intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Chia sẻ: Sở Trí Tu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

41
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ các nội dung: kỹ năng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng cho người lao động, nhu cầu kỹ năng của doanh nghiệp và mức độ đáp ứng kỹ năng của người lao động trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

  1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẰM ĐÁP ỨNG TỐT HƠN YÊU CẦU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ThS. Lê Quang Anh1 - ThS. Trần Quang Chỉnh2 Tóm tắt: Việt Nam đang tiến tới một giai đoạn phát triển mới, hội nhập sâu hơn với thế giới, đặc biệt, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang tiến tới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được dự báo sẽ làm thay đổi mạnh mẽ và toàn diện mọi khía cạnh trong cuộc sống từ kinh tế đến xã hội và văn hóa. Theo Klaus Schwab3, tỷ lệ thất nghiệp công nghệ sẽ tăng rất cao dưới tác động của cuộc cách mạng này, trong đó, những người có kỹ năng tốt sẽ tạo cho mình lợi thế cạnh tranh tốt hơn để có việc làm. Lúc này, giáo dục chứ không phải bất kỳ lĩnh nào khác phải gánh vác một sứ mệnh mới hết sức to lớn là xây dựng một lực lượng lao động với đầy đủ các kiến thức, kỹ năng cho một nền kinh tế thị trường hiện đại. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung làm rõ các nội dung: i) Kỹ năng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng cho người lao động, ii) Nhu cầu kỹ năng của doanh nghiệp và mức độ đáp ứng kỹ năng của người lao động trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư Từ khóa: kỹ năng nghề nghiệp, người lao động, yêu cầu kỹ năng của doanh nghiệp Abstract: Vietnam is moving towards a new stage of development, deeper integration with the world, in particular, Vietnam as well as many other countries that are moving towards the fourth industrial revolution, that is expected to make drastic and comprehensive changes in every aspect of life from economy to society and culture. According to Klaus Schwab, the technology unemployment rate will rise very high by the impact of this revolution, in which people with good skills will give themselves a better competitive advantage in order to find a job. At this time, education, not any other field, has to shoulder a huge new mission to training a work force with full knowledge and skills for a modern market economy. Within the scope of this article, the author will focus on clarifying the following contents: i) Professional skills and skills training for workers, ii) Skills needs of enterprises and skill level of workers in the enterprises. On that basis, it will propose solutions to improve the quality of professional skills training for workers to better meet the requirements of enterprises in the context of the fourth industrial revolution. Keywords: professional skills; labour;skill needs of enterprises. 1 Email: quanganhhrm@gmail.com, Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động – Xã hội. 2 Cục Việc làm. 3 Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Cuộc CMCN lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”, tháng 11 năm 2016.
