intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số thuận lợi và thách thức trong quá trình chuyển đổi số nền kinh tế Việt Nam thời gian qua

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số thuận lợi và thách thức trong quá trình chuyển đổi số nền kinh tế Việt Nam thời gian qua" nêu lên Một số thách thức sẽ là trở ngại lớn cho công cuộc số hóa, như: mức thanh toán bằng tiền mặt cao trong nền kinh tế, khả năng chậm thích ứng của người dân, quy mô trao đổi trong ngành kỹ thuật số còn hạn chế, chất lượng lao động thấp và việc thiếu liên kết giữa các ngành số hóa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số thuận lợi và thách thức trong quá trình chuyển đổi số nền kinh tế Việt Nam thời gian qua

  1. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Hoàng Hải Ninh1, Nguyễn Hữu Khoa2, Dương Quốc Khánh3 Tóm tắt: Mặc dù được đánh giá có những thành công bước đầu trong việc tạo dựng nền tảng cho chuyển đổi số một cách toàn diện trong giai đoạn tới, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức trong tiến trình chuyển đổi số nền kinh tế. Một số thách thức sẽ là trở ngại lớn cho công cuộc số hóa, như: mức thanh toán bằng tiền mặt cao trong nền kinh tế, khả năng chậm thích ứng của người dân, quy mô trao đổi trong ngành kỹ thuật số còn hạn chế, chất lượng lao động thấp và việc thiếu liên kết giữa các ngành số hóa… Việt Nam tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của chuyển đổi số nền kinh tế cũng như đưa ra các mục tiêu cụ thể trong tương lai qua Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chương trình chuyển đổi số quốc gia trong Chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số. Một số mục tiêu được Việt Nam đặt ra như: kinh tế số chiếm 30% GDP năm 2030; Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo dẫn đầu châu Á năm 2045. Đây là mục tiêu cao và rất thách thức, đòi hỏi Việt Nam cần có cách tiếp cận và giải pháp đột phá để thực hiện. Từ khóa: kinh tế số, chuyển đổi số, kinh tế Việt Nam 1. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Không có một định nghĩa chung đồng thuận về khu vực số, sản phẩm và giao dịch số, hoặc đơn giản định nghĩa về nền kinh tế số nói riêng (IMF, 2018). “Kinh tế số” thi thoảng được định nghĩa hẹp là các nền tảng trực tuyến và hoạt động hiện hữu trên các nền tảng này. Theo nghĩa rộng, nền kinh tế số là tất cả các hoạt động sử dụng dữ liệu số, trong nền kinh tế hiện tại là toàn bộ nền kinh tế. Được nhấn mạnh trong báo cáo của UNCTAD, nền kinh tế số có thể được gắn với việc sử dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại như robot, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data), và in ba chiều (3D). “Số hóa” được định nghĩa là một quá trình mà các công nghệ số, dịch vụ, sản phẩm, kỹ thuật và kỹ năng số đang được phổ biến rộng khắp trong các nền kinh tế và các doanh nghiệp sử dụng các yếu tố này (Brennen and Kreiss, 2014). Trong một báo cáo có tiêu đề “ Việt Nam ngày nay: Báo cáo đầu tiên của Dự án Tương lai Nền Kinh tế số Việt Nam” được thực hiện dưới sự hợp tác của Bộ Khoa học Công nghệ và Chính phủ Úc, kinh tế số được hiểu theo nghĩa rộng là: “Tất cả các doanh nghiệp và dịch vụ có mô hình kinh doanh chủ yếu dựa trên việc mua, bán sản phẩm, dịch vụ số, thiết bị hoặc cơ sở hạ tầng hỗ trợ”. Tại Liên minh Châu Âu, Kế hoạch Chiến lược 2016-2020 - Mạng Truyền thông, Nội dung và Công nghệ của “Kết nối DG” nêu rõ các mục tiêu của “tạo ra Một Thị trường số duy nhất cho tăng trưởng nhiều hơn, nhiều việc làm hơn, một thị trường mà người 1 Học viện Tài chính 2 Bộ Công Thương 3 Bộ Tài chính
