intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mỹ thuật thời Tây Sơn

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

568
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra năm 1771 lật đổ chính quyền chúa Nguyễn. Năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi lập ra triều đại mới: Tây Sơn. Nhà Tây Sơn chỉ tồn tại trong vòng 14 năm song có nhiều biến động về lịch sử xã hội. Đó chính là những biến động trong nước trên các lãnh thổ nhà Tây Sơn - mà tiêu biểu là thời Quang Trung và đời tiếp theo là Quang Toản. Những năm 1788 - 1789 dân tình đói kém. Quang Trung ra chiếu " khuyến nông " - xã hội đi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mỹ thuật thời Tây Sơn

  1. Mỹ thuật thời Tây Sơn Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra năm 1771 lật đổ chính quyền chúa Nguyễn. Năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi lập ra triều đại mới: Tây Sơn. Nhà Tây Sơn chỉ tồn tại trong vòng 14 năm song có nhiều biến động về lịch sử xã hội. Đó chính là những biến động trong nước trên các lãnh thổ nhà Tây Sơn - mà tiêu biểu là thời Quang Trung và đời tiếp theo là Quang Toản. Những năm 1788 - 1789 dân tình đói kém. Quang Trung ra chiếu " khuyến nông " - xã hội đi vào ổn định, về đối ngoại tuy có nhiều hạn chế song đương thời không những nhà Thanh mà nhiều quốc gia láng giềng vị nể. Chỉ trong 14 năm nắm chính quyền nhà Tây Sơn đã có nhiều đóng góp to lớn không những cho sự ổn định xã hội mà còn tích cực xây dựng một nền mỹ thuật khá độc đáo và riêng biệt. Cũng như các triều đại khác luôn chú trọng việc xây dựng kinh đô, nhà Tây Sơn chọn Phú Xuân làm nơi xây dựng kinh thành sớm ổn định vững chắc cho việc điều hành triều chính. Đây là nơi mà địa hình thuận lợi, xung quanh có 4 đầm nước, năm lần hồ, địa thế 3 lần long sa, đằng trước là quần sơn chầu về la liệt, thu nước bên trái, vật lực thịnh giàu. Với một địa thế như vậy, kiến trúc xây dựng ở đây càng mang đậm nét riêng. Xây dựng nhiều phủ điện ngya nga rực rỡ, chạm khắc vẽ vời khéo đẹp vô cùng. Tường được trang trí bằng sành sứ thành rồng - lân - phượng - hổ và hoa cỏ. Ngoài ra còn có những bộ tranh lớn độc đáo và
  2. sinh động như bộ tranh 8 bức liên hoàn vẽ 100 em bé để trang hoàng trong cung điện. Kiến trúc kinh thành Phú Xuân rất có giá trị, tuy nhiên di vật còn lại đến nay rất hạn hữu. Một trong số đó có chùa Thiên Mụ - nơi lưu giữ hiện vật thời Tây Sơn. Nơi đây hiện còn lưu giữ 11 chiếc vạc đồng và nhiều hiện vật khác. Bên cạnh kiến trúc kinh thành, nhà Tây Sơn đã chủ tâm kế thừa, bổ sung và phát triển mảng kiến trúc tôn giáo. Tuy sự ổn định về văn hoá thời nhà Tây Sơn diễn ra trong một khoảng thời gian khá ngắn ngủi, mặc dù vậy mỹ thuật ở mảng này cũng có nhiều kết quả đáng ghi nhận: Chùa Kim Liên (Hà Nội) - 1792 - Chùa Tây Phương (Hà Tây) - 1794. Đền Vua Bà (Nghệ An) - 1798. Đình Niên Xá (Bắc Ninh) - 1800, Đình Phong Cốc (Quảng Ninh) - 1800… Tôn giáo gia nhập vào Việt Nam lâu đời tạo niềm tin vào cuộc sống cho nhân dân Việt. Tấm lòng người Việt luôn mang trong mình truyền thống hiếu đạo, tôn trọng tất cả những giá trị tâm linh. Bởi thế chùa chiền đền quán được xây dựng rất nhiều và từ lâu đời. Đây không những là chỗ dựa tinh thần cho con người mà kiến trúc của nó cũng làm ta nể phục bởi tài nghệ của nghệ nhân đương thời, chùa Kim Liên là một ví dụ. Đây là ngôi chùa vốn đã có từ trước qua thời gian và chiến tranh đã bị tàn phá và hư hỏng nay sang thời Tây Sơn được dựng lại hoàn toàn. Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XVIII, khác với kiểu chùa " Tram gian " Nội Công - Ngoại Quốc ở giai đoạn trước, có sự vây bọc kín, chùa thời này có sự thoát khỏi khuôn viên, tường bao bọc, mà hoà nhập vào thiên nhiên bằng cách dùng các vườn cây vườn cảnh bao bovj
