến khích người Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy có một số hạn dân tham dự Hội nghị tiếp xúc cử tri, tạo cơ chế sau: thông thường, đơn vị bầu cử được chế để tăng khả năng chủ động cho người bầu ba đại biểu thì chỉ để năm ứng cử viên, ứng cử trong việc vận động bầu cử. đơn vị được bầu năm đại biểu thì chỉ để lại Thứ ba, mối quan hệ giữa cử tri với ứng bảy ứng cử viên. Bởi vì tại vòng hiệp cử viên trong quá trình bỏ phiếu thương, cử tri không phải là chủ thể quyết Mối quan hệ giữa cử tri và ứng cử viên định đến việc chọn ứng cử viên, nên quyền được thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động chọn lựa của cử tri được thực hiện chính tại bỏ phiếu của cử tri đối với ứng cử viên mà giai đoạn này, nhưng với tỷ lệ người ứng cử mình tín nhiệm. Mỗi cử tri có quyền bỏ một trên số đại biểu được bầu quá thấp như vậy, phiếu bầu ĐBQH và bỏ một phiếu bầu đại nên có thể thấy cử tri chỉ có quyền chọn biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp HĐND. 28% đến 40%11. Đó có thể là một trong Cử tri không muốn chọn ai thì trực tiếp gạch những nguyên nhân khiến việc bỏ phiếu của tên người đó. cử tri còn mang tính hình thức, nhiều cử tri Với nguyên tắc bỏ phiếu trực tiếp, người dân sẽ tự mình chọn ra người mà khá “hời hợt” trong việc lựa chọn ứng cử mình tín nhiệm, không qua khâu trung gian. viên, hiện tượng bỏ phiếu hộ còn nhiều, việc Điều đó thể hiện mối quan hệ giữa cử tri và kiểm phiếu nhiều nơi cũng chưa được thực ứng cử viên rất chặt chẽ. Để đảm bảo hiện nghiêm túc… Những hạn chế này ảnh nguyên tắc này, pháp luật quy định cử tri hưởng ít nhiều đến mối quan hệ giữa cử tri phải trực tiếp đi bầu, một số trường hợp đặc và ứng cử viên. biệt do luật định có thể nhờ người khác bầu Kiến nghị: Cần phải có những quy định cử thay. Việc xác định ứng cử viên trúng cử về số lượng ứng cử viên chính thức theo hay không căn cứ trực tiếp ngay vào kết quả hướng tăng số lượng ứng cử viên chính thức bỏ phiếu: người trúng cử phải được quá nửa trên mỗi đơn vị bầu cử lên, có các quy định số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu bầu chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát hoạt động hơn. Bên cạnh đó, nếu có nhiều ứng cử viên bỏ phiếu của cử tri, tránh tình trạng bỏ phiếu có số phiếu bằng nhau và nhiều hơn lượng hộ, hoặc bỏ phiếu cảm tính… n 9 Xem Điều 78 Luật Bầu cử năm 2015. 10 Xem Điều 79, Điều 80, Điều 89 Luật Bầu cử năm 2015. 11 GS,TS. Thái Vĩnh Thắng, Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay, tlđd, tr. 28. NGHIÏN CÛÁU 36 LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0