intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề đặt ra trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường EU sau 2 năm thực thi EVFTA

Chia sẻ: Lệ Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số vấn đề đặt ra trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường EU sau 2 năm thực thi EVFTA" với mục tiêu hướng tới giải quyết các vấn đề trên, tận dụng ưu đãi thuế quan từ EVFTA và hướng tới phát triển xuất khẩu nông nghiệp bền vững sang thị trường EU, các chủ thể liên quan cần có chiến lược và kế hoạch hiệu quả trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề đặt ra trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường EU sau 2 năm thực thi EVFTA

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU SAU 2 NĂM THỰC THI EVFTA TS. Thái Quang Thế1 Tóm tắt Sau 2 năm áp dụng Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang (EU) đã có sự tăng trưởng mới. EU hiện là thị trường lớn thứ ba của xuất khẩu nông lâm thủy sản nước ta (sau Trung Quốc và Mỹ) với kim ngạch chiếm 11,75% thị phần. Với 27 quốc gia thành viên, hơn 511 triệu dân, GDP đầu người trên 35.000 USD, EU được đánh giá là thị trường lớn có mức thu nhập cao. Tuy nhiên, trong 2 năm qua, quá trình thực thi hiệp định EVFTA, một số mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường EU gặp phải một số vấn đề như việc tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, vi phạm các quy định về khai thác thủy sản… Chính vì vậy đã làm giảm vị thế của một số mặt hàng nông nghiệp trên thị trường. Để giải quyết các vấn đề trên, tận dụng ưu đãi thuế quan từ EVFTA và hướng tới phát triển xuất khẩu nông nghiệp bền vững sang thị trường EU, các chủ thể liên quan cần có chiến lược và kế hoạch hiệu quả trong thời gian tới. Từ khóa: nông nghiệp, nông lâm thủy hải sản, phát triển bền vững, EVFTA 1. Giới thiệu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), gọi tắt là Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ ngày 01/8/2020, mở ra những cơ hội và triển vọng to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Với 27 quốc gia thành viên, hơn 511 triệu dân, GDP đầu người trên 35.000 USD, EU được đánh giá là thị trường lớn có mức thu nhập cao, với nền kinh tế ổn định và đang phát triển mạnh mẽ. Đây là những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận một trong những thị trường hàng đầu thế giới. Năm 2021 thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỉ USD, tăng trưởng 14,8% so với năm 2020. Cụ thể, tổng giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU) đạt 45,8 tỉ USD, tăng 14,2%; còn EU xuất khẩu sang Việt Nam đạt 17,9 tỉ USD, tăng 16,5% so với năm 2020. (Bộ Công thương, 2022). Cho dù EVFT đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hơn nữa mới có thể xuất khẩu thành công vào thị trường EU. 2. Nội dung 2.1. Xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Theo Belay Seyoum (2009), “xuất khẩu” có thể hiểu là việc “trao đổi hàng hóa với 1 Học viện An ninh nhân dân Email: thaiquangthe@gmail.com Số điện thoại: 0969 619 785 945
  2. quốc gia khác có nhu cầu sử dụng nhằm mục đích kinh doanh sinh lời”. Theo WTO (2011), “xuất khẩu” là hoạt động “bán hàng hóa cho một quốc gia khác”, “hàng xuất khẩu được định giá theo giá trị giao dịch, bao gồm chi phí vận chuyển và bảo hiểm để đưa hàng hóa đến quốc gia khác”. Theo Luật Thương mại Việt Nam (2005), “xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định pháp luật”. Nông lâm thủy hải sản là một trong những lĩnh vực xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy hải sản bệ đỡ cho nền kinh tế và “tấm nệm” cho công tác an sinh xã hội năm 2021 (Tổng Cục thống kê, 2022). Đối với Việt Nam, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp là nguồn thu lớn, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển theo định hướng sử dụng có hiệu quả nguồn lực và lợi thế quốc gia, tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn và tăng cường thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại (Trần Thị Thu Huyền, 2020). Trong bối cảnh nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh tế bị gián đoạn, thiệt hại nặng nề, sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, an ninh lương thực quốc gia, đóng góp vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, khẳng định rõ là một trong những trụ đỡ kinh tế vững chắc trong mọi hoàn cảnh. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực. Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm (Tổng Cục thống kê, 2021). 2.2. Phương pháp nghiên cứu Bài viết được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp, thông qua tổng hợp và phân tích những báo cáo xuất khẩu qua các năm của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng cục Thống kê. Đồng thời, tác giả tổng hợp những công trình nghiên cứu nước ngoài để xây dựng cơ sở lý thuyết liên quan đến xuất khẩu. Ngoài ra, bài viết có tham khảo các nghiên cứu khoa học trong nước về vấn đề xuất khẩu sang EU nói chung và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sang EU nói riêng, từ đó tác giả có căn cứ để nhận diện những vấn đề mà các doanh nghiệp sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có thể gặp phải khi xuất khẩu sang thị trường EU và đưa ra những đề xuất hợp lý nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU. 946
  3. 2.3. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang thị trường EU sau gần 2 năm thực thi hiệp định thương mại tự do EVFTA Theo báo cáo năm 2021 và quý I/2022, xuất khẩu hàng hóa của ngành nông nghiệp lập kỷ lục 48,6 tỷ USD. Theo đó, năm 2021 kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản là 27,997 tỷ USD, tăng 11,95% so với năm 2020 (Tổng Cục thống kê, 2022). Quý I/2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 22,6 tỷ USD, tăng 6,3% so với quý I/2021; trong đó xuất khẩu đạt khoảng 12,8 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu ước khoảng 9,8 tỷ USD, giảm 3,5% (Bộ NN&PTTT, 2022). Giai đoạn 2020 - 2022, thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid- 19, nhưng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sang thị trường EU vẫn tăng trưởng tốt. Tận dụng những ưu đãi từ Hiệp định EVFTA, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU trong năm 2021 của Việt Nam (cà phê, hạt điều, cao su, rau quả, hạt tiêu, gạo và chè) sang thị trường EU trong 11 tháng năm 2021 đạt khoảng 2,2 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2020 (Bộ Công thương, 2022). Quý I/2022, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang EU ước đạt 1,67 tỷ USD, chiếm 13,2% tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của cả nước. (Hình 1.1.). (Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương)) Trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp chính vào EU, cà phê chiếm 42,2%, hạt điều: 33%, cao su: 7,9%, rau quả: 7,8%; hạt tiêu: 7,4%; gạo: 1,7%... (Hình 1.2) 947
  4. (Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương)) - Mặt hàng gạo: Trước khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực, xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị EU bị áp thuế 45%. Thậm chí một số nước trong khối áp mức thuế nhập khẩu với gạo Việt Nam lên tới 100% hoặc cao hơn. Tuy nhiên, kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU đã dành cho Việt Nam ưu đãi thuế suất 0% với hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm. Đặc biệt, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm sau 5 năm. Năm 2021, lượng gạo của Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 60.000 tấn, trị giá 41 triệu USD, tăng gần 1% về lượng, nhưng tăng hơn 20% về trị giá so với năm 2020. Trong đó, một số giống gạo đặc sản của Việt Nam như ST24, ST25 lần đầu tiên được xuất khẩu vào các thị trường này (VTV, 2022). Hai tháng đầu năm 2022 cũng ghi nhận con số xuất khẩu hơn 15.500 tấn gạo sang thị trường EU, thu về 11,7 triệu USD, tăng gần 4 lần về lượng và tăng 4,3 lần về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Trong khối EU, Italy dẫn đầu về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam khi tăng 26 lần so với cùng kỳ. Ngoài ra, còn một số thị trường chủ lực khác như Đức, Pháp, Hà Lan… (Bộ Công thương, 2022). - Cà phê: Xuất khẩu sang EU đã có 93% dòng thuế về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Năm 2021, xuất khẩu cà phê sang EU đạt 546,7 nghìn tấn với trị giá 1,0 tỷ USD, giảm 9,4% về khối lượng nhưng tăng 4,4% về giá trị so với cùng kỳ 2020. EU là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 40% giá trị xuất khẩu (Hiệp hội cà phê - cao su Việt Nam, 2022). Quý I/2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 581,7 nghìn tấn, trị giá 1,3 tỷ USD, tăng 28,3% về lượng và tăng 60,2% về trị giá so với quý I/2021. Trong đó, xuất khẩu cà phê sang khu vực châu Âu tăng mạnh nhất, tăng 92,6%. Tỷ trọng xuất khẩu cà 948