  3. hoà trộn không gian chùa, các toà chùa cũng có sự khác biẹt. Một trong những kiến trúc độc đáo duy nhất thể hiện nét riêng cho kiến trúc thời này là khu Tam Quan chùa Kim Liên. Cùng thời với các toà chùa khu Tam Bảo, nét riêng ở đây là: dàn ra ba cửa, cửa giữa cao rộng hơn 2 cửa bên, tất cả chỉ có một hàng cột, toàn bộ sức nặng truyền xuống đất chỉ thông qua bốn cột dựng trên một đường thẳng thế mà đứng vững ngang nhiên trong nhiều cuộc đối đầu với gió bão. Ngoài ra các vì đỡ nóc là những con đường chồng đè xuyên qua cột được trang trí rồng mây, cả tầng trên của cổng giữa và tầng dưới của hai cổng bên. Đèu có mái toả về bốn phía và do đó có 8 hoa đao uốn cong vồng lên xum xuê bay bổng. Đây là một thành công lớn cả trong tính toán kỹ thuật và sáng tạo nghệ thuật. Bên cạnh đó khu Tam Bảo của chùa Tây Phương cũng là một kiến trúc đặc biệt độc đáo. Một điều đáng nói là khu Tam Bảo của chùa Tây Phương và chùa Kim Liên đều rất giống nhau: Gồm 3 toà nhà song hành thẻo kiểu chữ Tam ((). Đây là một sáng tạo của thời Tây Sơn, nhưng xung quanh xây tường và lắp cánh cửa bao quanh lại theo chữ Công (I) là kiểu truyền thống vốn phổ biến từ nhiều thế kỷ trước (Thế kỷ XV) nhưng nét độc đáo ở chỗ khi những cửa khép lại, tổng thể đóng kién theo chiều ngang song, chiều dọc vẫn mở luôn đón nắng gió làm cho nội thất thông thoáng và được chiếu sáng. Khoảng sân hẹp song cũng đủ rộng để xây bể nước vừa làm gương hắt sáng vừa đảm bảo độ âmr trong chùa.
  4. Cả 3 toà chùa đều dựng theo lối chồng diêm với nhau tầng mái xoè ra bốn phía xung quanh tất cả có 24 lá mái và 24 hoa đao. Cứ trùng điệp nhấp nhô, lặp lại mà đổi mới. Phần cổ diềm lắp ván cờ đồng nhìn bên ngoài như hai tầng song nột thất thống nhất một khối từ nền đến nóc tạo không gian thuận lợi cho việc bày tượng. Phần thân chùa trừ phía trước lắp cánh cửa, phần còn lại xây tường gạch Bát Tràng, nung già, mạch dày, để mọc như mảng kẻ ngang trang trí, trong đó mỗi mảng tường lại trổ cửa tròn " sắc - không " gồm nhiều vòng tròn đồng tâm, nửa đặc, nửa rỗng đan xen tạo mới vuông tròn đối đã và cũng là cách lưu thông không khí trong - ngoài. Vào bên trong, bộ khung chùa gồm những thành phần phải ưa nhìn gắn bó nhau bằng mộng mẹo xít xao, chủ yếu bào trơn đóng bén xoi giờ chạy chỉ, nhưng vấn giành tỷ lệ cần thiết để trang trí ở các mặt bẩy. Hai toà chùa trước và sau giống nhau về quy mô 3 gian 2 di về kích thước và cũng giống nhau về cả đề tài trang trí loại hoa lá nhiều thuỳ như lá ngô đồng, lá đu đủ hau thầu dầu, với hoạ tiết vừa rắn thật mạnh mẽ mà mềm mại. Đặc biệt là toà chùa giữa lại ngắn hơn (1 gian 2 dĩ) nhưng lại rộng hơn và cao hơn thì trang trí cũng khác hơn gồm hỏ phù - rồng - phượng, các đấu kê cột và đôi giường đều làm thành đoá sen nở rộ các dép đỡ hoành đều làm như con thuyền. Không như các thời trước kiến trúc tôn giáo đền chùa luôn lộng lẫy trang hoàng, các nghệ nhân thời Tây Sơn đã đưa nghệ thuật vào bên cái
