intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu hiện nay trên thế giới và triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

11
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu hiện nay trên thế giới và triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội" trình bày về một số mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu hiện nay trên thế giới; triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu hiện nay trên thế giới và triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TIÊU BIỂU HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Nguyễn Xuân Hiếu, Trần Võ Đông Giang Trường Đại học Nguyễn Huệ Tác giả liên hệ: Trần Võ Đông Giang, email: tranvodonggiang@gmail.com Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ra đời từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Tháng Mười Nga năm 1917, sau năm 1945, đã trở thành hệ thống XHCN trên thế giới và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa to lớn đối với hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Vì nhiều lý do, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã rơi vào khủng hoảng và sụp đổ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Hiện nay, cùng với những thành công của công cuộc đổi mới, cải cách của Trung Quốc, Việt Nam và các nước XHCN khác đang cho thấy triển vọng phát triển mới của CNXH. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biể;, triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội. 1. MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TIÊU BIỂU HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc Ngày 01/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Ngay từ khi mới ra đời, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản (ĐCS) Trung Quốc đã có những nỗ lực nhằm tìm ra mô hình của CNXH phù hợp với thực tế Trung Quốc nhưng sau đó đã phạm sai lầm nghiêm trọng về đường lối kinh tế trong “phong trào tiến vọt” và sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị trong “cách mạng văn hóa”. Trong khủng hoảng của CNXH hiện thực, Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) ĐCS Trung Quốc họp cuối tháng 12/1978 đã ra một quyết định lịch sử là chuyển trọng tâm công tác của toàn Đảng từ trước đó “lấy đấu tranh giai cấp là cương lĩnh” sang “xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm”, thực hiện cải cách và mở cửa, xây dựng hiện đại hóa XHCN. Tại Đại hội XII (1982), ĐCS Trung Quốc chính thức ghi vào văn kiện chủ trương xây dựng “CNXH có đặc sắc Trung Quốc”. Đến Đại hội XVI (2002), ĐCS Trung Quốc đưa ra quan điểm xây dựng “CNXH đặc sắc Trung Quốc”. 108
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Văn kiện Đại hội XIX (10/2017), ĐCS Trung Quốc khẳng định: “Tư tưởng CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học, là thành quả mới nhất của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác; là kết tinh của kinh nghiệm thực tiễn và trí tuệ tập thể của Đảng và nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc, là kim chỉ nam hành động để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa” (PV/VOV Bắc Kinh, 2017). Thành tựu lớn nhất đến nay về mặt lý luận là ĐCS Trung Quốc đã tìm tòi, làm rõ, từ đó hình thành lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc và con đường xây dựng mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc với những đặc trưng chủ yếu trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các chính sách đối ngoại: Về kinh tế: Xã hội XHCN đặc sắc Trung Quốc coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, là một xã hội có lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học, công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, đất nước phát triển thịnh vượng; có quan hệ sản xuất mới, chế độ sở hữu phải hoàn thiện từng bước, phù hợp với lực lượng sản xuất. Mọi thành phần kinh tế không phân biệt, đều là bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân XHCN; có thể chế kinh tế thị trường XHCN. Về chính trị: Nhà nước pháp quyền, pháp trị. Dân chủ là giá trị nền tảng, một động lực cơ bản. Pháp luật là tối thượng trong quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Dân chủ hoá gắn đồng thời với pháp chế hoá. ĐCS cầm quyền, thực hiện chế độ hợp tác nhiều Đảng, đồng thuận và tuân thủ vai trò lãnh đạo của ĐCS. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là chính hiệp để thực hiện vai trò hoà hợp, hoà giải, tự quản. Về văn hóa, xã hội: Xây dựng văn hóa, văn minh tinh thần của Trung Quốc, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên vị trí cao nhất. Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách được thể hiện trong chiến lược hiền tài, dung nạp, đãi ngộ, sử dụng đúng hiền tài. Về mặt xã hội, thực hiện các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, hủ bại trong bộ máy Đảng và Nhà nước, việc tăng cường kỷ cương, hiệu lực của pháp luật đã thực sự tạo ra chuyển biến lớn trong xây dựng văn minh tinh thần ở Trung Quốc. 109
