Một số bất cập trong chế định tổ chức lại doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp năm 2014
lượt xem 2
download
Bài viết đề cập đến một số vấn đề có thể sẽ trở thành mối quan tâm chung trong quá trình từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số bất cập trong chế định tổ chức lại doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp năm 2014
- Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 Trần Trí Trung1 Tóm tắt: Chế định pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập lần đầu trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN năm 2014). Theo đó, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập tại chương IX LDN năm 2014, bao gồm: Chia doanh nghiệp (Điều 192), tách doanh nghiệp (Điều 193), hợp nhất doanh nghiệp (Điều 194), sáp nhập doanh nghiệp (Điều 195) và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp (Điều 196, 197, 198, 199)2. Sự xuất hiện và tồn tại của những quy định này đã tạo cơ hội cho chủ sở hữu doanh nghiệp có thể thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp mà họ đã tạo lập. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, chế định này vẫn còn một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, bảo đảm cho pháp luật trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà đầu tư trong việc chủ động thay đổi mô hình tổ chức kinh doanh mà họ đã lựa chọn. Sau đây chúng tôi đề cập đến một số vấn đề có thể sẽ trở thành mối quan tâm chung trong quá trình từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức lại doanh nghiệp. Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự Nhận bài: 06/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016 Some problems of corporate reorganization under the Law of Coporate 2014 Abstract: Legal regulations on corporate reorganization was fistly mentioned in the 1999 Law of Corporates, then in the Law of Corporates in 2005 and in the Law of Corporates 2014. Accordingly, measures corporate reorganization referred to in Chapter IX of Enterprise Law 2014, including: Division of corporates (Article 192), separation of corporates (Article 193), merge of corporates (Article 194), accquisition of corporates (Article 195) and transformation of corporate type (Article 196, 197, 198, 199)3. The emergence and existence of these regulations created opportunities for business owners to change the form of businesses that they had established. However, for some extents, the regulations should be further studied for better improvement and perfection to ensure that the law can effectively support investors to actively change the corporate forms. The paper mentions some problems could become common concerns in the process of gradual improvement of legislation on corporate reorganization. Keywords: Law of Corporates, Civil Code Received: Oct 06th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication: Dec 20 th, 2016. Kế thừa, phát triển những mô hình sẵn có 1. Về loại hình doanh nghiệp được tham để tạo lập những mô hình kinh doanh mới là gia tổ chức lại bước tiếp nối tất yếu của lịch sử hình thành và Bản chất của tổ chức lại doanh nghiệp là phát triển các loại hình doanh nghiệp. Trong những cách thức, biện pháp làm thay đổi quy tiến trình đó, lựa chọn và thay đổi hình thức tổ mô, hình thức, tính chất tổ chức đã được xác chức kinh doanh đã xác lập cũng tồn tại như lập của một doanh nghiệp. Sẽ không thể có tự một lẽ tất yếu. do lựa chọn mô hình kinh doanh nếu chủ sở 1 Tiến sỹ, Trường Đại học luật, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014. 3 Law of Corporates No. 68/2014/QH13 dated 26 November 2014 23