  2. 78 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM dân, doanh nghiệp và các cơ quan hành chính công có thể tiếp cận liên tục và công bằng, họ cũng có thể cung cấp hàng hóa, nội dung và dịch vụ số trên thị trường này”. Chuyển đổi số được định nghĩa là “một quá trình nhằm mục đích cải thiện một thực thể bằng cách tạo ra những thay đổi đáng kể đối với các thuộc tính của nó thông qua sự kết hợp của công nghệ thông tin, máy tính, truyền thông và kết nối” (Vial, Gregory, 2019). Nói cách khác, chuyển đổi số là cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp bất kế quy mô và ngành nghề. Chuyển đổi số mô tả hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp sử dụng công nghệ để tối ưu quy trình hiện tại của họ và tăng trải nghiệm của khách hàng nhằm duy trì tính cạnh tranh và phù hợp trong nền kinh tế mới lấy khách hàng làm trung tâm. Tuy nhiên, chuyển đổi số không chỉ đơn giản là cài đặt một phần mềm mới, hoặc chuyển sang sử dụng điện toán đám mây, mà cốt lõi của chuyển đổi số là chuyển đổi mô hình kinh doanh đòi hỏi cả về chuyên môn kinh doanh kết hợp với tất cả các yếu tố liên quan tới doanh nghiệp. Mặt khác, chuyển đổi số được thúc đẩy bởi các thay đổi từ kì vọng của khách hàng trong bối cảnh kinh doanh có tính kết nối cao với các hiểu biết số. Tuy nhiên, việc thực hiện chuyển đổi đơn thuần bằng việc thay đổi công nghệ là chưa đủ, mà còn đòi hỏi kết hợp kinh doanh với yếu tố chuyên môn và hiểu biết số một cách thích hợp để đảm bảo thành công. Việt Nam – quốc gia đã trải qua bốn thập kỷ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, khoa học, công nghệ và đổi mới đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chuyển đổi số được thực hiện ở nhiều lĩnh vực ngành nghề, từ công nghệ chế biến chế tạo tới nông nghiệp, thương mại, thanh toán, vận tải, tài chính và giáo dục (Cameron A. và cộng sự, 2019). Việt Nam là một trong những nền kinh tế có nền kinh tế số tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á với tốc độ 38% một năm. Theo đó, khu vực số được kỳ vọng sẽ đóng góp khoảng 30% GDP vào năm 2030. Kinh tế số Việt Nam năm 2019 đạt giá trị 12 tỷ đô la Mỹ, đóng góp 5% GDP của đất nước, cao gấp 4 lần năm 2015 (Báo cáo của “e-Conomy SEA 2019”). Kinh tế Việt Nam đang thay đổi nhanh thông qua việc áp dụng công nghệ số. Một số ngành công nghiệp tại Việt Nam đang được số hóa nhanh chóng, bao gồm thương mại điện tử, du lịch, nội dung số và fintech. Đây là những ngành tiềm năng cho nền kinh tế số Việt Nam trong thời gian tới. Kết quả từ các nghiên cứu điển hình trong báo cáo “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới đến năm 2030 và 2045” cho thấy mức độ sẵn sàng trung bình cho chuyển đổi số. Bên cạnh đó, dù còn gặp khó khăn khi áp dụng công nghệ mới do các vấn đề tài chính và kỹ thuật nhưng doanh nghiệp trong các lĩnh vực này nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghệ số trong sản xuất. Ngoài ra, kết quả khảo sát cho thấy người tiêu dùng Việt Nam đang thích ứng nhanh chóng và chấp nhận các sản phẩm và dịch vụ mới của nền kinh tế số khi các ngành công nghiệp chuyển đổi. Những điều này có lợi cho việc thu hút đầu tư và phát triển nền kinh tế số của Việt Nam (Cameron A và cộng sự, 2019). Các ngành công nghiệp bao gồm công nghệ tài chính (fintech); viễn thông, sản xuất linh kiện điện tử và máy tính; và dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là cơ sở cho sự bùng nổ của nền kinh tế số của Việt Nam. Theo báo cáo tổng kết năm 2019 và định hướng 2020 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tổng doanh thu ngành CNTT-TT năm 2019 ước tính đạt 112.350 tỷ USD, với tổng giá trị nộp ngân sách nhà nước là 54.000 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu ngành CNTT-TT chủ yếu đến từ xuất khẩu CNTT-TT (81,5%). Bên cạnh đó, doanh thu