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Về đối ngoại: Sau Đại hội XIX, Trung Quốc đã có những thay đổi nhất định với những ưu tiên hàng đầu là “ngoại giao nước lớn” và “ngoại giao láng giềng” nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”. Hoạt động đối ngoại được Trung Quốc triển khai đồng bộ, toàn diện và bài bản; kết hợp linh hoạt ngoại giao thượng đỉnh, ngoại giao sân nhà với triển khai các sáng kiến nhằm giành vai trò chủ đạo trong việc dẫn dắt xu hướng toàn cầu hóa, củng cố vai trò lãnh đạo khu vực và tham gia sâu rộng hơn vào việc định hình trật tự thế giới mới. Tư tưởng “CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới" được cụ thể hoá thiết thực thành những công thức dễ nhớ, dễ thực hành như "song bách" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng); "tam giảng" (ba vấn đề giáo dục trong Đảng: vững về chính trị, hăng say học tập, có chính khí); "ngũ ái" (năm đức yêu: Tổ quốc, dân tộc, lao động, khoa học, CNXH); "ba đại diện" (đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho văn hoá tiên tiến và đại diện cho lợi ích đa số nhân dân); "bốn nắm" (nắm vững lòng tin của dân, nắm vững cốt cán, nắm vững điển hình và nắm vững cơ sở)... Đại hội XIX của ĐCS Trung Quốc xác định bố cục tổng thể của XHCN đặc sắc Trung Quốc là "5 trong 1" (xây dựng kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và sinh thái phát triển hài hoà trong một bố cục tổng thể), bố cục chiến lược là "4 toàn diện" (xây dựng xã hội khá giả toàn diện, cải cách sâu sắc toàn diện, quản lý đất nước bằng pháp luật toàn diện và quản lý Đảng nghiêm khắc toàn diện). 1.2. Mô hình xã hội XHCN ở Cộng hòa Cuba Ngày 01/01/1959, cách mạng Cuba thành công, nhân dân và các chiến sĩ cách mạng yêu nước Cuba, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Phiđen Caxtơrô, đã lật đổ chế độ độc tài Batixta, thiết lập Nhà nước công nông đầu tiên ở Tây bán cầu, đưa "hòn đảo tự do" bước vào kỷ nguyên mới, độc lập, tự do và tiến lên CNXH. Trong hàng chục năm gần đây, trước sự bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch chống đối, Cộng hoà Cuba vẫn kiên cường đứng vững, vẫn giữ vững thành quả của cách mạng vừa phát triển đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Trong điều kiện, bối cảnh mới, để phù hợp hơn với tình hình, ĐCS Cuba đã có nhiều nhận thức mới về mô hình xã hội XHCN mà Cuba cần xây dựng. Chủ trương “cập nhật mô hình kinh tế - xã hội” đã khái quát những đường nét cơ bản về mô hình xã hội XHCN ở Cộng hòa Cuba hiện nay: 110
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Về kinh tế: Đổi mới các chính sách kinh tế, điều chỉnh các chủ trương, chính sách của Nhà nước về sở hữu tư liệu sản xuất và sở hữu tài sản (có những thay đổi trong chính sách liên quan đến sở hữu; cho phép công dân chuyển nhượng mua bán nhà ở và một số tư liệu sản xuất...); phát triển sản xuất, "cập nhật hoá các mô hình kinh tế" để lựa chọn mô hình, cách thức phù hợp cho phát triển Cuba; điều chỉnh, thay đổi các chính sách kinh tế linh hoạt với tình hình mới; chấp nhận kinh tế thị trường, mở rộng mô hình kinh tế tự do kinh doanh, mở cửa thị trường nội địa; coi trọng hợp tác kinh tế, đầu tư nước ngoài, thực hiện chính sách thuế mới... Về chính trị: ĐCS lãnh đạo xã hội và nhà nước kiên trì với CNXH trên cơ sở kết hợp giá trị các quan điểm Mác - Lênin với đặc trưng truyền thống của Cuba. Về văn hóa, xã hội: Chú trọng phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc trong xây dựng xã hội XHCN. Tiếp tục thúc đẩy thể dục, thể thao phát triển cũng như việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa học và lịch sử dân tộc. ĐCS Cuba luôn chú trọng nâng cao đời sống cho nhân dân và lợi ích của cộng đồng. Nhà nước Cuba chủ trương “không bỏ mặc bất kỳ người dân nào trong xã hội, dù họ thuộc tầng lớp nào” (Lộc, 2016, 67) và duy trì một hệ thống chính sách chăm sóc y tế cộng đồng, giáo dục miễn phí cho tất cả người dân, quan tâm đến những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, xem