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP hữu doanh nghiệp luôn bị bó buộc trong một những nhà đầu tư khi những chủ thể có trách hình thức kinh doanh nhất định nào đó. Với nhiệm hữu hạn được hưởng nhiều quyền tổ nghĩa ấy, thay đổi mô hình tổ chức kinh doanh chức lại doanh nghiệp hơn những chủ thể có chính là biểu hiện của tự do tạo lập, tự do lựa trách nhiệm vô hạn. chọn hình thức kinh doanh của chủ sở hữu. Xem xét trường hợp của công ty hợp Có cùng tính chất với thành lập doanh nghiệp, danh, theo LDN năm 2014, công ty hợp danh tái cấu trúc (tổ chức lại) doanh nghiệp cần không thuộc đối tượng được thực hiện chia, được xem là một quyền căn bản của chủ sở tách doanh nghiệp theo quy định tại Điều 192, hữu và cần được ghi nhận trong mỗi hệ thống 193 LDN năm 2014, không thuộc đối tượng pháp luật tiến bộ và hiện đại. được chuyển đổi theo quy định tại các Điều Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ghi nhận 196, 197, 198, 199 LDN năm 2014. Công ty bốn loại hình doanh nghiệp và năm biện pháp hợp danh chỉ có thể tổ chức lại bằng cách hợp tổ chức lại doanh nghiệp. Trong năm biện nhất hoặc sáp nhập với một hoặc một số công pháp tổ chức lại được quy định từ Điều 192 ty khác theo quy định của Điều 194, 195 LDN đến Điều 199 LDN 2014, công ty trách nhiệm năm 2014. Hạn chế này đối với công ty hợp hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần là loại danh thật khó để giải thích cả trên phương hình doanh nghiệp có quyền thực hiện cả năm diện lý luận và thực tiễn, nhất là trong tương biện pháp tổ chức lại, hai loại hình doanh quan so sánh về tính ngược chiều giữa các nghiệp khác (Công ty hợp danh, doanh nghiệp biện pháp hợp nhất và sáp nhập với các biện tư nhân) có quyền thực hiện một hoặc hai biện pháp chia, tách doanh nghiệp đã được đề cập pháp tổ chức lại (Công ty hợp danh chỉ có trước đó. Hoặc giả thiết nếu cho rằng vì công quyền thực hiện các biện pháp hợp nhất và ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân nên sáp nhập. Doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể không thể chia tách cũng không thực sự thực hiện một biện pháp chuyển đổi doanh thuyết phục bởi giả sử sau một thời gian cùng nghiệp)4 . tổ chức Điều hành công ty, các thành viên Dễ dàng nhận thấy, công ty TNHH và trong công ty hợp danh đã suy giảm sự tin công ty cổ phần là hai loại hình doanh nghiệp tưởng tuyệt đối vào nhau thì việc chia, tách mà chủ sở hữu của chúng có trách nhiệm hữu các thành viên trong công ty hợp danh đang hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của có thành các nhóm đối nhân mới có lẽ là việc doanh nghiệp. Đây là hai loại hình được thực cần làm và nên làm hơn là phải giải thể công hiện đầy đủ cả năm biện pháp tổ chức lại. Còn ty hợp danh này để thành lập các công ty hợp ở loại hình công ty hợp danh và doanh nghiệp danh khác. Một cách cơ học, giả sử một công tư nhân (DNTN), là các loại hình doanh ty hợp danh hiện có hơn bốn thành viên hợp nghiệp mà chủ sở hữu đích thực của chúng có danh, họ hoàn toàn có thể giải thể công ty để trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ và nghĩa thành lập hai công ty hợp danh khác, miễn sao vụ của doanh nghiệp, chỉ được quyền thực vẫn đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết của hiện số ít những biện pháp đó. Liên hệ đến một công ty hợp danh được