  5. phê sang châu Âu chiếm 54,39% tổng trị giá xuất khẩu trong quý 1/2022, cao hơn nhiều so với tỷ trọng 40,71% trong quý 1/2021. (Báo Nông nghiệp Việt Nam, 2022). - Hồ tiêu: Đối với Hiệp định EVFTA, các nước EU cam kết xóa bỏ thuế quan đối với sản phẩm hạt tiêu (mã HS 0904) ngay khi Hiệp định có hiệu lực. EVFTA có hiệu lực sẽ là đòn bẩy tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu vào các nước EU (đặc biệt là đối với các sản phẩm chế biến trước đây có mức thuế từ 5 - 9%). Ưu đãi từ Hiệp định đang được tận dụng hiệu quả khi kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang EU trong 11 tháng 2021 đạt khoảng 40 nghìn tấn, tương đương 165 triệu USD, tăng 7,4% về lượng và tăng mạnh 63,9% và trị giá xuất khẩu so với cùng kỳ năm 2020. Các chủng loại hạt tiêu xuất khẩu chủ yếu sang EU là: mã HS. 09041120 – Hạt tiêu đen chưa xay hoặc chưa nghiền (đạt 92 triệu USD, tăng mạnh 62,5% so với cùng kỳ 2020 và chiếm 55,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang EU) và mã HS. 09041110 - Hạt tiêu trắng chưa xay hoặc chưa nghiền (đạt 40 triệu USD, tăng 58,8%, chiếm 24,1%). EU chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong 11 tháng năm 2021 (Bộ Công thương, 2022). - Hạt điều: Kim ngạch xuất khẩu hạt điều năm 2021 đạt kỷ lục 3,64 tỉ USD. Trong đó, Đức và Hà Lan hiện là những đầu mối thương mại quan trọng vì 2 thị trường này vừa nhập khẩu để tiêu dùng nội địa, vừa tái xuất sang các thị trường khác trong khối. Đặc biệt, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang Đức năm 2021 đạt trên 19.000 tấn, trị giá vượt 122 triệu USD, tăng 9,5% về lượng và tăng 6,2% về trị giá. Bộ Công Thương dự báo nhu cầu tiêu thụ hạt điều của Đức sẽ tăng trưởng bình quân 4,1% trong giai đoạn 2020-2025 và Việt Nam vẫn là nguồn cung hạt điều số 1 tại thị trường Đức nhờ nguồn cung ổn định và chất lượng đảm bảo (Bộ Công thương, 2022). Xuất khẩu hạt điều sang các thị trường khác như Pháp, Tây Ban Nha, Ba Lan, Phần Lan… cũng đạt mức tăng trưởng khá ấn tượng, trong đó, riêng thị trường Phần Lan, chỉ 11 tháng năm 2021 đã đạt trên 63.000 tấn, trị giá hơn 345 triệu USD, tăng 12,3% về lượng (Bộ Công thương, 2022). - Chè: Đối với Hiệp định EVFTA, các nước EU cam kết xóa bỏ thuế quan đối với sản phẩm chè ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tận dụng ưu đãi từ EVFTA, trong 11 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu chè sang EU đạt khoảng 3 triệu USD, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm 2020 dù giảm 16,4% về lượng xuất khẩu, cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đang chuyển trọng tâm sang xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao. Đây là định hướng phù hợp với thị trường EU với mức thu nhập khá cao, người tiêu dùng tại đây cần những sản phẩm thương hiệu gắn với chất lượng sản phẩm hơn là giá cả cạnh tranh. Việt Nam là một trong những các quốc gia hàng đầu có sản phẩm chè xanh và chè đen xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tuy nhiên thị phần chè Việt Nam tại thị trường này còn rất hạn chế, sản lượng xuất khẩu chưa cao. Thị trường EU cũng mới chỉ chiếm 1,7% tổng kim 949
  6. ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong 11 tháng năm 2021. (Bộ Công thương, 2022). Trong số các thị trường thành viên EU, chè Việt Nam được xuất chủ yếu sang các nước: Ba Lan (đạt 1 triệu USD), Đức (đạt 601 nghìn USD) và Bỉ (đạt 410 nghìn USD). EU là thị trường tiềm năng và quan trọng của ngành chè Việt Nam với nhiều dư địa tăng trưởng. Tuy nhiên đây cũng là thị trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn gốc và chất lượng sản phẩm, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo sản phẩm chất lượng cao để vượt qua các rào cản kỹ thuật của thị trường (Bộ Công thương, 2022). - Cao su: Với EVFTA, cao su tổng hợp và các chất dẫn xuất sẽ không có lợi thế mới vì thuế suất đã đang là 0%. Tuy nhiên, các loại ống ghép nối bằng cao su và lốp cao su được miễn thuế ngay lập tức từ mức 3%-4,5% trước đây. Băng tải, băng truyền, hoặc đai tải bằng cao su sẽ được giảm theo kỳ hạn 5 năm từ 6,5%. Đây là động lực thúc đẩy xuất khẩu cao su và sản phẩm từ cao su. Trong 11 tháng 2021, xuất khẩu cao su sang EU đạt khoảng 100 nghìn tấn, tương