xét lại chính sách tiền lương và phân nhà thuộc sở hữu nhà nước cho nhân dân thiếu nhà ở… Về đối ngoại: Thực hiện các chính sách đối ngoại mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, tích cực mở cửa hội nhập sâu rộng với thế giới, tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, các nước lớn và nhiều nước trên thế giới. Có thể thấy rằng, chủ trương “cập nhật mô hình CNXH” của Cuba đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, cho thấy sự đúng đắn của ĐCS Cuba, tạo niềm tin cho nhân dân Cuba vào sự nghiệp cải cách kinh tế và xây dựng CNXH. Cuba đã bước đầu xây dựng được nền kinh tế với cơ cấu đa dạng, phát triển theo định hướng thị trường, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân, liên kết là động lực quan trọng của nền kinh tế. Mặc dù, nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, cùng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, gây nhiều bất ổn về xã hội nhưng Cuba vẫn sẽ tiếp tục duy trì chính sách bao cấp về giáo dục và y tế. Những thành tựu đáng khích lệ trên mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội 111
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đã và đang củng cố sự đồng thuận và tăng cường niềm tin của nhân dân Cuba vào sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN phồn vinh và bền vững do Đảng Cộng sản Cuba lãnh đạo. 1.3. Mô hình xã hội XHCN ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Ngày 02/12/1975, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường và đầy gian nan, thử thách, lật đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Từ đó đến nay, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân các bộ tộc Lào khẩn trương bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có những đặc điểm khác với các nước XHCN khác là nền kinh tế phát triển thấp, dựa vào nền nông nghiệp làm nền tảng cho phát triển công nghiệp, nhưng công nghiệp lại có cơ cấu non trẻ. Chính vì vậy, việc trực tiếp xây dựng CNXH còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Lào vẫn kiên định vững chắc phát triển đất nước theo mục tiêu XHCN. Những năm sau giải phóng đất nước (1975), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào xây dựng, phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phi thị trường. Tuy đạt được một số thành tựu trong khôi phục và phát triển kinh tế, nhưng mô hình này đã bộc lộ nhiều nhược điểm, không thể giải quyết được vấn đề phát triển. Năm 1986, Lào đã tiến hành cải cách, đổi mới, mở cửa để phát triển kinh tế theo hướng XHCN. Sự cải cách và đổi mới này đã thay đổi căn bản con đường, mô hình phát triển kinh tế của Lào, nhờ đó đã giải thoát nền kinh tế khỏi sự trì trệ và tạo ra một sự tăng trưởng khá cao, đưa nền kinh tế tới điểm cất cánh. Nhìn chung, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào xây dựng mô hình XHCN với những đặc trưng sau: Về kinh tế: Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức sản xuất bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh minh bạch trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước đóng vai trò định hướng, chính sách, cơ chế, thể chế với tinh thần đột phá một cách mạnh mẽ để trở thành công cụ điều tiết kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để làm cho nền kinh tế hoạt động theo quy 112
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” luật khách quan một cách đầy đủ, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong từng giai đoạn, vừa hội nhập với khu vực và quốc tế, đảm bảo cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Về chính trị: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cayxỏn Phômvihản, truyền thống tốt đẹp của Đảng là nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chống đa nguyên, đa đảng; xây dựng và chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh và vững chắc, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và nắm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng hệ thống chính trị XHCN. Xây dựng Nhà nước pháp quyền; chuyển cơ chế quản lý bằng chính sách, nghị quyết, chỉ thị sang quản lý bằng luật pháp. Về văn hóa, xã hội: Đảng - Chính phủ Lào lấy phát triển nguồn nhân lực là trọng tâm của sự phát triển, cải cách giáo dục quốc gia, làm cho chất lượng nền giáo dục có sự thay đổi tích cực. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tôn trọng quyền tự do tin hoặc không tin tôn giáo cũng như hoạt động xã hội khác theo pháp luật và các quy định, nhằm đảm bảo xây dựng xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ, bình đẳng và văn minh. Về đối ngoại: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào kiên định đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu nghị, hợp tác và hội nhập; thúc đẩy hợp tác với nước ngoài với hình thức đa phương hóa, đa dạng hóa, nhiều cấp độ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lẫn nhau và đôi bên cùng có lợi. Tóm lại, mô hình xây dựng chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng XHCN ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có những thuận lợi và khó khăn. Trong đó thuận lợi là Lào có cơ sở về lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Bên cạnh đó, Lào còn gặp nhiều khó khăn như: nền kinh tế xuất phát điểm thấp, các thế lực thù địch chưa hết ý đồ chống phá, xóa bỏ chế độ XHCN… nhưng nhìn một cách tổng quát, nhân dân các bộ tộc Lào đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh, đưa cách mạng Lào vững bước trên con đường xây dựng, củng cố và kiện toàn chế độ dân chủ nhân dân, từng bước quá độ lên CNXH. 113
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 1.4. Mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng đã dựa trên các căn cứ lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc trưng phổ biến của xã hội XHCN; kinh nghiệm của các nước XHCN, nhất là Liên Xô; xuất phát từ hoàn cảnh và đặc điểm lịch sử của Việt Nam… và đã có những thành công nhất định trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, ĐCS Việt Nam đã chỉ rõ nhận thức về mô hình và con đường đi lên CNXH thời kỳ này còn nhiều hạn chế, chưa làm rõ được tính đặc thù của mô hình CNXH Việt Nam cũng như con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một nước tiền TBCN, có xuất phát điểm kinh tế, xã hội, văn hóa… thấp kém. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên đã đưa đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong những năm 80 của thế kỷ XX, đặt ra yêu cầu đổi mới cấp bách. Thời kỳ đổi mới, trên cơ sở kiên định và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu và đặc trưng cơ bản của CNXH, con đường đi lên CNXH; tổng kết bài học thành công, hạn chế trong xây dựng CNXH của các nước XHCN và của Việt Nam; phân tích bối cảnh, tình hình thế giới, Đảng ta khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”; “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của ĐCS Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69-70). Bắt đầu từ Đại hội VI (12-1986), ĐCS Việt Nam đã khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trước đó trong nhận thức về CNXH cũng như các biện pháp xây dựng CNXH. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đến Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) đã bổ sung, phát triển thành tám đặc trưng CNXH Việt Nam: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước 114
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trên thế giới" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Từ tám đặc trưng trên được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể sau: Về kinh tế: Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển” (Nguyễn, 2022, 26-27). Về chính trị: ĐCS Việt Nam kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, kiên quyết chống đa nguyên đa đảng; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Về văn hóa, xã hội: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. 115
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Về đối ngoại: Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Như vậy, sau sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các nước XHCN khác không ngừng đổi mới tư duy, từng bước định hình và định lượng mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp. Thành công của công cuộc cải cách ở hàng loạt các nước do ĐCS lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng như: mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc gắn với cách mạng, mở cửa; mô hình CNXH của Việt Nam, gắn với đổi mới, hội nhập; cập nhật hóa mô hình CNXH kiểu Cuba; mô hình dân chủ nhân dân theo định hướng XHCN ở Lào… Cốt lõi của những thành công này là việc kết hợp hài hòa các quy luật của kinh tế thị trường với các nguyên lý của CNXH, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN với mở cửa và hội nhập quốc tế, giữa việc củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của ĐCS với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và dân chủ hóa xã hội. Thực tiễn đó xác nhận tính đúng đắn và khả năng cải cách, đổi mới nhận thức về mô hình CNXH của các nước ngày một đầy đủ và phù hợp thực tế hơn, vừa khẳng định sức sống của CNXH, vừa là thành tựu lý luận quan trọng bậc nhất của CNXH hiện thực hiện nay. 2. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 2.1. Chủ nghĩa tư bản - không phải là tương lai của xã hội loài người Thay thế chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản (CNTB) ra đời, phát triển là một bước tiến lớn trong lịch sử của nhân loại. Các nhà kinh điển C.Mác và Ph.Ăngghen khi phân tích về CNTB đã chỉ ra: từ khi mới ra đời, CNTB đã cho con người thấy tính ưu việt của nó. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, đó là một bước tiến vĩ đại về phía trước trên những con đường phát triển của xã hội loài người. Nhưng CNTB không phải là hình thái xã hội vĩnh hằng, khi nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa thì sẽ bị hình thái xã hội thích ứng được với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất mới thay thế. 116
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trong lịch sử hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay, CNTB đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ CNTB tự do cạnh tranh đến CNTB độc quyền, CNTB độc quyền nhà nước và ngày nay là CNTB hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa. CNTB hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nước tư bản phát triển, như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản… là những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học, thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chúng ta thừa nhận rằng, CNTB chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước” (Nguyễn, 2022, 18-19). Để tồn tại và phát triển, CNTB đã và đang có những điều chỉnh thích nghi trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất (về quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối) như: tăng cổ phần hóa, áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất, sử dụng những người lao động có trình độ cao để tổ chức quản lý sản xuất với vai trò là những người “đốc công”, thực hiện một số vấn đề về dân chủ trong khuôn khổ của CNTB, tăng mức thưởng và đãi ngộ cho người lao động, quan tâm hơn về phúc lợi xã hội, bảo đảm có giới hạn một số nhu cầu về lợi ích vật chất của người lao động… Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của CNTB đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của CNTB “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một CNTB “hiện đại, tiến bộ”, “CNTB nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, những điều chỉnh nói trên vừa là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, quyết liệt của giai cấp vô sản và quần chúng lao động; vừa là xu hướng phát triển tất yếu mang tính nhân loại. Nhưng những điều chỉnh 117
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đó vẫn nằm trong giới hạn của chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Giới hạn mà CNTB không thể vượt qua chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm và dịch vụ khổng lồ, lẽ ra nhân loại sẽ không còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học và nợ nần để từng bước đạt tới đỉnh cao của văn minh và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, phân hóa giàu nghèo vẫn đang diễn ra và ngày càng sâu sắc hơn. Những giới hạn không thể vượt qua trên cho thấy, CNTB hiện đại vẫn đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với những nguy cơ của khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị, thậm chí nguy cơ một cuộc khủng hoảng toàn diện mới có thể xuất hiện. Khi bàn về CNTB ngày nay, Đảng ta đã khẳng định: “Hiện tại, CNTB còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của CNTB” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 68). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh: “Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị TBCN. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn” (Nguyễn, 2022, 20-21). Như vậy, có thể thấy rằng, CNTB hiện đại trong khi chưa phát triển đến giai đoạn diệt vong gần kề nó, đang tiếp tục tiến triển một cách khách quan đến một xã hội khác cao hơn, bất chấp ý nguyện chủ quan của bất cứ lực lượng xã hội nào và do đó trong lòng nó đang chín muồi dần không chỉ những tiền đề vật chất, kỹ thuật mà chứa đựng cả những mầm mống, những yếu tố nhiều mặt, những điều kiện ngày càng đầy đủ hơn cho sự ra đời xã hội mới sau CNTB. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đưa khoa học công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế, vai trò của tư bản đã giảm 118
