Đỗ Đức Bình và ĐTG<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
79(03): 45 - 49<br />
<br />
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM<br />
DƢỚI GÓC ĐỘ HIỆU QUẢ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ<br />
Đỗ Đức Bình1, Nguyễn Tiến Long2*<br />
1<br />
<br />
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân<br />
Trường ĐH Kinh tế & QTKD - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
2<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Qua 25 năm đổi mới, nhờ có đổi mới cơ chế chính sách và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu<br />
của khoa học công nghệ, mặc dù trong bối cảnh chịu ảnh hƣởng của khủng hoảng kinh tế thế giới<br />
nhƣng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng dƣơng. Cụ thể, thời kỳ 2006 2010 bình quân tăng trƣởng 7%/năm (trong đó 2008: 6,23%; 2009: 5,32% và năm 2010: 6,78%).<br />
Tuy nhiên, số lƣợng tăng trƣởng của nền kinh tế tăng lên nhƣng chƣa chú trọng đến chất lƣợng và<br />
hiệu quả của tăng trƣởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chƣa cao. Bài viết trên cơ sở làm rõ<br />
những vấn đề lý luận về chất lƣợng tăng trƣởng, phân tích thực trạng chất lƣợng tăng trƣởng nền<br />
kinh tế Việt Nam thời gian qua, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng<br />
kinh tế theo hƣớng hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.<br />
Từ khoá: Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, nền kinh tế<br />
<br />
QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƢỢNG TĂNG<br />
TRƢỞNG KINH TẾ*<br />
Cho đến nay, đã có nhiều quan điểm khác<br />
nhau về chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế.<br />
Chẳng hạn, nếu tiếp cận từ “cơ cấu ngành<br />
kinh tế”, thì chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế là<br />
cơ cấu kinh tế tối ƣu và chuyển dịch cơ cấu<br />
kinh tế theo hƣớng nâng cao hiệu quả. Nếu từ<br />
góc độ “hiệu quả”, chất lƣợng tăng trƣởng<br />
kinh tế đƣợc hiểu là năng lực cạnh tranh của<br />
nền kinh tế, của doanh nghiệp hoặc của hàng<br />
hóa sản xuất trong nƣớc. Tổng quát hơn, theo<br />
quan điểm một số nhà kinh tế học nhƣ G.<br />
Beckeer, R.Lucas, J.Stiglitz,... thì cùng với<br />
quá trình tăng trƣởng, chất lƣợng tăng trƣởng<br />
đƣợc biểu hiện tập trung ở 04 tiêu chuẩn chủ<br />
yếu, đó là:<br />
1) Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao bảo<br />
đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trƣởng dài<br />
hạn và tránh đƣợc những biến động kinh tế từ<br />
bên ngoài;<br />
2) Tăng trƣởng đi kèm với phát triển môi<br />
trƣờng bền vững;<br />
3) Tăng trƣởng hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu<br />
quả quản lý của Nhà nƣớc, đồng thời quản lý<br />
Nhà nƣớc hiệu quả sẽ thúc đẩy tăng trƣởng ở<br />
tỷ lệ cao hơn;<br />
4) Tăng trƣởng phải đạt mục tiêu cải thiện<br />
phúc lợi xã hội và giảm đƣợc số ngƣời<br />
đói nghèo.<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912485659, Email: nguyentienlong@tueba.edu.vn<br />
<br />
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy thuộc vào điều<br />