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 79 ngành phần mềm đạt 5 tỷ USD, tăng 500 triệu USD so với năm 2018. Tuy nhiên, doanh thu của ngành công nghệ số chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng 0,76%) trong doanh thu ngành CNTT. Xét về quy mô, ngành viễn thông tăng trưởng gần 19% với sự đóng góp của 50.000 doanh nghiệp công nghệ. Ngành CNTT duy trì tốc độ tăng trưởng 10%. Tính đến giữa năm 2018, Việt Nam có khoảng 30.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phần cứng, phần mềm, nội dung số và dịch vụ CNTT-TT. Trong đó, khoảng 9.500 doanh nghiệp đang thực hiện phát triển phần mềm số cho lĩnh vực tài chính, viễn thông, nông nghiệp thông minh và chính phủ điện tử. Thương mại điện tử là một trong những ngành phát triển nhanh nhất của nền kinh tế số Việt Nam. Thương mại điện tử là xu hướng kinh doanh và tiêu dùng tất yếu gắn liền với sự phát triển của công nghệ và phát triển dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Theo Cơ quan Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông tin Việt Nam (VECITA), thị trường thương mại điện tử của Việt Nam đang tăng trưởng 35% mỗi năm - nhanh hơn 2,5 lần so với Nhật Bản. Doanh thu bán lẻ trực tuyến của Việt Nam đạt 6,2 tỷ đô la Mỹ vào năm 2017, cao hơn gấp đôi so với năm 2019 . Hiện số lượng người tham gia mua sắm trực tuyến tại Việt Nam tăng đều và đạt mốc 40 triệu người. Điều này có nghĩa là cứ 2 người thì có 1 người tham gia mua hàng qua mạng. Tuy nhiên, tỷ trọng doanh thu từ lĩnh vực này so với mặt bằng bán lẻ cả nước chỉ đạt 4,2%. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục hoạt động với hiệu quả kém hơn so với các nhà cung cấp trực tuyến toàn cầu và mức tăng của người tiêu dùng trong nước. Mạng xã hội đang phát triển nhanh chóng ở Việt Nam với sự hỗ trợ của sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng người sở hữu thiết bị di động. Có 240 trang mạng xã hội và 63 trang tin tức số được tích hợp tại Việt Nam. Facebook Việt Nam đứng thứ 7 Facebook thế giới về lượng người sử dụng với ước tính khoảng 58 triệu người dùng . Ngành quảng cáo trực tuyến của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, đạt doanh thu 390 triệu USD vào năm 2016 và dự kiến sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2020 . Ngoài các doanh nghiệp, hầu hết khách quen của quảng cáo là các hộ kinh doanh và cá nhân bán hàng hóa và dịch vụ trực tuyến. Những nhóm này đã và đang đóng góp nhiều nhất vào sự tăng trưởng của quảng cáo trên mạng xã hội
  4. 80 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Tỷ trọng Kinh tế số trong GDP Con số này cho thấy vẫn còn cách khá xa mục tiêu đề ra cho năm 2025 khi tỷ trọng kinh tế số chiếm 20% GDP. Để đạt mục tiêu là rất thách thức và còn rất nhiều việc phải làm, đòi hỏi chúng ta phải quyết tâm, hành động mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, dư địa phát triển hiện nay nằm ở phần kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực. Do đó, Bộ sẽ phối hợp với các Bộ, ngành để thúc đẩy phát triển kinh tế số các ngành, lĩnh vực. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng còn nhiều thách thức để đạt được các mục tiêu đề ra, như: (1) Tỷ lệ sử dụng tiền mặt cao gây trở ngại đến phát triển một hệ thống giao dịch đồng bộ; (2) Tỷ lệ lao động có kỹ năng cao còn hạn chế (chỉ khoảng 10%) dẫn tới cản trở tiếp cận tới việc phát triển công nghệ; (3) Khả năng chia sẻ nguồn lực liên ngành còn thấp, khả năng liên kết khu vực hạn chế, đặc biệt khả năng ứng phó trước những rủi ro liên khu vực; (4) Chậm trễ trong xây dựng một số thiết chế pháp lý nhằm ứng phó các vấn đề mới trong nền kinh tế số, đặc biệt liên quan đến việc thu thuế trên nền tảng internet. Hơn nữa, chuyển đổi số nền kinh tế đòi hỏi một tiến trình phát triển tuần tự với nền tảng vững chắc. Theo Ngân hàng Thế giới, một nền kinh tế số được định nghĩa theo ba tầng. Tầng thứ nhất bao gồm các chính sách hỗ trợ vĩ mô và môi trường doanh nghiệp tổng thể, như: chính sách thuế, các hiệp định thương mại tự do và các chính sách cạnh tranh. Tầng thứ hai bao gồm các nền tảng cốt lõi để vận hành nền kinh tế số, như: (i) Khả năng truy cập, kết nối, (ii) Mức độ nhận thức người sử dụng, (iii) Các nền tảng số cho chi trả online, (iv) Logistics cho nền kinh tế số, (v) Chính sách, chương trình hành động cho chuyển đổi số. Cuối cùng, tầng thứ ba hướng đến sự phát triển sâu rộng hơn dựa trên các nền tảng cơ bản, như: doanh nghiệp số, thương mại điện tử, công nghệ thông tin - viễn thông (ICT) và chuyển đổi ngành công nghiệp theo hướng số hóa. Chuyển đổi số nền kinh tế đang trở thành xu hướng tất yếu trên toàn cầu. Trong sản xuất, công nghệ số đóng vai trò ngày càng tăng. Thứ nhất, công nghệ số hỗ trợ tự động hóa quy trình sản xuất, điều phối sản xuất theo quy trình tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, công nghệ số giúp giảm giá thành và thu thập thông tin liên tục cho các chủ thể nền kinh tế. Công nghệ số cung cấp nền tảng thanh toán số, định hình lại phương thức giao dịch theo hướng tiện ích và nhanh chóng hơn. Hơn thế nữa, thanh toán số cũng được xem là một nền tảng quan trọng thúc đẩy tài chính bao trùm, góp phần cải thiện tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ tài chính cơ bản, các chương trình xã hội (giúp đỡ người nghèo) đúng đối tượng. Cuối cùng, chuyển đổi số nền kinh tế kéo theo hình thành và phát triển mô hình kinh doanh mới trong hệ thống doanh nghiệp, từ đó dẫn tới sự phát triển bền vững nền kinh tế. Thêm vào đó, chuyển đổi số cũng góp phần hạn chế rủi ro trong nền kinh tế truyền thống như hạn chế tác động của đại dịch COVID-19 thông qua một số chương trình làm việc trực tuyến. Chuyển đổi số nền kinh tế đòi hỏi những nền tảng số quan trọng, bao gồm: Mức độ kết nối và tốc độ trình duyệt; nền tảng thanh toán số; nền tảng logistics; nền tảng giáo dục người sử dụng bao gồm cả giáo dục phổ thông và niềm tin vào quá trình chuyển đổi số; nền tảng số hóa của doanh nghiệp tư nhân; kế hoạch, chiến lược tổng thể quốc gia. Trong đó, mức độ kết nối, sự quan tâm của người dân tới dịch vụ internet là thông số quan trọng. Thực tế cho thấy
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 81 thời gian trung bình với các thiết bị sử dụng internet của người dân Việt Nam là khoảng 3,6 tiếng/ngày, cao gần gấp 2 lần so với Vương quốc Anh (1,8 tiếng/ngày), Mỹ và Nhật Bản (2 tiếng/ngày). Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ cạnh tranh các tổ chức thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông của Việt Nam cũng cao hơn so với các quốc gia Đông Nam Á. Hệ quả là giá dịch vụ internet của Việt Nam thuộc mức cạnh tranh nhất trong khu vực. Quy mô trao đổi các dịch vụ viễn thông, máy tính và sản phẩm công nghệ thông tin của Việt Nam tăng nhanh chứng tỏ xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số trong tương lai. Khả năng kết nối mạng internet của Việt Nam hiện nay cũng đang là một lợi thế lớn cho tiến trình chuyển đổi số với các thông số về người đăng ký băng rộng di động/cố định cao bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Ngược lại, về mặt thanh toán số, mức độ sử dụng các hình thức thanh toán số của người dân lại tương đối thấp so với khu vực, với khoảng 22%. Sự quyết tâm chuyển đổi số của Việt Nam đến từ khu vực doanh nghiệp với tỷ lệ sử dụng thanh toán số lên đến 51%. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng nhấn mạnh, Việt Nam có lợi thế trong việc sử dụng các nền tảng 3G/4G, theo đó, mức độ sẵn sàng của người dân chuyển đổi dịch vụ 3G sang 4G của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất so với các nước có cùng mức thu nhập. Nói cách khác, đây chính là cơ hội để Việt Nam có thể thích ứng với các công nghệ 4G tiên tiến hơn như hệ thống an ninh nhận diện gương mặt qua camera, ứng dụng du lịch ảo, nông nghiệp thông minh và tổng đài giải đáp video call. Chất lượng đường truyền, tốc độ dải băng di động/cố định tại Việt Nam tương đối đồng đều và cao hơn so với trung bình của khu vực Đông Nam Á (nếu loại trừ Singapore). Hơn thế, Việt Nam cũng được hưởng lợi từ tốc độ kết nối trung bình khu vực gia tăng - phản ánh tiềm năng phát triển và liên kết quốc tế của khu vực. Sự phát triển nhanh chóng của các nền tảng truyền thông xã hội cũng đang thay đổi đáng kể cách thức tương tác trên thị trường hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng được chấp nhận, sử dụng rộng rãi, đặc biệt trong việc quảng cáo sản phẩm, bán hàng,... Các nền tảng này cũng dần trở thành một kênh thông tin quan trọng trong quyết định mua hàng, kết nối bạn bè, gia đình và xã hội. Các nền tảng thương mại điện tử của Việt Nam cũng rất phong phú với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp, như Lazada, Tiki, Shopee,… Tỷ lệ tăng trưởng người tiêu dùng trên các nền tảng thương mại điện tử ở Việt Nam lên đến 63% trong năm 2017(5). Các loại hình dịch vụ của thương mại điện tử cũng phát triển không ngừng, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Tuy nhiên, hệ thống thuế chưa theo kịp với sự thay đổi trong mô hình kinh doanh mới này. Thêm một lợi điểm cho tiến trình chuyển đổi số của Việt Nam chính là hệ thống logistics đang được cải thiện cả về khối lượng vận chuyển và liên kết các hệ thống, góp phần giảm giá thành và cung cấp các loại hình dịch vụ đa dạng hơn. Theo đó, sự phát triển thương mại điện tử và các giao dịch từ xa đòi hỏi sức chứa của hệ thống logistics cải thiện như nâng cấp hệ thống kho bãi và các hub kết nối. Chỉ trong ba năm từ 2016 - 2018, chỉ số Hiệu suất logistics(LPI) của Việt Nam đã cải thiện từ vị trí 64 lên 39 trong danh sách hơn 160 quốc gia trên thế giới. Chất lượng và năng lực logistics của Việt Nam cũng được đánh giá cao hơn các quốc gia khu vực Đông Nam Á (trừ Singapore) và sắp đuổi kịp Trung Quốc.
  6. 82 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Cuối cùng, một trong những nền tảng quan trọng của chuyển đổi số chính là khu vực tư nhân. Tầm ảnh hưởng khu vực tư nhân trong chuyển đổi số dễ nhận thấy thông qua việc hiện diện tại Việt Nam của các tập đoàn tư nhân, như Grab, Traveloka, Go-Viet (GO-JEK), Lazada,... Không chỉ vậy, sự thích ứng nhanh chóng của khu vực tư nhân trong chuyển đổi số chính là chìa khóa quan trọng để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thế giới. Khu vực tư nhân Việt Nam ứng dụng công nghệ số phục vụ cho hoạt động kinh doanh tương đối tốt. Theo đó, tỷ lệ sử dụng e-mail và sở hữu website riêng của doanh nghiệp tư nhân để tương tác với khách hàng và nhà cung ứng lên đến 90% và 50%, so với 70% và 40% trung bình thế giới. 2. HẠN CHẾ TRONG CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Mặc dù có nhiều điểm thuận lợi cho xây dựng và phát triển nền kinh tế số một cách nhanh chóng, nhưng Việt Nam lại có không ít những thách thức, cả khách quan và chủ quan. Trong đó, một thách thức khách quan dễ nhận thấy chính là yếu tố địa lý và phân bố dân cư dàn trải. Điều này dẫn đến chi phí cao trong lắp đặt thêm các kết cấu hạ tầng và nâng cấp nền tảng sẵn có, đặc biệt tại các khu vực miền núi và vùng thường xuyên xảy ra thiên tai. Hệ quả là, một số khu vực có tốc độ đường truyền internet chậm và chất lượng kết nối băng rộng hạn chế.  