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xuống đối với quá trình sản xuất, đang thúc đẩy quá trình phủ định CNTB, thay thế CNTB bằng chế độ XHCN, một chế độ xã hội mới cao hơn, trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong CNTB, đồng thời khắc phục, xóa bỏ được những mâu thuẫn, những giới hạn của CNTB cản trở sự phát triển của nhân loại theo hướng tiến bộ. Tương lai của xã hội loài người không phải là CNTB, đây là tất yếu khách quan sự phát triển của lịch sử. 2.2. Chủ nghĩa xã hội - tương lai của xã hội loài người Ước mơ về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, không còn bóc lột, áp bức, bất công đã sớm xuất hiện ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, nhất là từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp. Thành công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của nước XHCN đầu tiên trên thế giới, chấm dứt gần 3 thế kỷ chế độ TBCN độc tôn trên bản đồ chính trị thế giới; đã biến CNXH từ lý luận khoa học trở thành hiện thực sinh động; đã khai sinh ra một hình thái kinh tế - xã hội mới trong lịch sử nhân loại có xu hướng phủ định biện chứng hình thái kinh tế - xã hội TBCN. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại phát triển mới, cứu nhân loại thoát khỏi chủ nghĩa phát xít, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ nền hòa bình thế giới… Tuy nhiên, vì nhiều lý do, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã rơi vào khủng hoảng và sụp đổ vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Song, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đã khẳng định, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của mô hình CNXH cụ thể, không phải là sự cáo chung của CNXH và chủ nghĩa cộng sản với tư cách là mục tiêu, lý tưởng, về một xã hội tốt đẹp, một hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Sau khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào. Các nước XHCN còn lại đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện, kiên trì con đường đi lên CNXH với những chủ trương, chính sách rộng mở, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhờ đó chế độ XHCN ở những nước này không chỉ đứng vững mà còn tiếp tục được đổi mới và phát triển. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; Cuba hiên ngang đứng vững trước bao vây cấm vận, kiên định xây dựng quốc gia XHCN độc lập, có chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và bền vững; các nước XHCN khác đều có nhiều thành công trong xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội... Đời sống của nhân dân ở các 119
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nước XHCN không ngừng được nâng lên, niềm tin vào chế độ được giữ vững, củng cố vững chắc. ĐCS ở mỗi nước luôn được xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao phẩm chất, trình độ năng lực lãnh đạo đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Các nước XHCN cũng tích cực tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề mang tính toàn cầu, thể hiện được bản chất ưu việt của chế độ XHCN trong xây dựng, bảo vệ con người, môi trường sống lành mạnh. Không chỉ thể hiện sức sống ở các quốc gia XHCN, CNXH còn hiện diện trong các phong trào đấu tranh nhân dân rộng lớn trên toàn thế giới đang phê phán, bác bỏ mô hình tự do mới TBCN và năng động đưa ra các phương án thay thế vì một thế giới khác tốt đẹp hơn. Quen thuộc nhất là các phong trào trong khuôn khổ Diễn đàn Xã hội thế giới, Diễn đàn Sao Paulo, Diễn đàn chống chủ nghĩa đế quốc, Hội thảo Vì một thế giới cân bằng, Hội thảo Xã hội mới và các đảng chính trị…, được tổ chức thường niên tại Mỹ Latinh, quy tụ đông đảo công dân và các tổ chức dân sự toàn thế giới, trong đó có rất nhiều cá nhân và tổ chức đến từ các nước tư bản phát triển. Nói theo ngôn từ của C.Mác, đây chính là “những ô cửa sổ nhỏ” trong xã hội tư bản để nhìn về xã hội cộng sản tương lai. Đặc biệt, vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở khu vực Mỹ Latinh nổi lên phong trào của những người cánh tả trên lập trường dân tộc tiến bộ. Bằng con đường bầu cử dân chủ tư sản, nhiều đảng hoặc tổ chức chính trị xã hội cánh tả đã giành được chính quyền. Có nhiều nước đã tuyên bố xây dựng CNXH theo mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI”. Trong đó, Veneduela là nước khởi đầu cho trào lưu đi theo “mô hình CNXH của thế kỷ XXI”. Về tư tưởng, Veneduela lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng” và chính quyền nhân dân, xây dựng mô hình xã hội theo đó nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện công bằng xã hội. Về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước và hợp tác giữ vai trò chủ đạo, giành lại chủ quyền dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch...; thực hiện công bằng, giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hóa xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh, đấu tranh cho một thế giới đa cực dân chủ. 120