kiện và gắn với từng thời kỳ phát triển nhất<br />
định của mình, mà từng quốc gia đã có những<br />
cách tiếp cận khái niệm về chất lƣợng tăng<br />
trƣởng khác nhau. Dù lựa chọn cách tiếp cận<br />
khái niệm về tăng trƣởng nhƣ thế nào, nhƣng<br />
theo chúng tôi, việc lựa chọn mô hình phát<br />
triển là hết sức quan trọng, phải xem xét đồng<br />
thời cả hai nhóm chỉ tiêu số lƣợng và chất<br />
lƣợng tăng trƣởng, nhưng trong đó phải thực<br />
sự coi trọng các chỉ tiêu chất lượng tăng<br />
trưởng (04 yếu tố với tư cách là 04 tiêu<br />
chuẩn nêu ở trên). Nói một cách khác, chất<br />
lƣợng tăng trƣởng phải đƣợc thể hiện ở năng<br />
suất, hiệu quả của các yếu tố đầu tƣ, phải đi<br />
liền với tính hiệu quả và nâng cao năng lực<br />
cạnh tranh của nền kinh tế, bao gồm cả các<br />
yếu tố đầu vào nhƣ việc quản lý và phân bổ<br />
các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất, lẫn<br />
các kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với<br />
chất lƣợng cuộc sống đƣợc cải thiện, các sản<br />
phẩm đầu ra đƣợc phân phối đảm bảo tính<br />
công bằng và góp phần bảo vệ và ổn định môi<br />
trƣờng sinh thái.<br />
KHÁI QUÁT HIỆN TRẠNG TĂNG<br />
TRƢỞNG VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG<br />
TRƢỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM<br />
Nhƣ chúng ta đều biết, ngay từ những năm<br />
đầu của thời kỳ đổi mới (từ nửa cuối của<br />
những năm 80 của thế kỷ trƣớc), đất nƣớc ta<br />
đã có những thay đổi khá ngoạn mục từ một<br />
45<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn43<br />
<br />
Đỗ Đức Bình và ĐTG<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nƣớc nhiều năm nông nghiệp tăng trƣởng âm<br />
(phải nhập khẩu một lƣợng lƣơng thực không<br />
nhỏ hàng năm) đã chuyển sang một nƣớc xuất<br />
khẩu lƣơng thực lớn đứng thứ hai thế giới.<br />
Trong 25 năm đổi mới, mặc dù thế giới đã trải<br />
qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính<br />
trầm trọng (bắt đầu vào năm 1997 và năm<br />
2008) gây suy thoái, suy giảm cao nền kinh tế<br />
trên toàn cầu, nhƣng nền kinh tế Việt Nam<br />
liên tục trong các năm đạt tăng trƣởng dƣơng.<br />
Cụ thể là:<br />
- Thời kỳ 1986 -1990 bình quân tăng trƣởng<br />
3,9%/năm;<br />
- Thời kỳ 1991 -1995 bình quân tăng trƣởng<br />
8,2%/năm;<br />
- Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân tăng trƣởng<br />
6,7%/năm;<br />
- Thời kỳ 2001 - 2005 bình quân tăng trƣởng<br />
7,5%/năm;<br />
- Thời kỳ 2006 - 2010 bình quân tăng trƣởng<br />
7%/năm (trong đó 2008:6,23%; 2009: 5,32%<br />
và năm 2010: 6,78%).<br />
Có đƣợc thành tích trên là do nhiều nguyên<br />
nhân, nhƣng trong đó phải kể đến sự tác động<br />
tích cực của quá trình chuyển đổi sang nền<br />
kinh tế thị trƣờng mở cửa, hội nhập kinh tế<br />
quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá<br />
toàn diện và vững chắc. Chính chuyển dịch cơ<br />
cấu kinh tế đã làm thay đổi cấu trúc của nền<br />
kinh tế, chuyển dịch hàng triệu ngƣời từ khu<br />
vực nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp<br />
và dịch vụ (trƣớc đổi mới cơ cấu kinh tế phải<br />