Mặc dù người dân Việt Nam thích ứng nhanh chóng trong chuyển đổi số ở một số khía cạnh (như 3G sang 4G), nhưng đánh giá tổng thể theo chỉ số thích ứng chuyển đổi số toàn cầu (DAI), Việt Nam có vị trí tương đối khiêm tốn. Nhà nước và doanh nghiệp vẫn là hai khu vực thích ứng tốt hơn với chuyển đổi số tại Việt Nam, dẫu vậy, nếu so sánh với khu vực Đông Nam Á, Chính phủ Việt Nam cần quyết tâm hơn nữa trong tiến trình chuyển đổi số và đón đầu làn sóng công nghệ mới trong nâng cao năng suất, tăng trưởng kinh tế bền vững. Chỉ số thích ứng chuyển đổi số của doanh nghiệp tư nhân mặc dù chỉ thua Malaysia và Singapore trong khu vực, nhưng lại tồn tại những yếu điểm lớn: Quy mô doanh nghiệp chủ yếu vừa và nhỏ không thích ứng tốt với các công nghệ tiên tiến có mức đầu tư cao; công nghệ sử dụng chủ yếu ở cấp độ đơn giản (như e-mail, website) chưa thực sự thích ứng tốt với công nghệ có bản quyền nước ngoài. Quy mô thương mại dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật số của Việt Nam là tương đối hạn chế so với các quốc gia trong khu vực, như Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Hơn nữa, kết cấu hạ tầng cho tiến trình chuyển đổi số cũng có nhiều yếu kém, đặc biệt trong việc chia sẻ hạ tầng thụ động giữa các ngành như cáp quang và tháp phát sóng vẫn chưa được thiết lập hoặc quản lý chặt chẽ. Việt Nam còn phải đối mặt với thách thức lớn trong thanh toán số. Cụ thể, mức độ tin tưởng vào tiền mặt ở Việt Nam vẫn cao nhất trong khu vực và trên thế giới, với khoảng hơn 90% dân số. Trong khi hầu hết các quốc gia đã chuyển sang việc sử dụng các hình thức thanh toán online từ rất sớm. Việc chưa thể chuyển sang các hình thức thanh toán online tạo ra nhiều hệ quả nghiêm trọng, đặc biệt trong việc phát triển các hệ thống tích hợp trong giao dịch nội địa và quốc tế. Mức độ tiền mặt được lưu chuyển trong nền kinh tế cao cũng làm giảm hiệu quả các chính sách tiền tệ của Chính phủ, đặc biệt chính sách nhằm tạo ra các đòn bẩy tăng trưởng
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 83 cho nền kinh tế. Thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt sẽ là một khó khăn lớn tại Việt Nam khi “văn hóa vỉa hè” và hình thức kinh doanh nhỏ lẻ còn rất phổ biến. Trình độ lực lượng lao động của Việt Nam cũng là một thách thức để chuyển đổi số nền kinh tế. Người lao động Việt Nam chủ yếu thuộc nhóm có kỹ năng thấp với tỷ lệ hơn 40% (cao nhất khu vực Đông Nam Á) và chỉ khoảng 10% lực lượng lao động có kỹ năng cao (so với hơn 20% của Malaysia, Philippines và hơn 50% của Singapore). Trong khi đó, để thích ứng với các kỹ năng từ cơ bản đến nâng cao của quá trình chuyển đổi số và tự động hóa đòi hỏi số lượng lớn lao động có kỹ năng cao. Cuối cùng, một thách thức cho chuyển đổi số nền kinh tế Việt Nam là nâng cao độ phủ của các dải băng tần nhằm phù hợp với nhiều hoạt động, nhu cầu của người sử dụng cũng như giảm giá thành dịch vụ. Việc cải thiện độ phủ của các dải băng tần đòi hỏi sự hỗ trợ của Chính phủ. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO GIAI ĐOẠN TỚI Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới, Việt Nam đang ở giai đoạn xây dựng tầng thứ nhất và thứ hai của quá trình chuyển đổi số nền kinh tế; cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nền kinh tế thị trường và sáu ưu tiên quan trọng của nền kinh tế số (4L2C): “Liên kết - Lao động - Logistics - Lòng tin - Chính phủ điện tử - Chi trả online”: Thứ nhất, cải thiện tính liên kết người tiêu dùng với internet tốc độ cao và giá cả phải chăng thông qua thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng của hệ thống tư nhân. Tốc độ đường truyền và chất lượng các dải băng di động/cố định của Việt Nam được đánh giá là tương đối ổn định, tuy nhiên, để phát triển ở mức độ cao hơn cần có những hỗ trợ của Chính phủ trong việc nâng cao độ phủ các dải băng tần một cách đa dạng hơn nữa. Thứ hai, tăng cường giáo dục kỹ thuật số, thúc đẩy đào tạo nguồn lao động chất lượng cao. Giáo dục trong nền kinh tế số không chỉ để thúc đẩy sự nhận thức chung về cơ hội, thách thức của nền kinh tế số mà đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng lực lượng lao động có kỹ năng, sẵn sàng thích ứng và nắm bắt cơ hội. Thứ ba, tiếp tục cải thiện hệ thống logistics, đặc biệt trong liên kết kết cấu hạ tầng ngành và liên ngành nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Chỉ số Hiệu suất logistics có thể sẽ là một trong những chỉ báo quan trọng cho mục tiêu này. Theo đó, mặc dù Việt Nam đang có những thành công nhất định, nhưng việc hỗ trợ của Chính phủ trong kết nối, tổ chức, chia sẻ nguồn lực chung và cung cấp thêm một số “hàng hóa công” là chìa khóa then chốt để cải thiện chất lượng chuyển đổi số nền kinh tế. Thứ tư, củng cố lòng tin của người sử dụng thông qua bảo đảm các vấn đề liên quan đến bảo mật dữ liệu, an ninh mạng và hệ thống luật pháp công khai, minh bạch đối với hệ thống doanh nghiệp. Thứ năm, đẩy mạnh hình thức chi trả online. Theo đó, thanh toán kỹ thuật số là một phần thiết yếu và ưu tiên hàng đầu của nền kinh tế số. Việt Nam đang gặp thách thức lớn khi lượng sử dụng tiền mặt trên thị trường vẫn chiếm hơn 90%. Để đánh giá chỉ số này, Global Findex có thể là một chỉ báo quan trọng trong thời gian tới.
  8. 84 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Thứ sáu, xúc tiến nhanh hơn nữa một chính phủ điện tử. Chính phủ cần đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số. Sự tích cực dẫn dắt nền kinh tế chuyển đổi số của Chính phủ sẽ là chìa khóa quan trọng cho sự thành công của công cuộc này. Trong công cuộc chuyển đổi số nền kinh tế, Việt Nam đã có những thành công bước đầu trên nhiều khía cạnh. Sự thành công trong chuyển đổi số giai đoạn tiếp theo, với nguồn lực có hạn, đòi hỏi Chính phủ cần xác định rõ những chiến lược ưu tiên, đặc biệt phối hợp với khu vực doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi số. Dù đang đối mặt với nhiều thách thức, nhưng với sự quyết tâm cao độ của người dân và chính quyền, thì việc đạt được mục tiêu chương trình chuyển đổi số của Việt Nam đến năm 2025, định hướng 2030 sẽ sớm thành hiện thực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thông tin Truyền thông- Trung tâm Internet Việt Nam, 2019, Báo cáo Tài nguyên Internet Việt Nam. 2. Brennen S and Kreiss (2014), Digitalization and digitization, Culture Digitally, 8. http://culturedigitally. org/2014/09/digitalization-and-digitization 3. Cameron A, Pham T.H, Atherton J, Nguyen D H, Nguyen T P, Tran S T, Nguyen T N, Trinh H Y and Hajikowicz (2019), Vietnam’s future digital economy – Towards 2030 and 2045, CSIRO, Brisbane 4. IMF (2018), Measuring the Digital Economy 5. OECD, (2012a) 6. Vial, Gregory (2019), Understanding digital transformation: A review and a research agenda, The Journal of Strategic Information Systems. 28.10.1016/j.jsis.2019.01.003 7. Vietnam e-Commerce and Digital Economy Agency (2019). E-commerce White Book 2018. Vietnam. 8. European Parliament, European Artificial Intelligence (AI) leadership, the path for an integrated vision, September 2018.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2