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Tất nhiên, sự xuất hiện mô hình "CNXH Mỹ Latinh thế kỷ XXI" còn nhiều điểm cần được tiếp tục nghiên cứu, theo dõi, nhưng rõ ràng những biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống mãnh liệt của CNXH hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Lalinh, thể hiện bước tiến mới của CNXH trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của CNXH, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của nhân dân lao động. Bên cạnh đó, mô hình xã hội dân sự ở các nước Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uy và Thụy Điển…) chứa đựng những giá trị tiến bộ về dân chủ, nhân quyền, những giá trị phúc lợi phục vụ người dân. Ở những nước này, chế độ TBCN vẫn là một thực tại hiện hữu, nhưng không thể phủ nhận những nhân tố, tiền đề cho CNXH, thậm chí có cả những mảnh ghép của xã hội tương lai đang định hình như nhà nước quản lý phát triển hiện đại, hạn chế được nhiều khuyết tật của kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội thông qua nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự; thực hiện chính sách phúc lợi xã hội hiệu quả, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, quan tâm giải quyết việc làm và những vấn đề xã hội nảy sinh; bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội... Có thể thấy rằng, đây là một loại quan niệm về mô hình tổ chức xã hội mong muốn cải biến CNTB thành CNXH. Nó cũng phản ánh xu thế, triển vọng của xã hội loài người là phải vượt qua CNTB để tiến tới CNXH. Ngay cả các học giả tư sản khi bàn về tương lai của xã hội loài người cũng khẳng định CNTB không phải là chế độ cuối cùng của lịch sử. Tuy không trực tiếp khẳng định đó là CNXH, chủ nghĩa cộng sản nhưng những dự đoán, mô hình, tiêu chí của xã hội hậu tư bản mà các học giả tư sản đưa ra chứa đầy những yếu tố của CNXH, đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, là một xã hội quan tâm đến cuộc sống của con người và vì con người, là xu thế sống hài hòa với môi trường sống… Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69). 121
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Như vậy, tương lai của xã hội loài người không phải là CNTB hay xã hội nào khác mà chính là CNXH với tính ưu việt và bản chất tốt đẹp: đó là xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, công bằng, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người… đây là quy luật phát triển khách quan phù hợp xu thế phát triển tất yếu của thời đại hiện nay. 3. KẾT LUẬN Mặc dù CNTB ngày nay đang có nhiều ưu thế và vẫn còn tiềm năng phát triển nhất định, song bản thân nó không thể khắc phục những mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể vượt qua được những giới hạn của CNTB đang cản trở sự phát triển của nhân loại theo hướng tiến bộ. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới cao hơn. Cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội của nhân dân lao động ở các nước TBCN đang phát triển mạnh mẽ. Các nước XHCN còn lại đang tiến hành công cuộc cải cách đổi mới nhằm phát hiện, tìm tòi và sáng tạo những phương thức, biện pháp phù hợp xây dựng, phát triển và bảo vệ CNXH. Đổi mới để tồn tại và phát triển vững chắc trở thành một nhu cầu nội tại của CNXH trong thế kỷ XXI. Tương lai không thuộc về CNTB mà sự quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [2]. Lộc, T. T. (2016). Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Cuba. Tạp chí châu Mỹ ngày nay, 04–2016. [3]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [4]. PV/VOV Bắc Kinh. (2017, October 26). Nhận diện Trung Quốc qua Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội 19. Báo Điện tử VOV. https://vov.vn/the-gioi/ho- so/nhan-dien-trung-quoc-qua-bao-cao-chinh-tri-trinh-bay-tai-dai-hoi-19- 687472.vov 122
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1