xây dựng là công – nông nghiệp – hiện đại,<br />
nay cơ cấu kinh tế phải hƣớng tới là công –<br />
nông nghiệp – dịch vụ, trong đó, công nghiệp<br />
và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong<br />
GDP, còn nông nghiệp ngày càng giảm).<br />
Mặc dù đạt đƣợc những thành tựu tăng trƣởng<br />
đƣợc phản ánh qua các con số kể trên, nhƣng<br />
có thể khẳng định rằng thời gian qua Việt<br />
Nam mới chỉ chú ý nhiều đến tăng trƣởng về<br />
lƣợng (theo chiều rộng), mà chƣa chú trọng<br />
đến chất lƣợng tăng trƣởng, hiệu quả tăng<br />
trƣởng (tức tăng trƣởng kinh tế theo chiều<br />
sâu). Trên thực tế, tăng trƣởng của ta đã bộc<br />
lộ không ít bất cập làm chất lƣợng tăng<br />
trƣởng thấp, không hiệu quả. Cụ thể là tăng<br />
<br />
79(03): 45 - 49<br />
<br />
trƣởng chủ yếu dựa vào thâm dụng vốn, tài<br />
nguyên và lao động. Tăng trƣởng không đi<br />
liền với hiệu quả, gây nhiều bất ổn trong xã<br />
hội và hủy hoại môi trƣờng sinh thái. Chính<br />
các vụ việc gây hủy hoại môi trƣờng của một<br />
số công ty đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)<br />
và những “kẽ hở lớn”, sự buông lỏng trong<br />
quy trình kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan<br />
quản lý Nhà nƣớc các cấp đang tiếp tục đặt ra<br />
vấn đề cấp thiết phải coi trong tiêu chí đảm<br />
bảo môi trƣờng là yếu tố quan trọng nhất của<br />
chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam<br />
hiện tại và tƣơng lai.<br />
Trong năm 2010, mặc dù tình hình quốc tế và<br />
trong nƣớc có nhiều khó khăn và bất ổn,<br />
nhƣng Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tích<br />
quan trọng và không đƣợc phép quá say mê,<br />
thổi phồng các thành tích đã đạt đƣợc. Theo<br />
báo cáo của Chính Phủ, có 16/21 chỉ tiêu đã<br />
hoàn thành và hoàn thành vƣợt mức so với<br />
Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, chất<br />
lƣợng tăng trƣởng vẫn chƣa cao, còn thiếu<br />
tính bền vững; tăng trƣởng kinh tế nhƣng<br />
chƣa gắn chặt với nâng cao đời sống nhân dân<br />
– đây là một thực tế chƣa mấy đƣợc cải thiện.<br />
Lạm phát cả năm ở mức gần 12%. Tăng<br />
trƣởng kinh tế nhƣng chỉ số ICOR rất cao.<br />
Điều đó có nghĩa là, đầu tƣ kém hiệu quả<br />
(trung bình phải bỏ ra 10 đồng vốn mới đƣợc<br />
1 đồng tăng trƣởng. Có lẽ ít nƣớc trên thế giới<br />
có chỉ số ICOR cao nhƣ Việt Nam – theo<br />
Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 14/01/2011).<br />
Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng đã đến lúc<br />
chúng ta phải có sự thay đổi mang tính “đột<br />
phá”, “cách mạng” về tƣ duy, nhận thức đối<br />
với tăng trƣởng kinh tế và chất lƣợng tăng<br />
trƣởng kinh tế; phải thay đổi mô hình tăng<br />
trƣởng để đảm bảo tính bền vững trong phát<br />
triển. Kiên quyết chấm dứt tƣ duy, quan điểm<br />
muốn GDP tăng cao thì cứ khai thác và bán<br />
tài nguyên đi; phải thực sự nghiêm túc và<br />
khoa học trong việc cân nhắc, lựa chọn giữa<br />
ra sức triển khai các dự án khai thác tài<br />
nguyên khoáng sản hay giữ lại đất rừng, đất<br />
ruộng để ngƣời dân sinh sống. Hoặc phải chặt<br />