  2. 484 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 1. KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP VÀ ĐÀO TẠO KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng, tuy nhiên, trong các tài liệu giáo dục, đào tạo, nhiều tác giả tiếp cận theo hướng khả năng và năng lực thực hiện. Theo quan điểm này, năng lực thực hiện được coi là sự tích hợp của ba thành tố kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để hoàn thành được từng công việc cụ thể của nghề. Ngày nay, với với phương pháp tiếp cận mục tiêu trong đào tạo, người ta không quan tâm nhiều đến việc trang bị thật nhiều kiến thức cho người học mà quan tâm đến kết quả đầu ra: sau khi kết thúc khóa học, người học sẽ có thể làm được những công việc gì để có thể tìm được việc làm và cống hiến cho xã hôi. Vì vậy, để đào tạo theo năng lực thực hiện, các nhà sư phạm nhấn mạnh đến việc dạy học tích hợp bộ ba kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để người học có thể vận dụng vào việc thực hiện các công việc cụ thể của một nghề. Như vậy, kỹ năng nghề nghiệp là khả năng của con người thực hiện công việc nghề nghiệp một cách có hiệu quả trong một thời gian thích hợp, với các điều kiện nhất định, dựa vào sự tích hợp nhuần nhuyễn các kiến thức, kỹ năng, thái độ. Theo quan điểm truyền thống, đào tạo là hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động tiếp thu và rèn luyện các kỹ năng cần thiết để thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Hiện nay, đào tạo theo năng lực hay đào tạo kỹ năng nghề nghiệp là một phương thức đào tạo mới, hướng tới vị trí việc làm của người học sau khi tốt nghiệp, quan tâm tới việc người học sẽ làm được gì sau quá trình đào tạo, chứ không thuần túy chỉ là biết được gì; quan tâm tới người dạy sẽ dạy như thế nào, để đánh thức tiềm năng, nhu cầu cần lĩnh hội kiến thức, kỹ năng của người học, chứ không phải chỉ là dạy nội dung gì cho người học. Vì vậy, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp là hoạt động nhằm trang bị kiến thức, rèn luyện các kỹ năng, thái độ để người lao động đảm nhiệm tốt các công việc theo đúng vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Thị trường lao động nói chung và doanh nghiệp nói riêng ngày càng đòi hỏi cao và yêu cầu khắt khe hơn về năng lực thực hiện công việc đối với người lao động. Do đó, ngoài những kỹ năng cứng như: “kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ”, người lao động cần phải có những kỹ năng mềm để đáp ứng tốt hơn với yêu cầu của doanh nghiệp và của thị trường lao động như: “ngoại ngữ; tin học; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng an toàn lao động và sức khỏe nghề nghiệp; kỹ năng kinh doanh; kỹ năng tư duy sáng tạo, tính chủ động; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng quản lý thời gian; kỹ năng tập trung”… 2. NHU CẦU KỸ NĂNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG KỸ NĂNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP Xác định nhu cầu kỹ năng của doanh nghiệp và đánh giá mức độ đáp ứng kỹ năng của người lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công tác định hướng cho hoạt động giáo dục - đào tạo. Nhận thấy tầm quan trọng đó, kể từ năm 2008 đến nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã giao Cục Việc làm chủ trì thực hiện “Điều tra Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp”, trong đó lồng ghép nhiều nội dung liên quan đến xác định nhu cầu kỹ năng của doanh nghiệp và đánh giá mức độ đáp ứng kỹ năng của người lao động trong doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy: Năng lực chuyên môn, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng an toàn lao động, sức khỏe nghề nghiệp là ba kỹ năng quan trọng nhất đối với yêu cầu của doanh nghiệp. Kết quả khảo sát trên 6.500 doanh nghiệp năm 2018 cho thấy: 91,4% doanh nghiệp cho rằng năng lực chuyên môn của người lao động là quan trọng nhất; tương tự, 79,4% và 79,3% doanh nghiệp cho rằng “kỹ năng giải quyết vấn đề” và “kỹ năng an toàn lao động và sức khỏe nghề nghiệp” cũng là 2 kỹ năng khá quan trọng đối với doanh nghiệp.