thành lập mới. các biện pháp tổ chức lại đã được xác định Trên thực tế họ sẽ phải làm như vậy nếu trong luật, dường như có sự phân biệt theo không thể được chia, tách theo LDN năm tính chất trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu 2014. Tình huống tương tự cũng sẽ xảy ra đối giữa các loại hình doanh nghiệp dẫn đến sự với biện pháp chuyển đổi hình thức tổ chức liên hệ về tính bình đẳng và công bằng giữa công ty. Với công ty hợp danh, việc thay đổi 4 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014. 24
- Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai hình thức pháp lý của công ty đồng nghĩa với công ty cổ phần. Theo quy định của pháp luật việc thay đổi tính chất trách nhiệm của các hiện hành, vì không thuộc diện được chuyển thành viên hợp danh. Theo quy định hiện đổi thành công ty cổ phần nên để có thể hành, dường như các thành viên hợp danh chỉ chuyển đổi DNTN thành công ty cổ phần, chủ có thể thay đổi tính chất trách nhiệm của mình sở hữu cần phải thực hiện hai quy trình sau: bằng cách giải thể công ty hợp danh để thành Quy trình thứ nhất, chuyển đổi DNTN thành lập công ty TNHH hoặc công ty cổ phần như công ty TNHH theo quy định của Điều 199 họ mong muốn. Điều nhận thấy là cuối cùng LDN năm 2014. Quy trình thứ hai, sau khi mục đích của họ vẫn đạt được nhưng phải trải chuyển đổi thành công ty TNHH, tiếp tục qua nhiều thủ tục xem ra không cần thiết, gây chuyển đổi công ty TNHH thành công ty cổ lãng phí thời gian, tiền của của doanh nghiệp, phần theo quy định tại Điều 196 LDN năm làm gián đoạn kinh doanh và các mối quan hệ, 2014. Có thể thấy, việc không cho phép tăng gánh nặng hành chính cho cơ quan quản DNTN thực hiện biện pháp chuyển đổi thành lý. Có lẽ, thay vì không cho phép công ty hợp công ty cổ phần không có nhiều ý nghĩa đối danh được chia, tách và chuyển đổi như hiện với việc điều chỉnh hành vi của chủ thể mà nay, vấn đề cần thiết đặt ra lúc này là nghiên chỉ làm gia tăng các thủ tục hành chính không cứu để ban hành các quy định đảm bảo tính thực sự cần thiết. Có thể thấy, thông qua các trách nhiệm vô hạn, ngăn chặn sự thoái thác quy định về chuyển đổi DNTN, việc luật pháp trách nhiệm của các thành viên hợp danh sau đã cho phép chủ sở hữu DNTN được chuyển quá trình chia, tách và chuyển đổi loại hình đổi thành thành viên công ty TNHH nhưng công ty. không được chuyển đổi thành cổ đông của Đối với trường hợp của doanh nghiệp tư công ty cổ phần là một điều bất hợp lý. Thiết nhân, theo quy định tại Điều 199 LDN năm nghĩ, bên cạnh việc đảm bảo tự do lựa chọn 2014, DNTN chỉ được thực hiện duy nhất một hình thức kinh doanh của chủ doanh nghiệp biện pháp tổ chức lại là chuyển đổi DNTN khi chuyển đổi DNTN, việc chuyển đổi hình thành công ty TNHH mà không được chuyển thức pháp lý từ DNTN sang công ty TNHH đổi thành công ty cổ phần. Trên phương diện hay công ty cổ phần còn đồng nghĩa với sự nghĩa vụ của chủ thể, việc chuyển đổi DNTN cho phép thay đổi tính chất trách nhiệm tài thành công ty TNHH còn có ý nghĩa là sự sản của chủ sở hữu DNTN. Sẽ ưu việt hơn nếu thay đổi tính chất trách nhiệm của chủ sở hữu pháp luật có thêm quy định cho phép DNTN DNTN khi chuyển sang mô hình doanh nhiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần, như đã cho mới. Khi được chuyển đổi thành công ty phép DNTN chuyển thành công ty TNHH để TNHH, trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN đảm bảo cho quyền chủ động và tự do lựa chỉ còn xác định cho những nghĩa vụ đã phát