phá hàng nghìn hecta rừng để làm thủy điện<br />
hơn là giữ rừng bảo vệ môi trƣờng sinh thái.<br />
Theo chúng tôi, đã đến lúc không đƣợc phép<br />
đề cao “tốc độ” tăng trƣởng mà phải là coi<br />
<br />
46<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn44<br />
<br />
Đỗ Đức Bình và ĐTG<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
trọng chất lƣợng tăng trƣởng (hiệu quả tăng<br />
trƣởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của<br />
nền kinh tế). Muốn vậy, không đƣợc phép<br />
chấp nhận sự phát triển bằng mọi giá; phải<br />
“giảm nhiệt” đối với sự đam mê thành tích;<br />
hạn chế và sớm chấm dứt triệt để tình trạng<br />
đẩy mạnh khai thác khoáng sản, dầu thô,… và<br />
khẩn trƣơng đem bán đi. Mọi tƣ tƣởng và<br />
hành động trái ngƣợc với xu thế này chỉ là xu<br />
hƣớng chạy theo tốc độ tăng trƣởng, vẫn<br />
ham tốc độ tăng trƣởng nhiều hơn chất<br />
lƣợng tăng trƣởng.<br />
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TĂNG<br />
TRƢỞNG KINH TẾ THEO HƢỚNG HIỆU<br />
QUẢ VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH<br />
TRANH CỦA NỀN KINH TẾ<br />
Từ thực trạng bất cập của mô hình tăng<br />
trƣởng dẫn đến chất lƣợng tăng trƣởng thấp<br />
nhƣ đã khái quát ở trên, chúng tôi cho rằng<br />
cần phải nhất quán quan điểm đổi mới chuyển<br />
đổi mô hình tăng trƣởng cho thích ứng với<br />
điều kiện và bối cảnh mới nhằm đảm bảo tính<br />
bền vững và ổn định trong phát triển. Cụ thể<br />
là phải chuyển mô hình tăng trƣởng dựa trên<br />
lao động rẻ, đầu tƣ vốn và tài nguyên lớn sang<br />
mô hình tăng trƣởng mới là dựa trên năng<br />
suất lao động, hiệu quả các yếu tố đầu tƣ và<br />
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của<br />
doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam trên<br />
thƣơng trƣờng. Để thực hiện thành công sự<br />
chuyển đổi này, trƣớc hết cần thực hiện tốt<br />
một số giải pháp sau:<br />
Nâng cao trình độ nhận thức, đổi mới tƣ<br />
duy, quan điểm của các cấp lãnh đạo từ<br />
Trung ƣơng đến địa phƣơng, ngành về<br />
chất lƣợng tăng trƣởng<br />
Đề cao chất lƣợng tăng trƣởng và không<br />
ngừng nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng<br />
không phải chỉ là “khẩu hiệu”, mà quan<br />
trọng hơn là phải đƣợc quán triệt về tƣ duy,<br />
nâng cao nhận thức và có quan điểm đúng<br />
đắn và nhất quán ngay từ khâu xây dựng<br />
đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách, trong<br />
hoạch định chiến lƣợc, trong kế hoạch dài,<br />
trung và ngắn hạn và đặc biệt là trong thực<br />
thi ở các cấp, ngành, các địa phƣơng, …<br />
<br />
79(03): 45 - 49<br />
<br />
Về tƣ duy, nhận thức và quan điểm cần phải<br />
thống nhất và nhất quán rằng một khi định<br />
hƣớng chính sách, mô hình chất lƣợng tăng<br />
trƣởng đúng, biện pháp thực thi và tổ chức<br />
thực thi tốt, tất yếu sẽ đƣa lại kết quả, mục<br />
tiêu nhƣ mong muốn. Trƣờng hợp mô hình,<br />
chính sách nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng<br />
đúng, nhƣng biện pháp thực thi, cũng nhƣ tổ<br />
chức thực hiện không phù hợp hoặc mô hình,<br />
