Đề bài: Nêu cảm nhận của anh (chị) về hai câu thơ: "Sóng biếc theo làn hơi gợn <br />
tí /Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. "Câu cá mùa thu" Nguyễn Khuyến<br />
Bài làm<br />
Mùa thu xưa nay vẫn luôn là mùa khơi gợi cho lòng người nhiều cảm xúc nhất. Nguyễn <br />
Khuyến có hẳn một chùm các bài thơ nói về mùa thu, mỗi bài mang một màu sắc, một <br />
góc nhìn riêng nhưng đều góp phần làm nên bức tranh mùa thu ở làng quê Việt Nam thật <br />
ấn tượng. “Câu cá mùa thu” là tên của một bài trong số đó. Giữa không gian ao thu, từ một <br />
chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”, cái nhìn của nhà thơ bao quát ra xung quanh:<br />
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí<br />
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”<br />
Một bức tranh thu cổ điển về thi liệu và thi đề. Đó là vẻ đẹp của “thu thuỷ”, “thu thiên” <br />
trong cái “cộng trường thiên nhất sắc” thường gặp trong ý thơ của người xưa. Bức tranh <br />
cảnh vật hiện lên sống động, hài hoà. Trên chiếc thuyền con nhìn ra, làn nước ao thu lạnh <br />
lẽo, trong veo đến hết độ sắc trong của nước, sóng biếc chỉ hơi khẽ gợn và lá vàng trước <br />
gió cũng cũng “khẽ đưa vèo”, nhẹ nhàng chuyển động. Câu thơ rất động nhưng là cái <br />
động nhẹ nhàng đến mức tinh vi. Lấy động tả tĩnh. Bút pháp quen thuộc trong thơ văn <br />
trung đại ở đây đã được sử dụng một cách đắc địa. Cái động làm phong phú đường nét và <br />
màu sắc của cảnh thu. Hơn thế nữa, nó khiến cho cái tĩnh lặng của không gian càng trở <br />
nên tĩnh lặng hơn. Chiếc thuyền đang ở trên mặt ao nhưng dường như tất cả những tác <br />
động mà nó gây ra cũng chỉ khiến cho làn ao hơi gợn sóng. Người ngồi trên thuyền phải <br />
trầm ngâm, yên lặng đến mức nào! Và cũng phải tĩnh lặng đến mức tuyệt đối thì mới <br />
nhận ra được chiếc lá thu “khẽ đưa vèo” trong không gian. Không chỉ là gợi hình ảnh mà <br />
dường như còn nghe thấy được tiếng lá rơi và những động thái chuyển động tinh vi của <br />
nó. Ấn tượng về bức tranh thu thanh vắng, quạnh hiu được tô đậm. Dường như chỉ có <br />
mỗi thi nhân trong vai trò ông già câu cá đối diện trước thiên nhiên thu nhỏ để lắng vào <br />
cõi suy tư. Tất cả đều hài hoà, hoà phối với nhau làm nên đường nét của mùa thu. Và sự <br />
hoà phối đã đạt đến mức tinh vi cao độ khi “Cái thú vị của bài thơ là ở điệu xanh, xanh ao, <br />
xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc <br />
lá thu rơi” (Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến đã dùng chiếc lá vàng để làm điểm nhấn cho <br />
bức tranh thu, gợi cho người ta một ân tượng vừa bất ngờ lại vừa thích thú. “Diệp lạc tri <br />
thu”, chỉ một chiếc lá vàng thôi cũng đủ để gợi ra hồn thu vĩnh cửu. Cái “đưa vèo” trong <br />
câu thơ gợi ta nhớ đến một câu thơ của Tản Đà khi ông cảm nhận sự đổi thay của thời <br />
thế: “Vèo trông lá rụng ngoài sân”. Phải chăng, đó cũng là cái “vèo” bay của lá của hai <br />
người nhưng cùng một tâm trạng?<br />
Cái tài của Nguyễn Khuyến là đọc cả bài thơ cũng như hai câu thơ, người ta vẫn cảm <br />
nhận được sự chuyển động của cảnh vật, nhưng tất cả những chuyển động ấy lại làm <br />
nên bức tranh thu tĩnh lặng tuyệt đối. Tĩnh lặng mà không chết lặng. Chỉ tĩnh lặng bởi <br />
mùa thu quá thanh khiết, nhẹ nhàng, còn người thơ thì lại quá trầm ngâm, tự lự. “Cảnh <br />
nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bức tranh cảnh thu đã hé <br />
mở cho ta về tình thu của người trong cảnh. Cái tĩnh lặng của bài thơ hay cũng chính là <br />
cái tĩnh lặng của một người trong lòng đang nặng trĩu suy tư. Là một nhà thơ có khí tiết <br />
trong sạch, giữa thời đại “Vua chèo còn chẳng ăn ai/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng <br />
hề” ông chọn con đường cáo quan về quê mà đã có lúc tự trào:<br />
“Cờ đang dở cuộc không còn nước<br />
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng”.<br />
Thái độ bất hợp tác “ra về” để giữ trọn thanh danh khí tiết trong thời kì trắng đen lẫn lộn <br />
là dứt khoát nhưng vẫn không thể tránh khỏi những lúc:<br />
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt<br />
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe<br />
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy<br />
Độ dăm ba chén đã say nhè”.<br />
Và có lẽ nên mùa thu của ông dù đẹp đến mấy thì cũng vẫn thấm đẫm buồn. Cảnh vật <br />
buồn mà lòng người thì lại càng buồn hơn. Mùa thu ở đây đã cho ta biết thêm về một tâm <br />
hồn thiết tha với thiên nhiên đất nước.<br />
Mùa thu, có lẽ nếu như trước đó đã có, và sau này vẫn sẽ có rất nhiều những bài thơ viết <br />
về nó nhưng người ta sẽ không thể nào quên được bức tranh “Câu cá mùa thu” của <br />
Nguyễn Khuyến.<br />