đương 175 triệu USD, tăng 33,7% về lượng và tăng mạnh 72,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Các chủng loại cao su xuất khẩu chủ yếu sang EU là: mã HS. 40012240 - cao su tự nhiên đã định chuẩn về kỹ thuật (TSNR) CV (đạt 71 triệu USD, tăng mạnh 88,8% so với cùng kỳ 2020 và chiếm 40,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cao su sang EU); mã HS. 40012290 - TSNR loại khác (đạt 43 triệu USD, tăng mạnh 85,8%, chiếm 24,6%), mã HS. 40011011 - Mủ cao su cô đặc bằng phương pháp ly tâm (SEN) (đạt 21 triệu USD, tăng mạnh 87,4%, chiếm 12,1%),… Trong số các thị trường thành viên EU, cao su Việt Nam được xuất chủ yếu sang các nước: Đức (đạt 62 triệu USD), Italy (đạt 25 triệu USD), Tây Ban Nha (đạt 22 triệu USD) và Hà Lan (đạt 17 triệu USD). Tại thị trường EU, ngành công nghiệp – sản xuất – tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ (sản xuất máy bay, ô tô, xe máy, thiết bị, máy móc cho ngành chế tạo, y tế, hàng tiêu dùng…), nhu cầu tiêu thụ của EU đối với cao su và các sản phẩm từ cao su rất lớn, đặc biệt là các chủng loại cao su cao cấp (SVR CV) và chủng loại SVR 10, SVR 20, dự báo trong những năm tới, xuất khẩu mặt hàng này tiếp tục tăng trưởng tốt (Bộ Công thương, 2022). - Rau quả: EU cam kết mở cửa rất mạnh cho rau quả Việt Nam trong EVFTA, 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế phẩm từ rau quả (trong đó có nhiều sản phẩm là thế mạnh của Việt Nam như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa,…) được bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Phần lớn các dòng thuế EU cam kết xóa bỏ ngay hiện đều đang có mức thuế MFN trung bình là trên 10%, cá biệt có những sản phẩm rau quả đang chịu thuế trên 20%. Do đó, mức cam kết này của EU được đánh giá là sẽ tạo ra lợi thế lớn về giá cho rau quả Việt Nam (đặc biệt trong cạnh tranh nhập khẩu vào EU với các nước có thế mạnh về rau quả chưa có FTA với EU như Thái Lan, Trung Quốc, 950
  7. Indonesia) (Bộ Công thương, 2022). Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường EU sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực và đi vào thực thi đã đạt được kết quả tích cực. Trong 11 tháng 2021, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang EU đạt 173 triệu USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2020. Các chủng loại rau quả xuất khẩu chủ yếu sang EU là: mã HS. 20098999 - Các loại nước ép trái cây (kể cả hèm nho) và nước rau ép, chưa lên men và chưa pha thêm rượu, đã hoặc chưa pha thêm đường hoặc chất tạo ngọt khác - Loại khác (đạt 28 triệu USD, giảm 23,5% so với cùng kỳ 2020 và chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang EU); mã HS. 8109094 - Quả lựu, quả mãng cầu hoặc quả na, quả roi, quả thanh trà, quả chanh leo, quả sấu đỏ, quả táo ta, và quả dâu da đất (đạt 22 triệu USD, tăng 19,8%, chiếm 13%); mã HS. 08119000 - Quả và quả hạch (nuts), đã hoặc chưa hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đông lạnh, đã hoặc chưa thêm đường hoặc chất tạo ngọt khác - Loại khác (đạt 18 triệu USD, tăng 23,8%, chiếm 10,4%)… (Bộ Công thương, 2022). Trong 11 tháng năm 2021, EU là thị trường xuất khẩu rau quả lớn thứ tư của Việt Nam, chiếm 5,3% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Trong số các thị trường thành viên EU, rau quả của Việt Nam được xuất chủ yếu sang các nước: Hà Lan (đạt 71 triệu USD), Pháp (đạt 35 triệu USD) và Đức (đạt 20 triệu USD). Lượng rau, quả tiêu thụ có xu hướng ngày một tăng tại EU do thói quen ăn uống để bảo vệ, tăng cường sức khỏe. Tuy nhiên, thị trường EU đòi hỏi rất khắt khe về các truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu, nắm bắt rõ thông tin về thị trường, từ thị hiếu người tiêu dùng cho đến những quy định, tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ, an toàn vệ sinh thực phẩm… để từ đó gia tăng chất lượng hàng hóa, chinh phục thị trường “khó tính” này (Cục xuất nhập khẩu, 2022). - Thủy sản: Năm 2021, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU đạt trên 1 tỷ USD (tăng 12%); trong đó, xuất khẩu sang hầu hết các nước thành viên EU đều tăng. 5 thị trường lớn nhất gồm Hà Lan, Đức, Bỉ, Italy và Pháp (tổng cộng chiếm 72%). Xuất khẩu tất cả các sản phẩm chính sang EU đều tăng trưởng dương (trừ cá tra). Đặc biệt, xuất khẩu nghêu tăng trưởng mạnh nhất (tăng 42%) và trở thành loài thủy sản đứng thứ 4 về giá trị xuất khẩu sang EU (Cục xuất nhập khẩu, 2022). Cụ thể, xuất khẩu tôm tăng gần 19% đạt 613 triệu USD, chiếm gần 57% xuất khẩu thủy sản sang EU. Top 3 thị trường trong khối gồm Đức, Bỉ và Hà Lan, đều tăng nhập khẩu tôm Việt Nam: Xuất khẩu sang Đức tăng 25%, sang Bỉ tăng 19% và sang Hà Lan tăng 10%. Không chỉ xuất khẩu tôm chân trắng mà cả tôm sú sang những thị trường này đều phục hồi so với năm trước. Xuất khẩu tôm chân trắng sang Đức tăng mạnh 28%, xuất khẩu tôm sú sang Hà Lan tăng 54% (Cục xuất nhập khẩu, 2022). Về cá ngừ, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hơn 13%, đạt trên 144 triệu USD, tăng 951
  8. 6,4%, trong đó Mỹ nhập khẩu nhiều nhất các mặt hàng cá ngừ loin/phile đông lạnh (chiếm 44%). Xuất khẩu các sản phẩm cá ngừ chế biến khác tăng mạnh 43%, trong khi xuất khẩu cá ngừ tươi giảm 18%. Trong 3 thị trường lớn nhất là Italy, Đức và Tây Ban Nha, chỉ có Italy tăng nhập khẩu cá ngừ, 2 thị trường còn lại đều giảm nhập khẩu cá ngừ Việt Nam (Tổng cục Thủy sản, 2022). Xuất khẩu cá tra sang EU tiếp tục đà sụt giảm từ những năm trước, với mức tăng trưởng âm gần 17% và chỉ còn chiếm chưa tới 10% tổng xuất khẩu thủy sản sang thị trường này. Xuất khẩu đến top 4 thị trường Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha và Đức đều giảm (lần lượt là Hà Lan giảm 20%, Bỉ giảm 23%, Tây Ban Nha giảm 9% và Đức giảm 43%). Cước vận tải biển sang EU tăng mạnh là một trở ngại lớn đối với doanh nghiệp cá tra Việt Nam (Tổng cục Thủy sản, 2022). Năm 2021, xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ sang thị trường EU tăng mạnh 37% đạt 87 triệu USD, chủ yếu do xuất khẩu sản phẩm nghêu tăng 42% với 78 triệu USD. Nghêu trở thành loài thủy sản có giá trị xuất khẩu lớn thứ 4 sang thị trường EU. Trong đó, xuất khẩu nghêu sang 3 thị trường lớn nhất là Tây Ban Nha, Italy và Bồ Đào Nha đều tăng từ 38-44% (Tổng cục Thuỷ sản, 2022). Như vậy có thể thấy EU là một thị trường tiềm năng Việt Nam bước đầu đã tận dụng được lợi thế từ hiệp định thương mại EVFTA, bên cạnh những thành công bước đầu như trên, hoạt động xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để, trị giá xuất khẩu theo các năm còn thấp điều này cho thấy doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều vấn đề trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường. 2.4. Một số rào cản kỹ thuật trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU sau khi EVFTA được thực thi Từ khi EVFTA có hiệu lực, các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều cố gắng để cải thiện nhưng nhiều sản phẩm nông nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU vẫn còn chủ yếu dưới dạng thô, cạnh tranh về giá ở phân khúc thấp; các nhóm hàng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu sang EU mới chỉ tập trung vào nhóm cà phê, trái cây và hạt tiêu, thuỷ sản. Những hạn chế này đến từ nội tại ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam tạo nên những thách thức không nhỏ đối với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vào EU và gia tăng thị phần mà Việt Nam trong thời gian tới. Thứ nhất, EU là một thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm và các hàng rào kỹ thuật. Vì vậy, các chính sách quản lý sản phẩm nông nghiệp của EU nghiêm ngặt, đặc biệt các rào cản kỹ thuật của EU với sản phẩm nông nghiệp thực phẩm có xu hướng ngày càng khắt khe hơn… (Viện Công nghệ thực phẩm, 2021). Thực tế, Hiệp định EVFTA không có nhiều cam kết mới về các biện pháp phi thuế như các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) hay các rào cản kỹ thuật với thương 952
  9. mại (TBT). Trong khi đó, những biện pháp này mới được coi là rào cản khó khăn nhất đối với sản phẩm nông nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường. Tại Việt Nam, phương thức nuôi trồng và thực tiễn sản xuất vẫn chưa phù hợp để đáp ứng được các biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt. Để đáp ứng được các tiêu chuẩn, tuân thủ các quy trình theo chuẩn quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động sản xuất hoặc phương pháp sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến..., dẫn tới chi phí tuân thủ bị gia tăng, tạo áp lực về tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để hàng sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập sâu vào thị trường EU, vấn đề đặt ra là một mặt Việt Nam cần phát triển sản