chính sách về chất lƣợng tăng trƣởng không<br />
đúng, nhƣng chậm điều chỉnh một cách khoa<br />
học, thậm chí bảo thủ không điều chỉnh, thì cả<br />
hai trƣờng hợp đều dẫn đến ách tắc và rốt<br />
cuộc là chất lƣợng tăng trƣởng không nhƣ<br />
mong muốn (hiệu quả tăng trƣởng thấp).<br />
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách<br />
đầu tƣ theo hƣớng nâng cao chất lƣợng<br />
tăng trƣởng<br />
Để tạo đà tăng trƣởng và nâng cao chất lƣợng<br />
tăng trƣởng, không quốc gia nào không có<br />
nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ ngân sách Nhà<br />
nƣớc. Bên cạnh tính tích cực và tính hiệu quả<br />
xã hội của nguồn vốn đầu tƣ này (cần cho<br />
quốc kế dân sinh mặc dù có thể kém hiệu quả,<br />
dù phải lỗ, …), trong nhiều năm qua hệ số<br />
ICOR của khu vực Nhà nƣớc đã tăng lên<br />
nhanh chóng. Đầu tƣ Nhà nƣớc (gồm đầu tƣ<br />
NSNN, đầu tƣ bằng vốn trái phiếu Chính phủ,<br />
tín dụng đầu tƣ Nhà nƣớc và đầu tƣ của các<br />
DNNN) đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong<br />
tổng đầu tƣ xã hội, nhƣng hiệu quả không<br />
cao, đang phân tán và bao trùm ở hầu hết các<br />
ngành kinh tế, kể cả các ngành mà khu vực tƣ<br />
nhân có khả năng đầu tƣ phát triển.<br />
Để thực hiện tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả<br />
đầu tƣ công, phải xã hội hoá đầu tƣ công.<br />
Theo đó, không nên phân bổ đầu tƣ Nhà nƣớc<br />
vào các ngành, các lĩnh vực mà tƣ nhân trong<br />
nƣớc có thể kinh doanh nhƣ các loại dịch vụ<br />
thƣơng mại, nhà hàng khách sạn, … phải lấy<br />
hiệu quả kinh tế làm thƣớc đo và tiêu chí để<br />
quyết định các dự án đầu tƣ.<br />
Đối với việc thu hút FDI: không nên chỉ chú<br />
trọng thu hút FDI, mà phải chú ý đặc biệt đến<br />
vốn thực hiện và hiệu quả giải ngân vốn. Đã<br />
đến lúc phải loại bỏ việc “trải thảm đỏ” trong<br />
thu hút FDI, mà việc thu hút FDI phải gắn với<br />
47<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn45<br />
<br />
Đỗ Đức Bình và ĐTG<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
những điều kiện nhƣ “công nghệ xanh”, công<br />
nghệ ít tiêu tốn năng lƣợng, nhiên liệu, …<br />
kiên quyết loại bỏ công nghệ gây ô nhiễm<br />
môi trƣờng, hạn chế sử dụng công nghệ bậc<br />
trung, mà phải coi trọng công nghệ tiên tiến,<br />
hiện đại (công nghệ nguồn) ở những quốc gia<br />
công nghiệp. Tối ƣu là hƣớng vào thu hút các<br />
Công ty xuyên quốc gia - TNC thuộc Top 500<br />
TNC mẹ từ các quốc gia có nền kinh tế phát<br />
triển. Chỉ có nhƣ vậy, Việt Nam mới thực sự<br />
trở thành nƣớc công nghiệp vào năm 2020 và<br />
mới có điều kiện đảm bảo hơn cho việc tham<br />
gia vào mạng sản xuất, mạng phân phối và<br />
chuỗi giá trị toàn cầu - điều kiện đủ để phát<br />
triển bền vững trong tƣơng lai.<br />
Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài<br />
nguyên cho tăng trƣởng<br />
Đối với mỗi quốc gia nguồn tài nguyên hữu<br />
hình và vô hình đang sở hữu không phải là vô<br />
hạn. Do đó, nếu càng sử dụng và sử dụng kém<br />
hiệu quả, lãng phí thì tất yếu sẽ sớm cạn kiệt<br />
và nhiều khi phải trả giá đắt hơn nhiều so với<br />