chọn của nhà đầu tư. sinh trước khi DNTN được chuyển đổi. Có Ở khía cạnh khác, theo quy định tại Điều nghĩa là sau khi chuyển đổi thành công ty 187 LDN năm 2014, chủ DNTN có quyền bán TNHH, chủ DNTN đồng thời xác lập nghĩa doanh nghiệp cho người khác. Vấn đề đặt ra vụ trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn khi chủ DNTN bán doanh nghiệp của mình góp đối với đối với các trách nhiệm và nghĩa cho nhiều người cùng mua, việc chuyển đổi vụ tài sản của công ty với tư cách của một DNTN thành công ty TNHH hay công ty cổ thành viên công ty TNHH mới được thành phần trong trường hợp này cũng không thể lập. Xét về tính chất trách nhiệm trong trường được thực hiện bởi quy định về chuyển đổi hợp này là không có sự khác biệt với tính chất DNTN theo quy định tại Điều 199 LDN năm trách nhiệm của cổ đông phổ thông trong 2014 không đề cập đến trường hợp này. Điều 25
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 199 LDN năm 2014 yêu cầu sau khi chuyển như vậy, rõ ràng việc không cho phép DNTN đổi, chủ DNTN phải là chủ sở hữu công ty được hợp nhất hay sáp nhập với doanh nghiệp hoặc thành viên công ty mới. Bởi sự hạn chế khác cần phải được xem xét lại. Liên quan của luật pháp, để có thể kinh doanh với hình đến nội dung hạn chế quyền năng của chủ thức công ty TNHH hay công ty cổ phần, DNTN trước các biện pháp hợp nhất và sáp những người mua, sẽ phải tiến hành giải thể nhập, vấn đề trọng tâm cần lưu ý là việc bảo DNTN để bắt đầu một thủ tục thành lập công đảm thực hiện nghĩa vụ của chủ DNTN với ty mới hoặc thực hiện chuyển đổi DNTN tính chất trách nhiệm vô hạn. Với các quy thành công ty TNNH rồi lại tiếp tục chuyển định hiện hành về trách nhiệm tài sản của chủ đổi từ công ty TNHH thành công ty cổ phần sở hữu DNTN trong quy định về bán DNTN như đã đề cập ở phần trên. Nói cách khác, tại Điều 187 hay trách nhiệm tài sản của chủ bằng việc không cho phép DNTN được DNTN khi chuyển đổi DNTN thành công ty chuyển đổi thành công ty TNHH nếu thiếu sự TNHH tại Điều 199, có thể thấy, kinh nghiệm hiện diện của chủ DNTN trong danh sách lập pháp đã đủ để thiết kế những quy định yêu thành viên hoặc chủ sở hữu công ty mới, luật cầu chủ DNTN thanh toán (hoặc cam kết pháp đã góp phần làm suy giảm cơ hội bán thanh toán) đầy đủ các khoản nợ, nghĩa vụ tài doanh nghiệp của chủ DNTN. Sẽ thuận lợi và sản của doanh nghiệp trước khi làm thủ tục tiết kiệm hơn cho những nhà đầu tư nếu có chuyển đổi, hợp nhất hay sáp nhập doanh một quy định cho phép chủ DNTN và những nghiệp. người mua DNTN được thực hiện các biện 2. Về điều kiện và trình tự, thủ tục tổ pháp chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH chức lại doanh nghiệp và công ty cổ phần mà không cần bắt buộc Về điều kiện tổ chức lại doanh nghiệp, chủ DNTN phải có tên trong hội đồng thành theo chúng tôi, điều kiện đặt ra thể hiện trên viên của công ty TNHH theo quy định của hai nhóm vấn đề: Một là nhóm những điều Điều 199 năm LDN hay có tên trong danh kiện về sự đáp ứng các yêu cầu cho sự thiết sách cổ đông của công ty cổ phần. lập và hoạt động của doanh nghiệp sau tổ Đối với các biện pháp hợp nhất và sáp chức lại. Hai là nhóm những điều kiện đảm nhập doanh nghiệp, theo quy định tại Điều bảo cho việc thực hiện các nghĩa vụ của 194, 195 LDN năm 2014, DNTN không thuộc doanh nghiệp trước và sau khi tổ chức lại. đối tượng được thực hiện những biện pháp tổ Trong nhóm những điều kiện đảm bảo thực chức lại này. Trên phương diện pháp lý tổ hiện nghĩa vụ tài sản của chủ doanh nghiệp chức, hợp nhất hay sáp nhập doanh nghiệp là trước khi tổ chức lại, nội dung thể hiện ý chí biểu hiện của sự liên kết ngang giữa các chủ của chủ thể mang quyền (các chủ nợ) chưa thể có địa vị pháp lý độc lập và không phụ được đề cập rõ. Trong lịch sử xây dựng Luật thuộc nhau. Cơ sở pháp lý cho sự liên kết là Doanh nghiệp, ngay từ năm 1999, khi thảo hợp đồng hợp nhất hoặc sáp nhập. Việc không luận thông qua điều luật đã từng có ý kiến nêu cho phép chủ DNTN được giao kết hợp đồng ra điều kiện doanh nghiệp chỉ được tổ chức loại này đã làm hạn chế quyền tự do ý chí, tự lại nếu như đã thoả thuận xong với các chủ do giao kết hợp đồng của chủ DNTN. Trong nợ. Đến nay “điều kiện” này vẫn chưa được một hệ thống pháp luật hiện đại và tiến bộ, đề cập trong luật. Việc bảo đảm quyền lợi của quyền tự do của chủ thể chỉ bị hạn chế khi chủ nợ hiện nay được xác định bởi các quy việc thực hiện hành vi đó gây nguy hại cho định về sự vô hiệu lực của các quyết định, chủ thể khác hoặc xâm hại đến các giá trị đạo thỏa thuận phân chia nghĩa vụ của doanh đức, trật tự, an toàn xã hội. Với cách tiếp cận nghiệp tham gia các biện pháp tổ chức lại. 26
- Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai Tưởng như đó đã là một sự bảo đảm tốt cho Về trình tự, thủ tục tổ chức lại, nếu nhìn các chủ nợ. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở nhận theo hình thức biểu hiện thì tổ chức lại chiều cạnh khác, khi các doanh nghiệp tham doanh nghiệp là một chế định pháp lý mang gia vào các biện pháp tổ chức lại đã chấm dứt tính thủ tục rất cao, bảo đảm cho quá trình sự tồn tại, không ai có thể chắc chắn rằng tổ chức lại được diễn ra lành mạnh cần được những người quản lý các doanh nghiệp mắc xem là những quy định quan trọng bậc nhất nợ sẽ còn tiếp tục giữ vai trò quản lý ở các trong các quy định về thủ tục pháp lý. Tuy doanh nghiệp mới. Mà các chủ nợ, vì nhiều lý nhiên, qua những quy định hiện hành về tổ do, nhiều khi để cho món nợ tồn tại chỉ vì mối chức lại doanh nghiệp của LDN năm 2014, quan hệ với những người quản lý cũ. Hơn thế, trình tự thủ tục tiến hành đã được đề cập theo quy định của Bộ luật Dân sự, việc chưa thể hiện hết tầm quan trọng đó. Quy chuyển giao nghĩa vụ từ chủ thể này sang chủ trình tổ chức lại doanh nghiệp là quy trình thể khác luôn cần phải có sự đồng ý của các thực hiện quyền của doanh nghiệp tổ chức chủ nợ. Có thể thấy, việc doanh nghiệp mang lại, trình tự thủ tục được xác định từ khâu nợ hoàn toàn chủ động trong việc chuyển xác định ý tưởng đến khi thực hiện việc đăng nghĩa vụ của mình sang các chủ thể khác khi ký kinh doanh doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, thực hiện các biện pháp tổ chức lại là điều trình tự, thủ tục thực hiện quyền đó cần phải chưa phù hợp. Trên thực tế, có không ít chủ được diễn ra một cách trung thực và đảm bảo nợ đã bị gây khó khăn trong quá trình đi đòi sự an toàn chung cho xã hội trong mối liên nợ sau khi doanh nghiệp mắc nợ đã bị chia, hệ tới thủ tục, trình tự thực hiện các quyền bị tách, sáp nhập hoặc hợp nhất vào doanh của chủ thể khác. Thông thường, các thủ tục nghiệp khác. Trong khi, tham khảo pháp luật pháp lý được thực hiện đều có sự hiện diện về tổ chức lại doanh nghiệp của một số quốc của cơ quan quản lý nhà nước, thông qua gia trong khu vực, thấy rằng pháp luật ở các pháp luật và hệ thống các cơ quan, tổ chức, quốc gia này thường đưa ra những điều kiện cá nhân được trao quyền thi hành pháp luật. rất cụ thể đòi hỏi doanh