xuất hàng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chú trọng gắn liền với tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn khắt khe của EU; mặt khác, ở góc độ quốc gia cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại, đàm phán để tránh việc bị EU áp các rào cản kỹ thuật không hợp lý. Bên cạnh đó, người nông dân và doanh nghiệp phải đưa công nghệ truy xuất nguồn gốc vào từng khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Thứ hai, để tiếp tục chinh phục thị trường EU và được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định EVFTA, sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần đáp ứng các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa. So với các FTA mà Việt Nam đang thực thi, quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa đối với sản phẩm nông nghiệp trong Hiệp định EVFTA được đánh giá là chặt chẽ hơn khi tiêu chí xuất xứ hàng hóa áp dụng chủ yếu là xuất xứ thuần túy. Bên cạnh đó, Hiệp định EVFTA cũng giới hạn tỷ lệ sử dụng các nguyên liệu từ bơ, trứng, sữa và đường từ nước thứ ba ngoài lãnh thổ Hiệp định trong việc sản xuất hàng nông nghiệp. Thứ ba, khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận thị trường sản phẩm nông nghiệp EU. Nguyên nhân của thực trạng này là do năng lực nội tại về vốn, con người,… của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế. Từ đó, thời gian các doanh nghiệp có được để đáp ứng các yêu cầu về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch đã bị giảm đáng kể, dẫn đến tăng chi phí hoặc có thể hạn chế khả năng xuất khẩu. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường EU cũng chưa triển khai được tại tất cả các nước thành viên và phần nào chưa đi sâu vào đối tượng thụ hưởng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nông nghiệp tại thị trường này. Thứ tư, vấn đề sở hữu trí tuệ chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm đúng mức, trong khi đó, đây là nội dung được EU đặt lên hàng đầu. Tương tự như vậy, một số doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tới số lượng xuất khẩu, chưa thực sự quan tâm đến xây dựng thương hiệu. Vì vậy, việc quan tâm xây dựng và phát triển thương hiệu đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay đối với các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp của nước ta. Ngoài ra, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam còn gặp khó khăn do chi phí 953
  10. logictics trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp nói riêng còn cao và chịu cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Brazil,... 3. Những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU sau gần 2 năm thực hiện EVFTA Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, năng lực sản xuất kinh doanh, ngành nông nghiệp Việt Nam bước đầu đã tận dụng rất nhiều cơ hội từ Hiệp định EVFTA, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp nói riêng và phát triển bền vững đất nước nói chung trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh covid-19. Bên cạnh những cơ hội, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình đảm bảo tăng trưởng bền vững xuất khẩu vào thị trường EU. Cụ thể là: Thứ nhất, để khai thác hết tiềm năng cũng như tận dụng được các ưu đãi của EVFTA, một thách thức đối với các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đó là đáp ứng các yêu cầu an toàn nghiêm ngặt của EU về an toàn thực phẩm, biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật. Nếu EU phát hiện có bất cứ chất cấm nào tồn dư trong mẫu sản phẩm nhập khẩu, lô hàng đó sẽ bị từ chối và tiêu hủy, nhà sản xuất sẽ phải chịu toàn bộ chi phí tiêu hủy, thậm chí có thể bị truy tố và bị áp lệnh cấm xuất khẩu sản phẩm đó vào thời gian chờ đợi cơ quan có thẩm quyển của EU tiến hành điều tra và xử lý. Kể từ ngày 31/3/2020, EU đã cấm sử dụng Ethoxyquin (chất chống oxi hóa) để bảo quản sản phẩm có nguồn gốc sinh vật gây bệnh nhất định, EU không cho phép nhập khẩu nhằm tránh việc nhiễm và lây lan sâu bệnh hại cho thực vật và sản phẩm thực vật tại EU. Như vậy một số mặt hàng sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm thủy sản của Việt Nam sẽ đứng trước đòi hỏi rất cao từ phía khách hàng EU (Báo Công thương, 2021). Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam cần chuyên nghiệp hơn trong việc cung cấp thông tin truy xuất hàng hóa. Đây là một trong những thách thức với hàng xuất khẩu Việt Nam bởi nguồn nguyên liệu cho một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc và SE N như hạt điều. Nếu không đảm bảo được quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức thuế đãi ngộ MFN và không được mức thuế suất 0% như EVFTA. Các quy định về truy xuất nguồn gốc hàng hóa của thị trường EU ngày càng chặt chẽ và khắt khe hơn, điều này có thể khiến hàng hóa Việt Nam xuất vào EU bị áp thuế chống bán phá giá (baochinhphu.vn, 2020). Thứ ba, thách thức thứ 3 xuất phát từ sự thiếu liên kết chặt chẽ trong nông nghiệp giữa doanh nghiệp, nông dân và hợp tác xã sản xuất. Trong những năm gần đây, hàng hóa sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu sang EU đã bị từ chối hoặc bị giám sát, áp lệnh kiểm tra 100%. Lí do xuất phát chủ yếu từ khâu sơ chế, chế biến, khâu sản xuất hàng sản phẩm 954
  11. nông nghiệp. Quy trình sản xuất là một quy trình hoàn chỉnh mà ở đó doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn của nước nhập khẩu, tuy nhiên doanh nghiệp không thể giám sát 100% khâu sản xuất của nông dân hay hợp tác xã sản xuất vì những đối tượng này vẫn đang quen với cách thức sản xuất hàng hóa truyền thống, chưa quen với tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu. (Nguyễn Văn Minh, 2021). Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay có khoảng 55.000 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ngoài ra còn có 13.000 hợp tác xã nông nghiệp, 40 liên hiệp HTX đóng vai trò kết nối, liên kết với 10 triệu hộ làm nông nghiệp để tổ chức sản xuất. Tuy nhiên trong hơn 50.000 doanh nghiệp tham gia lĩnh vực nông nghiệp chỉ có 1000 doanh nghiệp trực tiếp liên kết với nông dân phát triển sản xuất. Như vậy có thể thấy mối liên kết trong lĩnh vực nông nghiệp còn lỏng lẻo, thiếu bền chặt dẫn tới không đảm bảo chất lượng sản phẩm nông nghiệp khi xuất khẩu sang EU (Bảo Loan và Dương Thành, 2019) Thứ tư, gỡ “thẻ vàng IUU” đối với xuất khẩu thủy sản là một bài toán cấp thiết cho ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Thẻ vàng IUU liên quan đến hoạt động khai thác trái phép, không khai báo và không theo quy định. Việt Nam nhận thẻ vàng IUU vì đã có nhiều tàu cá vi phạm IUU ở vùng biển nước ngoài. Trong thời gian từ đầu năm 2017 đến nay, hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam và EU vẫn diễn ra bình thường, nhưng các lô hàng sẽ bị tăng tần suất kiểm tra hồ sơ nguồn gốc sản phẩm khai thác nhập khẩu lên đến 100% các lô hàng. Việc EC phạt thẻ vàng với các lô hàng thủy sản của Việt Nam đã tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh, đánh bắt cá; sản lượng xuất khẩu sang thị trường EU có dấu hiệu chững lại. Điều này đỏi hỏi sự nỗ lực lớn từ phía Nhà nước và doanh nghiệp trong việc tháo gỡ thẻ vàng IUU và hiện nay đã có những tiến bộ đáng kể được EU ghi nhận (Nguyễn Văn Minh, 2021). Thứ năm, hoạt động quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong thực hiện trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là hoạt động quan trọng trong việc đảm bảo phát triển bền vững nói chung và phát triển xuất khẩu bền vững sang thị trường EU nói riêng. Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ về môi trường trong khuôn khổ các ràng buộc và điều chỉnh của hiệp định đa phương về môi trường và Hiệp định EVFTA. Dù có nhiều nỗ lực nhưng hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc khi áp dụng các tiêu chuẩn lao động. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi nhận thức về thực hiện trách nhiệm xã hội còn thấp và doanh nghiệp Việt Nam chú trọng nhiều đến lợi nhuận lên trên lợi ích của các nhân tố liên quan như cộng đồng, người lao động, môi trường (Nguyễn Văn Minh, 2021). Như vậy để đảm bảo phát triển bền vững xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU không chỉ dừng lại việc tận dụng cơ hội mà hiệp định EVFTA đem lại, doanh 955