lợi ích mang lại. Thực tế đã chứng minh nếu<br />
ra sức khai thác và sử dụng không có chiến<br />
lƣợc và không theo quy hoạch đồng bộ, khoa<br />
học chỉ vì mục tiêu đạt tốc độ tăng trƣởng thì<br />
chất lƣợng tăng trƣởng thấp và phải trả giá<br />
cho vấn đề xã hội và môi trƣờng. Chính vì<br />
vậy, để phát triển bền vững về cả kinh tế, xã<br />
hội và môi trƣờng, cần phải có chiến lƣợc,<br />
quy hoạch một cách khoa học để khai thác và<br />
sử dụng một cách hiệu quả các nguồn tài<br />
nguyên thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta đây là một lợi thế mà nhiều quốc gia (nhƣ<br />
Nhật Bản, Hàn Quốc, …) không có, hoặc nếu<br />
có nhƣng không dồi dào và đa dạng.<br />
Tăng số lƣợng và nâng cao chất lƣợng<br />
nguồn nhân lực<br />
Đất nƣớc sẽ vƣơn cao và hội nhập có hiệu<br />
quả, vững chắc bƣớc vào nền kinh tế khu vực<br />
và toàn cầu, nếu có chiến lƣợc đúng về con<br />
ngƣời. Đây là nhân tố quyết định nhất đến<br />
nâng cao năng suất lao động và tăng năng<br />
suất lao động một cách bền vững. C.Mác đã<br />
từng nhấn mạnh máy móc, thiết bị dù có hiện<br />
đại đến đâu, nhƣng nếu không có con ngƣời<br />
thì chúng chỉ là những vật chết. Tuy nhiên,<br />
không bất cứ ai, mà phải là những con ngƣời<br />
<br />
79(03): 45 - 49<br />
<br />
với những kiến thức, trình độ ngày càng cao<br />
và ngày càng sản sinh ra công nghệ tiên tiến,<br />
hiện đại và đƣa những thành tựu này vào cuộc<br />
sống vì chính con ngƣời. Trong thời đại ngày<br />
nay, thế giới đang bƣớc vào nền kinh tế tri<br />
thức, nơi “tri thức đang trở thành nhân tố<br />
quan trọng nhất quyết định mức sống - quan<br />
trọng hơn đất đai, hơn công cụ sản xuất, hơn<br />
lao động”. Đội ngũ trí thức (nguồn nhân lực<br />
có chất lƣợng) - những ngƣời sản sinh ra tri<br />
thức và ứng dụng sáng tạo tri thức sẽ có đóng<br />
góp ngày càng lớn cho sự nghiệp phát triển<br />
kinh tế, xã hội, … của quốc gia.<br />
Đáp ứng yêu cầu này, trong những năm tới<br />
ngành giáo dục và đào tạo tiếp tục phải có<br />
những điều chỉnh và đổi mới có tính đột phá<br />
một cách toàn diện và đồng bộ, nhƣng không<br />
đƣợc phép nóng vội, chủ quan, mà phải có lộ<br />
trình và bƣớc đi “bài bản” để góp phần cùng<br />
đất nƣớc sớm tạo ra một đội ngũ nhân lực đủ<br />
về số lƣợng, đặc biệt đáp ứng yêu cầu ngày<br />
càng cao về chất lƣợng của sự nghiệp CNH,<br />
HĐH, của hội nhập, cạnh tranh và phát triển.<br />
Đội ngũ này không chỉ có tay nghề, học vấn,<br />
trình độ khoa học công nghệ, mà còn phải có<br />
tính chuyên biệt cao, tính năng động và tính<br />
quyết đoán khoa học. Muốn vậy, đi liền với<br />
việc tiếp tục thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá<br />
giáo dục và đào tạo, đa dạng hoá loại hình,<br />
phƣơng thức đào tạo,… cần nâng cao hiệu<br />
lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát của các cơ<br />
quan quản lý và phải kiên quyết “thổi còi” đối<br />
với các đơn vị, cơ sở vi phạm để đảm bảo tính<br />
nghiêm minh, công bằng và hiệu quả. Bên<br />
cạnh đó, phải tạo ra môi trƣờng thuận lợi,<br />
thực sự hấp dẫn nhằm tạo điều kiện cho mọi<br />
ngƣời phát huy sức sáng tạo của mình cho đất<br />
nƣớc. Cụ thể là phải có cơ chế, chính sách<br />
tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ “nhân tài”<br />
một cách rõ ràng, minh bạch và hấp dẫn nhằm<br />
sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực có<br />
chất lƣợng của đất nƣớc.<br />
KẾT KUẬN<br />
Để có thể phát triển nền kinh tế Việt Nam<br />
nhanh và bền vững đáp ứng đƣợc yêu cầu của<br />
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải<br />
<br />
48<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn46<br />
<br />
Đỗ Đức Bình và ĐTG<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
có chiến lƣợc phát triển toàn diện. Tuy nhiên,<br />
trƣớc mắt cần tập trung nâng cao chất lƣợng<br />
và hiệu quả của tăng trƣởng, tạo đà cho nền<br />
kinh tế để có thể cạnh tranh mạnh mẽ trên thị<br />
trƣờng quốc tế. Thực hiện một số giải pháp cơ<br />
bản ở trên sẽ là tiền đề cho nâng cao chất<br />
lƣợng tăng trƣởng và sức cạnh tranh của nền<br />
kinh tế Việt Nam, để đến năm 2020 Việt Nam<br />
cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo<br />
hƣớng hiện đại.<br />
<br />
79(03): 45 - 49<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1]. Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam, năm<br />
2010, Hà Nội.<br />
[2]. Kinh tế Việt Nam 2009. CIEM, Nxb Tài chính<br />
2010, Hà Nội.<br />
[3]. Tạp chí kinh tế và phát triển, các số tháng<br />
12/2010 và số tháng 01/2011, Đại học Kinh tế<br />
Quốc dân, Hà Nội.<br />
[4]. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 28/12/2010;<br />
số ra các ngày 4, 14, 18 tháng 01 năm 2011, Hà<br />
Nội.<br />
<br />
SUMMARY<br />
THE QUALITY OF VIETNAM ECONOMIC GROWTH RATE UNDER THE<br />
VIEW POINT OF THE ECONOMIC EFFECTIVENESS AND COMPETITVE<br />
CAPABILITY OF THE ECONOMY<br />
Do Duc Binh1, Nguyen Tien Long2<br />
1<br />
<br />
National Economics University<br />
Thainguyen University of Economics and Business Administration – TNU<br />
<br />
2<br />
<br />
Over 25 years of innovation, with the innovative mechanism and policies, the effectivene<br />
appliation of scientific and technical achivements, the Vietnam economy maintained positive<br />
growth rate even though it is affected by the word economic crisis. In the period of 2006 – 2010,<br />
the average growth rate was 7% per year (of which 6.23% in 2008, 5.32% in 2009 and 6.78% in<br />
2010 in detail). However, the growth rate in quantity does not mean the high effetiveness, quality<br />
and competitve capability of the economy. This paper with the clarification of theoritical basis for<br />
economic growth quality analizes the current status of economic growth quality of Vietnam<br />
economy and proposes some solutions to improve the economic growth quality in the direction of<br />
high effectiveness and competitive capability for the economy of Vietnam<br />
Key words: growth quality, effectiveness, competitive capability, economy<br />
<br />
<br />
<br />
Tel: 0912485659, Email: nguyentienlong@tueba.edu.vn<br />
<br />
49<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn47<br />
<br />