nghiệp muốn thực Theo quy định hiện hành về tổ chức lại hiện tổ chức lại phải đáp ứng. Ví dụ, pháp luật doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước chỉ Dân sự và thương mại Thái Lan quy định Tòa xuất hiện trực tiếp trong khâu thực hiện cuối án có quyền không chấp nhận việc hợp nhất cùng khi doanh nghiệp tổ chức lại tiến hành doanh nghiệp nếu có khiếu nại của chủ nợ. đăng ký kinh doanh doanh nghiệp mới. Với Pháp luật Singapore, Malaysia cũng ghi nhận nhận thức, tổ chức lại doanh nghiệp không quyền phản đối hợp nhất hay tổ chức lại của đơn thuần là một hoạt động mang tính nội bộ các chủ nợ, v.v.5 Có thể thấy, theo nguyên tắc của riêng doanh nghiệp mà hoạt động này, bảo vệ quyền lợi chủ nợ, với nhận thức về với sự biến đổi của một doanh nghiệp cụ thể nguy cơ có thể mang đến những bất lợi cho luôn kéo theo những tác động nhiều phía tới chủ nợ trong và sau quá trình tổ chức lại, pháp xã hội. Sẽ tăng thêm tính bảo đảm pháp lý luật cần có những quy định đảm bảo quyền cho các chủ thể có liên quan đến doanh của chủ nợ của doanh nghiệp, xác định việc nghiệp thực hiện tổ chức lại khi có thêm quy thể hiện ý chí của chủ nợ là một điều kiện cần định về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn đáp ứng khi doanh nghiệp thực hiện các biện cấp tạm thời trong những trường hợp có vấn pháp tổ chức lại. đề của quá trình tổ chức lại doanh nghiệp, để 5 Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông nam Á, Hà Nội, tr. 60, 61. 27
- HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP có thể kịp thời ngăn chặn các biểu hiện sai sự bất hợp lý khi doanh nghiệp mắc nợ có trái, làm tổn hại hoặc có nguy cơ làm tổn hại quyền chủ động chuyển nghĩa vụ tới một tới lợi ích chính đáng của những chủ thể doanh nghiệp mới với phương án tổ chức, khác trong quá trình tổ chức lại doanh phương án kinh doanh mới mà không cần có nghiệp. Có lẽ, trong lĩnh vực pháp luật về sự đồng ý của chủ nợ như đã trình bày ở kinh doanh thương mại, chức năng định phần trên, chúng tôi cho rằng trong các biện hướng hành vi và ngăn ngừa sai phạm cần pháp tổ chức lại, cần phải có thêm thủ tục được đề cao và đi trước một bước so với phân loại chủ nợ và gửi thông báo về phương chức năng giải quyết và xử lý vi phạm khi án tổ chức lại tới các chủ nợ trước khi có nó đã xảy ra. quyết định hoặc thông qua hợp đồng tổ chức Trong thủ tục tổ chức lại doanh nghiệp lại doanh nghiệp để tạo cho các đối tượng theo các biện pháp chia, tách hợp nhất và sáp này một cơ hội phản đối. nhập tại các Điều 192, 193, 194, 195 LDN Kết luận năm 2014, pháp luật quy định thời hạn gửi Tổ chức lại doanh nghiệp là một chế định thông báo tới chủ nợ và người lao động của pháp luật bao gồm những quy định đảm bảo doanh nghiệp là 15 ngày kể từ ngày thông cho chủ sở hữu (đồng chủ sở hữu) doanh qua hợp đồng hoặc quyết định tổ chức lại. nghiệp có quyền lựa chọn và quyết định Trong khi đó, các quy định về đăng ký và những biện pháp nhằm thay đổi quy mô, cấu đăng ký lại doanh nghiệp tại các Điều 27, 31, trúc, tính chất của doanh nghiệp mà họ đã tạo 32 LDN năm 2014 ấn định thời gian là 03 lập. Cùng với đó là những quy định bảo đảm ngày làm việc để cơ quan nhà nước tiến hành quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. những chủ thể có liên quan trong quá trình Căn cứ vào nội dung của các quy định này, doanh nghiệp thực hiện tổ chức lại. Một số không thể xác định được việc gửi quyết định, bất cập về trình tự thủ tục, điều kiện và loại hợp đồng tổ chức lại