  12. nghiệp Việt Nam còn phải giải quyết nhiều thách thức và hạn chế. 4. Kết luận Hiệp định EVFTA đi vào hiệu lực với một loại những ưu đãi về thuế quan, là cơ hội vàng cho xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Để có thể phát triển bền vững xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, các doanh nghiệp và Nhà nước sẽ phải có những hành động mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa trong thời gian tới để giải quyết các thách thức và tận dụng cơ hội mà hiệp định EVFTA đem lại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aksoy, M.A. and Beghin, J.C., (2005). Global Agricultural Trade and Developing Countries (The World Bank, Washington DC). 2. Asfaw, S., Mithöfer, D., & Waibel, H. (2010). What impact are EU supermarket standards having on developing countries' export of high-value horticultural products? Evidence from Kenya. Journal of International Food & Agribusiness Marketing, 22(3-4), 252-276. 3. Banson, K. E., Nguyen, N. C., Bosch, O. J., & Nguyen, T. V. (2015). A systems thinking approach to address the complexity of agribusiness for sustainable development in Africa: a case study in Ghana. Systems Research and Behavioral Science, 32(6), 672-688. 4. Báo Công Thương (2020), Nông sản Việt chinh phục châu Âu. Truy cập tại: https://congthuong.vn/nong-san-viet-chinh-phuc-chau-au-159634.html 5. 6Báo Hải quan online (2021), Nông sản đua nhau chinh phục thị trường “khó tính”. Truy cập tại: https://haiquanonline.com.vn/nong-san-dua-nhau-chinh-phuc-thi- truong-kho-tinh-151721.html 6. Báo Nông nghiệp Việt Nam (2022), Xuất khẩu cà phê đạt mức cao kỷ lục, Truy cập tại: https://nongnghiep.vn/xuat-khau-ca-phe-dat-muc-cao-ky-luc-d322145.html 7. Bộ Công thương (2022), Xuất khẩu nông sản sang EU nắm bắt cơ hội từ EVFTA, Truy cập tại: https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/xuat-khau-nong-san- sang-eu-nam-bat-co-hoi-tu-evfta.html 8. Bộ Công Thương (2020). Đánh giá tác động của Hiệp định EVFTA đến Việt Nam. Truy cập tại: https://www.moit.gov.vn/ 9. Bộ Công Thương, Báo cáo xuất nhập khẩu 2020, 2021, 2022 10. Hiệp hội cà phê - cao su Việt Nam (2022), Tình hình xuất khẩu cà phê tháng 12/2021 sang thị trường EU, Truy cập tại: http://www.vicofa.org.vn/tinh-hinh-xuat-khau- ca-phe-thang-12/2021-sang-thi-truong-eu-bid731.html 11. Hoda, Anwarul, and Ashok Gulati. India‟s agricultural trade policy and sustainable development. ICTSD issue paper 49 (2013). 956
  13. 12. Trần Thị Thu Huyền (2020), Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU, Tạp chí Công Thương, 04/2020 13. Bảo Loan, Dương Thành (2019), Liên kết doanh nghiệp và nông dân: Động lực phát triển nền sản xuất hàng hoá, Truy cập tại: https://diendandoanhnghiep.vn/rao-can- thuong-mai-ngay-cang-phuc-tap-trong-xuat-khau-nong-san-159374.html 14. Nguyễn Văn Minh (2021), Nhận dạng thách thức trong phát triển bền vững xuất khẩu nông sản sang thi trường EU. 15. Nguyễn Duy Nghĩa (2022), Kết quả xuất khẩu của nông nghiệp theo Tổng cục Thống kê, Truy cập tại: https://vneconomy.vn/ket-qua-xuat-khau-cua-nong-nghiep-theo- tong-cuc-thong-ke.htm 16. Tổng cục Hải quan, Báo cáo xuất nhập khẩu 2020, 2021, 2022. 17. Quốc hội (2005), Luật thương mại 2005. 18. Tổng cục thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2020, 2021. 19. Tổng cục thống kê (2022), tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bệ đỡ cho nền kinh tế và “tấm nệm” cho công tác an sinh xã hội năm 2021. Truy cập tại: https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/01/tang-truong-khu- vuc-nong-lam-nghiep-va-thuy-san-be-do-cho-nen-kinh-te-va-tam-nem-cho-cong- tac-an-sinh-xa-hoi-nam-2021/, truy cập ngày 26/4/2022 20. Tổng Cục thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý IV và năm 2021, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/12/bao-cao-tinh-hinh- kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2021/ 21. Tổng cục Thủy sản (2022), Nghêu là sản phẩm thủy sản có giá trị xuất khẩu lớn thứ 4 sang EU. Truy cập tại: https://tongcucthuysan.gov.vn/vi-vn/ngheu-la-san-pham- thuy-san-co-gia-tri-xuat-khau-lon-thu-4-sang-eu 22. Rivera-Ferre, M. G. (2009),Can export-oriented aquaculture in developing countries be sustainable and promote sustainable development? The shrimp case. Journal of Agricultural and Environmental Ethics, 22(4), 301-321. 23. Viện công nghệ thực phẩm (2021), Tiêu chuẩn Sản xuất của EU đối với các sản phẩm nông sản thực phẩm. Truy cập tại: https://firi.vn/trung-tam-ket-noi/tieu- chuan-cua-chau-au-doi-voi-cac-san-pham-nong-san-thuc-pham/ 24. VTV (2022), Nhiều cơ hội xuất khẩu gạo chất lượng cao sang EU, Truy cập tại: https://vtv.vn/kinh-te/nhieu-co-hoi-xuat-khau-gao-chat-luong-cao-sang-eu- 20220309115936058.htm 957
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0