  5. trang hoàng lộng lẫy thành một thể kiến trúc thống nhất tạo sự trang nghiêm mà gần gũi giản dị nhưng vẫn mang rõ nét riêng độc đáo cho triều đại mình. Kiểu kỹ thuật chạm nổi vừa phải tạo đường néy uốn lượn tươi mát hình rõ ràng nền thoáng… tất cả tạo nên cảm giác thanh thản, tranh nhã khác với sự cứng cỏi thời trước và sự vụn rối ở giai đoạn sau. Mỹ thuật Tây Sơn còn nổi trội bởi các tác phẩm điêu khắc mà tiêu biểu là tượng tròn. Nó mang nét riêng khắc hẳn tượng các thời khác. Mặc dù những tác phẩm này không hề ghi rõ niên đại vẫn xác định được đó là của thời Tây Sơn. Thời này đã để lại một số lượng tượng đáng kể: 18 vị tổ kế đăng; 8 vị kim cương; thái tử Vi Đà, bộ tượng Di Đà tam tôn, Di Lặc tam tôn, Tuyết Sơn… ở chùa Tây Phương. Với phong cách độc đáo kết hợp với đường nét hoa văn trang trí kiến trúc đặc biệt phù hợp với tinh thần xã hội rạng rỡ mà điêu khắc có một ấn tượng riêng mà lạ. Nổi trội là tượng chùa Tây Phương như: Tượng Tuyết Sơn đây là tượng Thái Tử Thích Ca Mâu Ni tượng truyền rời bỏ kinh thành lên núi cao có tuyết phủ để tu hành khổ hạnh quên thân mình tập trung suy tư. Tượng Tuyết Sơn ở thời này được diễn tả theo lối khác, bình dị hơn so với tượng Tuyết Sơn. Chùa Bút Tháp ở thế kỷ XVII. Đây là một ông già Việt Nam ở các làng quê mình dầy đét, bộ xương trên thân, mình nhiều hốc lõm, với đường nét quằn quại… tất cả đều biểu thị cái chết vật chất. Khối đầu có nhiều hốc lõm trên khuôn mặt nhưng hộp sọ tròn căng tập trung suy tư chứa chất cái
  6. sống tinh thần dồi dào. Tượng ngồi lặng yên, trầm tư mà cọ sự vận động nội tâm rất lớn. Hay như hệ thống Tổ Tế Đăng là những người nối tiếp nhau thắp sáng ngọn đuốc tuệ Phật giáo. Từ sau khi Đức Phật Thế Tôn nhập niết bàn theo lịch sử Phật giáo có 28 vị Tổ Tây Thiên và tiếp theo là 6 vị Tổ Đông Đô nhưng ở chùa Tây Phương chỉ có 18 vị Tây Thiên. Trong đó tượng Xà Da Đa mang nét riêng biệt làm ta dễ cảm nhận cuộc đời nghèo túng đau khổ, tai dài kéo xuống gần tới vai, mặt mang dáng vẻ bi thương, ngồi tĩnh toạ, bụng phệ một tay cầm liên ấn, tay kia buông xuôi, tư thế điềm đạm mà mang nét bi sầu thể hiện rõ trên khuôn mặt. Như hình hài được nghiên cứu giải phẫu gắn với tâm lý rất kỹ, lại được bày theo nhịp điệu mà không theo thứ tự nên thoáng hoạt. Các tượng chùa Tây Phương mang tính tượng chân dung nó làm toát lên vẻ người thực. Ví như các tượng Kim Cương là những thiên tướng có nhiệm vụ bảo vệ Phật giáo do đó mang tư cách hệ pháp. Là chàng thanh niên tráng kiện, có trang bị vũ khí là một cây gươm, tượng trong thế võ, hùng dũng, quả quyết mà đằng đằng sát khí nhưng vẫn mang được vẻ đôn hậu nhân ái. Y phục, võ quan nhưng dưới bàn tay của các nghệ nhân đương thời trở nên mềm mại, các dải và nép áo bay lượn trang trí nhiều mà không rối, các mảng chảy sóng mượt tạo cảm giác như người thật. Bên cạnh những tượng tròn thờ một thành tựu của nghệ thuật điêu khắc
  7. thời Tây Sơn là chững quả chuông rất lớn được đúc bằng đồng, trống đồng dáng cân đối, nhiều chuông có quai có hình một con rồng hoàn chỉnh vui mắt, khắc chữ sắc gọn. Một tác phẩm điêu khắc khổng lồ của mỹ thuật Tây Sơn là tượng Thánh Trấn Vũ ở đền Cư LInh. Tượng ở thế ngồi còn cao tới 3,8m, chỗ rộng nhất giữa hai đùi tới 5,9m nặng chừng 4000kg. Dù được tham khảo tượng cùng tên ở đền Quán Thánh (Hà Nội) đúc ở nửa sau thế kỷ XVII thì vẫn là một kỳ công của điêu khắc và của kỹ thuạt đúc đồng. Tựơng thể hiện một đạo sỹ, tay bắt quyết lại được phù trợ bởi con rắn quấn quanh lưỡi kiếm chống trên lưng rùa tạo sự huyến bì linh thiêng. Mỹ thuật Tây Sơn xứng đáng là một nền mỹ thuật đặc sắc riêng biệt, chỉ với một thời gian rất ngắn song mỹ thuật Tây Sơn đã thực sự làm giàu cho nghệ thuật dân tộc. Nó không những kế thừa, phát huy những nền mỹ thuật của các triều đại cũ mà còn phát triển mảng mỹ thuật đặc sắc riêng thể hiện đặc trưng cho triều đại mình và tạo tiền đề cho mỹ thuật thời sau phát triển. Nó hoàn toàn xứng đáng là một giai đoạn riêng rất riêng, làm cho con người đời sau thán phục./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2