  3. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 485 Ngược lại, ngoại ngữ và tin học là hai kỹ năng ít quan trọng nhất1, với tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá mức độ quan trọng khá thấp tương ứng là 46,6% và 62,1%. Các kỹ năng còn lại được các doanh nghiệp đánh giá ở mức độ quan trọng tương đối như nhau. Hình 1: Cơ cấu doanh nghiệp phân theo nhu cầu kỹ năng đối với lao động, năm 2018 Nguồn: Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình DN, Cục Việc làm, 2018 Lao động quản lý là nhóm được đánh giá đáp ứng tốt nhất các yêu cầu kỹ năng của doanh nghiệp, ngược lại lao động trực tiếp sản xuất yếu nhất về mặt kỹ năng. Kết quả khảo sát cho thấy: 63,1% doanh nghiệp cho rằng lao động quản lý đáp ứng khá tốt/tốt yêu cầu về kỹ năng của doanh nghiệp. Tỷ lệ này đối với lao động gián tiếp là 54,8% và đối với lao động trực tiếp sản xuất là 49%. Đáng lưu ý, vẫn còn một tỷ lệ nhỏ doanh nghiệp đánh giá kỹ năng của lao động chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, cụ thể: 4,1% doanh nghiệp đánh giá lao động quản lý của họ chưa có đầy đủ kỹ năng đáp ứng công việc; tương tự, tỷ lệ này đối với lao động gián tiếp là 5,2% và lao động trực tiếp sản xuất là 7,8%. Hình 2: Cơ cấu doanh nghiệp phân theo mức độ đáp ứng kỹ năng của nhóm lao động, năm 2018 Nguồn: Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình DN, Cục Việc làm, 2018 Ngoại trừ các doanh nghiệp không yêu cầu về ngoại ngữ, trong số các doanh nghiệp còn lại, ngoại ngữ là kỹ năng thiếu hụt trầm trọng nhất đối với nhu cầu của doanh nghiệp. Kết quả khảo sát Đối với một số doanh nghiệp nhỏ và vừa, các yêu cầu công việc không đòi hỏi phải có các kỹ năng về ngoại ngữ và 1 tin học, do đó, khi trả lời phỏng vấn, họ lựa chọn đây là các kỹ năng ít quan trọng nhất đối với doanh nghiệp của họ.
  4. 486 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 cho thấy: có 32,3% doanh nghiệp cho biết lao động quản lý của họ thiếu các kỹ năng ngoại ngữ, trong đó có 3,7% thiếu ở mức nghiêm trọng; 47,1% doanh nghiệp thiếu lao động gián tiếp có kỹ năng ngoại ngữ và 55,3% doanh nghiệp thiếu lao động trực tiếp sản xuất có kỹ năng ngoại ngữ. Hình 3: Cơ cấu doanh nghiệp phân theo mức độ thiếu hụt kỹ năng của nhóm lao động, năm 2018 Nguồn: Điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình DN, Cục Việc làm, 2018 Bên cạnh đó, kỹ năng tư duy sáng tạo, tính chủ động và tin học là hai kỹ năng mà người lao động thiếu hụt cũng khá nhiều. Về kỹ năng tư duy sáng tạo và tính chủ động: có 38% doanh nghiệp cho biết họ thiếu lao động trực tiếp sản xuất có kỹ năng tư duy sáng tạo, tính chủ động đáp ứng tốt yêu cầu công việc; 29,1% và 16% doanh nghiệp thiếu lao động gián tiếp và lao động quản lý có kỹ năng tư duy sáng tạo và tính chủ động. Về kỹ năng tin học: có 41% doanh nghiệp cho biết lao động trực tiếp sản xuất của họ thiếu kiến thức và kỹ năng tin học; 22,9% doanh nghiệp thiếu lao động gián tiếp có trình độ và kỹ năng tin học; 15,7% doanh nghiệp thiếu lao động quản lý thành thạo kỹ năng tin học. Các kỹ năng khác: mức độ thiếu hụt kỹ năng của lao động ít trầm trọng hơn, đặc biệt, mức độ thiếu hụt kỹ năng đối với nhóm lao động quản lý ít trầm trọng nhất và trầm trọng nhất đối với nhóm lao động trực tiếp sản xuất. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng thiếu hụt kỹ năng của lao động trong doanh nghiệp: (i) Đào tạo vẫn tập trung vào cung cấp kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú trọng nhiều đến kỹ năng nghề nghiệp. Hoat động cải cách giáo dục và đào tạo nghề mặc dù đã tiến hành khá ráo riết trong thời gian gần đây, nhưng vẫn còn chậm, chương trình đào tạo có thay đổi nhưng chưa nhiều, trong đó vẫn tập trung vào các cung cấp, trang bị các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ hơn là đầu tư cho các chương trình phát triển kỹ năng nghề nghiệp. (ii) Sự gắn kết giữa nhà trường (cơ sở đào tạo) và doanh nghiệp còn yếu và khá lỏng lẻo dẫn tới đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp . Các trường đào tạo phải căn cứ vào mục tiêu, chỉ tiêu đào tạo của từng ngành/nghề, yêu cầu của xã hội về ngành/nghề đó để đào tạo cho học viên, sinh viên khi ra trường có thể đáp ứng yêu cầu công việc thực tế. Để đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc thì các doanh nghiệp sẽ là đơn vị nắm rõ nhất những kiến thức, kỹ năng
  5. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 487 cần có của một ứng viên. Nhưng sự hợp tác, kết nối với doanh nghiệp hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp chưa quan tâm và chưa sẵn sàng hợp tác với nhà trường, với các cơ sở đào tạo trong việc cung cấp thông tin trong quá trình điều tra, khảo sát nhu cầu đối với nhân lực cần đào tạo; cũng như chưa sẵn sàng tham gia góp ý, đánh giá các chương trình đào tạo. (iii) Đào tạo theo chuẩn đầu ra mới được xây dựng trong các chương trình đào tạo đại học, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự tiếp cận chuẩn đầu ra; đồng thời, chuẩn đầu ra dường như mới là “kỳ vọng” mà chưa thật sự được đào tạo trong các trường đại học. Hiện nay, mới chỉ có các cơ sở giáo dục đai học xây dựng và tuyên bố chuẩn đầu ra như là sự cam kết của nhà trường về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi sinh viên phải đạt được và vị trí công tác sinh viên có thể đảm nhận khi tốt nghiệp ở một ngành đào tạo hoặc ở một chương trình đào tạo. Tuy nhiên, việc xây dựng chuẩn đầu ra cho các ngành đào tạo đại học thực hiện trong bối cảnh Việt Nam chưa có khung trình độ quốc gia và cũng chưa xác định rõ cách thức và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện. Về bản chất, các chuẩn đầu ra dường như vẫn là “kỳ vọng” mà chưa thật sự là “cam kết” như cách tuyên bố của các trường. Trong khi đó, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự tiếp cận chuẩn đầu ra. (iv) Yêu cầu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thường xuyên thay đổi trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ là một thách thức lớn đối với công tác đào tạo và nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người lao động. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế và chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các nhiều loại hình ngành/ nghề, công việc mới xuất hiện, công nghệ thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi người lao động phải thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của công việc. Do vậy, đòi hỏi “đầu ra” cũng không được lạc hậu với yêu cầu của nhà tuyển dụng, đây là một thách thức rất lớn đối với các trường và cơ sở đào tạo. (v) Ngoài ra, việc huy động các nguồn lực đầu tư cho đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, phát triển kỹ năng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Ngân sách nhà nước đào tư cho đào tạo, giáo dục nghề nghiệp những năm gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đồng thời, việc huy động xã hội hóa trong đào tạo và giáo dục nghề nghiệp chưa hiệu quả. 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NHẰM ĐÁP ỨNG TỐT HƠN YÊU CẦU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Thứ nhất, đổi mới cấu trúc chương trình đào tạo, tăng thời lượng rèn luyện kỹ năng thực hành. Trong thiết kế chương trình đào tạo tại các trường và các cơ sở đào tạo hiện nay, cần tăng thời lượng thực hành phải đảm bảo để người học có đủ thời gian rèn luyện kỹ năng, nhằm đáp ứng được công việc sau khi ra trường; tích hợp các nội dung đào tạo một cách hợp lý giữa kiến thức chuyên môn và kỹ năng, thái độ, hành vi của người học. Đặc biệt, chú trọng tới các kỹ năng mà doanh nghiệp và thị trường cần như: ngoại ngữ, tin học, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề. Các kỹ năng này cần được đào tạo và hình thành ngay từ giáo dục phổ thông và tiếp tục được phát triển cho đến giáo dục nghề nghiệp hay giáo dục chuyên nghiệp. Thứ hai, gắn kết đào tạo nghề nghiệp với chủ sử dụng lao động, giữa nhà trường, cơ sở đào tạo với doanh nghiệp. Tăng cường các hoạt động hợp tác với đa dạng các mô hình và phương thức hợp tác giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp ở từng lĩnh vực, từng địa bàn, trên cơ sở lợi ích và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, để nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng tốt
  6. 488 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 hơn với doanh nghiệp và thị trường lao động. Cụ thể: phải quan tâm đến việc thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp vào hoạt động đào tạo của nhà trường. Để tránh việc doanh nghiệp cử những người không có vai trò quan trọng trong công ty cũng như không có thông tin về sự phát triển của doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đào tạo của các trường, các cơ sở đào tạo, cần có cơ chế, chính sách nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp tham gia hoạt động này. Chuyển việc thực tập nghề của học sinh, sinh viên, thực tập của giáo viên, giảng viên tại doanh nghiệp theo mối quan hệ cá nhân, sang trách nhiệm xã hội của cả doanh nghiệp với nhà trường, với cơ sở đào tạo với mục tiêu hình thành và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người học. Có cơ chế, chế tài đối với doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin, các kế hoạch, chiến lược của doanh nghiệp về nhu cầu kỹ năng đối với lao động trong hiện tại và tương lai. Thứ ba, thúc đẩy đào tạo theo chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng chuẩn đầu ra phải bắt đầu từ nghiên cứu thị trường lao động để phát hiện những yêu cầu, “tín hiệu” từ thị trường lao động, từ đó nắm bắt được kỹ lưỡng nhu cầu nguồn nhân lực trên các phương diện cụ thể: kiến thức, kỹ năng, thái độ của những ngành nghề cụ thể. Điều đó sẽ khắc phục được tính chung chung của chuẩn đầu ra, phân biệt được sự khác nhau giữa chuẩn đầu ra của cách ngành/nghề và giữa các bậc học. Trên cơ sở đó, căn cứ vào sứ mạng, mục tiêu, đặc thù, chiến lược phát triển của mỗi nhà trường để cải tiến, phát triển chương trình đào tạo những mã ngành học truyền thống, xây dựng chương trình đào tạo mã ngành học mới một cách phù hợp. Đồng thời, chuẩn đầu ra cũng phải dựa trên cơ sở những lý thuyết giáo dục tiên tiến nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng chuẩn đầu ra và tính ứng dụng phục vụ quá trình phát triển chương trình đào tạo. Thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc áp dụng chuẩn đầu ra đối với các trường đại học, đảm bảo đúng lộ trình đã đề ra. Đồng thời, tiếp tục xây dựng chuẩn đầu ra trong giáo dục nghề nghiệp. Thứ tư, nâng cao chất lượng dự báo nhu cầu kỹ năng nghề nghiệp trong doanh nghiệp. Trong đó, chú trọng phương pháp dự báo và chất lượng thông tin đầu vào phục vụ cho dự báo nhu cầu kỹ năng nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt, nâng cao chất lượng các cuộc khảo sát liên quan đến nhu cầu tuyển dụng và yêu cầu kỹ năng của lao động từ khâu thiết kế công cụ khảo sát, lựa chọn điều tra viên và giám sát viên, phương án khảo sát... để có thông tin tốt nhất phục vụ phân tích và dự báo nhu cầu kỹ năng nghề nghiệp. Thứ năm, đầu tư thích đáng cho phát triển giáo dục và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động từ nguồn ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội tập trung cho đào tạo, phát triển kỹ năng nghề nghiệp của học sinh, sinh viên đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phát triển kỹ năng nghề nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, TS. Nguyễn Hồng Hạnh, PGS.TS. Mạc Văn Tiến, NXB Thế giới, 2018 2. Nâng cao chất lượng xây dựng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo ở một số cơ sở giáo dục đại học nước ta, Hoàng Thị Hương, https://tapchigiaoduc.moet.gov.vn/vi/magazine/so-dac-biet-ki-2-thang-5/18-nang-cao-chat- luong-xay-dung-chuan-dau-ra-chuong-trinh-dao-tao-o-mot-so-co-so-giao-duc-dai-hoc-nuoc-ta-6034.html 3. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Cuộc CMCN lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”, tháng 11 năm 2016.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1