tới chủ nợ và người lao hình chủ thể có quyền thực hiện tổ chức lại là động sẽ phải thực hiện trước hay sau khi những vấn đề pháp lý cần được tiếp tục doanh nghiệp thực hiện xong biện pháp tổ nghiên cứu làm rõ và hoàn thiện, đảm bảo chức lại. Cũng theo nội dung điều luật, việc cho các quá trình tổ chức lại được thực hiện gửi thông báo ngoài ý nghĩa thông tin, những một cách trung thực, minh bạch và an toàn, vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, trong quan hệ pháp luật đã được xác lập giữa góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng các bên cũng chưa được quan tâm đúng mức. của nhà đầu tư và những cá nhân, tổ chức có Giả sử xét một trường hợp, doanh nghiệp A liên quan./. tiến hành hợp nhất với doanh nghiệp B. Doanh nghiệp A có số dư nợ gần bằng tổng Tài liệu tham khảo: số tài sản hiện có. Phương án hợp nhất giữa 1. Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 A và B không được một số thành viên (cổ ngày 26 tháng 11 năm 2014. đông) của A hoặc B chấp nhận. Theo quy 2. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình định tại các Điều 52, 129 LDN năm 2014, Luật thương mại, Phần chung và thương các thành viên này có quyền rút ra khỏi nhân, NXB ĐHQG, Hà Nội. doanh nghiệp bằng cách yêu cầu mua lại 3. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung phần vốn góp. Có thể thấy, những người này ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh đã có cơ hội an toàn rút ra khỏi phần nghĩa luật công ty ở bốn quốc gia Đông nam Á, vụ mà họ đáng ra phải gánh chịu. Cùng với Hà Nội 28
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hạn chế phân chia di sản thừa kế trong bộ Luật Dân sự năm 2015 – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
8 p | 79 | 15
-
Một số bất cập, vướng mắc về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng trong Luật Đất đai năm 2013
7 p | 58 | 11
-
Những hạn chế, bất cập trong quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh
6 p | 111 | 10
-
Một số bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở theo Bộ luật lao động năm 2019
6 p | 27 | 9
-
Về những bất cập trong thực hiện đầu tư công tại Việt Nam
4 p | 93 | 7
-
Một số vấn đề về chia thừa kế cho đối tượng được hưởng di sản bắt buộc theo điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015
7 p | 10 | 6
-
Một số bất cập của pháp luật về hợp đồng và chế tài trong thương mại
17 p | 36 | 6
-
Một số bất cập trong quản lý điều hành hợp tác xã theo luật hợp tác xã năm 2012
4 p | 25 | 5
-
Một số vấn đề bất cập trong quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và định hướng hoàn thiện
5 p | 20 | 5
-
Một số bất cập trong hoạt động trực tiếp thi hành bản án, quyết định của Thừa phát lại
4 p | 40 | 4
-
Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi phạm tội - Một số bất cập và hướng hoàn thiện
5 p | 47 | 3
-
Bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực
6 p | 71 | 2
-
Luật Công đoàn một số bất cập và hướng hoàn thiện
6 p | 48 | 2
-
Thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vô hiệu - một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
8 p | 31 | 2
-
Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án
5 p | 1 | 0
-
Pháp luật về quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay - bất cập, hạn chế và giải pháp, kiến nghị
10 p | 1 | 0
-
Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng - hạn chế, bất cập và đề xuất kiến nghị hoàn thiện
13 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn