Đề bài: Nghị luận xã hội về việc giữ gìn bản sắc văn hoá qua truyện ngắn Một <br />
người Hà Nội của Nguyễn Khải<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài<br />
<br />
Dầu không thanh lịch cũng người Tràng An<br />
<br />
(Ca dao)<br />
<br />
Vâng, câu ca dao ấy đã khái quát những nét thanh lịch của con người mảnh đất ngàn năm <br />
văn hiến. Có lẽ, chính những nét đẹp đó đã để lại trong lòng mỗi người con của mảnh <br />
đất này thật nhiều hoài niệm. Là nhà văn sinh ra ở đất kinh kì, Nguyễn Khải đã thể hiện <br />
sự tinh tế nhạy cảm của mình trước những nét văn hóa rất riêng của Hà Nội qua truyện <br />
ngắn "Một người Hà Nội được rút từ tập “Hà Nội trong mắt tôi". Tác phẩm không chỉ <br />
thể hiện sự nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp văn hoá của miền đất này, không chỉ là sự <br />
xót xa cho sự mai một của những giá trị văn hoá, mà quan trọng hơn là cả tác phẩm đã để <br />
lại cho mỗi chúng ta thật nhiều suy ngẫm về việc giữ gìn bản sắc văn hoá trong cuộc <br />
sống hôm nay.<br />
<br />
Có thể nói, “Một người Hà Nội" là một truyện ngắn thành công của Nguyễn Khải. Tác <br />
phẩm xoay quanh nhân vật chính là bà Hiền trong mối quan hệ với sự biến đối của thời <br />
cuộc. Những nét đẹp tinh túy nhất của người Tràng An dường như đã được hội tụ ở nhân <br />
vật này. Một trong những nét đặc sắc của tác phẩm là ở chỗ tác giả không đi sâu vào <br />
những sự kiện lớn, ngược lại ông dùng ngòi bút của mình vào những điều hết sức bình <br />
thường, giản dị hằng ngày của cuộc sống nhưng qua đó vẫn làm nổi bật được những nét <br />
tính cách độc đáo của nhân vật. Những nét đẹp trong suy nghĩ của bà Hiền được thể hiện <br />
trước tiên qua cái cách mà bà chọn chồng là một ông giáo tiểu học hết sức bình thường <br />
"khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc", cái quyết định dừng sinh con ở tuổi bốn mươi, trái <br />
hoàn toàn với quan niệm "Trời sinh voi, trời sinh cỏ" của xã hội ta lúc bây giờ,… Là một <br />
người phụ nữ nhưng bà luôn chủ động, tự tin việc quản lý gia đình bởi bà ý thức rất rõ <br />
vai trò quan trọng của một người vợ, người mẹ: "người đàn bà mà không là nội tướng thì <br />
cái gia đình ấy chả ra sao". Không những thế, là một người mẹ, bà uốn nắn con từ cái <br />
nhỏ nhất như ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh,… Rồi khi hai đứa con trai lần <br />
lượt xin ra chiến trường, người mẹ ấy "cũng đau đớn mà bằng lòng" vì không muốn con <br />
sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Ở bà người ta vẫn thấy sáng lên một niềm tin mãnh <br />
liệt vào vẻ đẹp trường tồn vĩnh cửu của Hà Nội: "Mỗi thế hệ đều có một thời vàng son <br />
của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi". <br />
Có thể nói cái cốt cách của Hà Nội còn được thể hiện rất rõ trong cách ứng xử nhân vật <br />
này. Đó là sự linh hoạt đầy bản lĩnh trước những đổi thay của cuộc sống, trong bất cứ <br />
hoàn cảnh nào vẫn luôn dám sống là mình, thẳng thắn, chân thành, giàu lòng tự trọng <br />
nhưng cũng hết sức khéo léo, thông minh. Con người ấy vẫn luôn giữ gìn những nét đặc <br />
trưng trong lối sống của người Hà Nội lộ cái quý phái, sang trọng, lịch lãm của người Hà <br />
Thành từ cách ăn mặc bài trí nhà cửa, từ cái cảm nhận hết sức tinh tế "trời rét, mưa rây lả <br />
lướt dù đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt" đến cái cách lau chùi bát hoa thuỳ rong ngày <br />
giáp Tết một cách hết sức tỉ mi,… đã cho thấy nét đẹp văn hoá trường tồn vĩnh cửu ở một <br />
người Hà Nội hết sức bình dị nơi mảnh đất văn hiến này. Trong nhân vật bà Hiền vừa có <br />
một Hà Nội trí tuệ, hiện đại, thức thời lại vừa tồn tại một Hà Nội đài các kiêu sa, cổ <br />
kính, với chiều sâu văn hoá. Dù đã có tuổi, bà Hiền vẫn là "hạt bụi vàng của Hà Nội".<br />
<br />
Thế nhưng câu chuyện của Nguyễn Khải đâu chỉ dành cho con người của Hà Nội mà còn <br />
hướng đến tất cả những người Việt Nam nói chung để gửi đến thông điệp về ý thức giữ <br />
gìn bản sắc văn hoá của dân tộc. Văn hoá có thể một cách đơn giản là tất cả những giá <br />
trị, những nét đẹp về vật chất và tinh thần của xã hội, chừng nào con người còn tồn tại <br />
thì văn hoá cũng sẽ vẫn còn. Dù ở bất kỳ thời đại nào thì văn hoá cũng đóng vai trò hết <br />
sức quan trọng. Bản sắc văn hoá là những đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, góp phần <br />
không nhỏ vào việc hình thành nên một quốc gia độc lập. Và có lẽ cũng không phải vô cớ <br />
mà Nguyễn Trãi khi xưa đã nhắc đến truyền thống văn hoá của dân tộc ngay sau khi tư <br />
tưởng nhân nghĩa ở phần mở đầu của "áng thiên cổ hùng văn" Đại cáo bình Ngô:<br />
<br />
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân<br />
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo<br />
<br />
Như nước Đại Việt ta từ trước<br />
<br />
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu<br />
<br />
Mỗi dân tộc cần phải có một nền văn hoá riêng cũng giống như mỗi cá nhân trong cuộc <br />
đời phải có cá tính riêng để làm nên cái "tôi" của chính mình phân biệt mình với người <br />
khác. Một đất nước làm sao có thể tồn tại bền vững khi mà nhắc đến nó, người ta chẳng <br />
có cớ gì để nhớ, chẳng có gì để nói Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng nhất <br />
làm nên truyền thống của một dân tộc. Những giá trị văn hoá phi vật thể cũng phần nào <br />
phản ánh tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, tâm hồn con người. Văn hoá Việt giản dị nhưng có <br />
chiều sâu và có bản sắc riêng, con người Việt Nam bình dị, hết sức tinh tế nhưng cũng vô <br />
cùng anh dũng, kiên cường. Chính truyền thống văn hoá tạo nên cội nguồn, gốc rễ cho <br />
dân tộc, từ đó hình thành nên ở con người Việt Nam lòng tự hào, tự tôn dân tộc, một niềm <br />
tin mãnh liệt vào tương lai. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh cây si ở đền Ngọc Sơn mà <br />
Nguyễn Khải đã từng nhắc đến trong "Một người Hà Nội". Gió bão có thể thế làm <br />
nghiêng cả tán, bật cả rễ nhưng qua bao phong ba bão táp, bao biến cố thăng trầm của <br />
lịch sử, nó lại hồi sinh, trổ lộc non. Văn hoá góp phần làm nên cái "vàng son" cho quá khứ, <br />
còn quá khứ góp phần hun đúc nên những phẩm chất tốt đẹp của con người bởi văn hoá <br />
thường hướng con người ta đến những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống, hướng con người ta <br />
đến cái chân, thiện, mỹ, làm cho con người sống tốt hơn. Bên cạnh đó, những công trình <br />
kiến trúc, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,… không chỉ cho thấy những nét văn <br />
hóa rất riêng của đất nước Việt Nam mà còn đóng góp không nhỏ vào việc quảng bá hình <br />
ảnh của Việt Nam đến bạn bè thế giới. Chưa kể đến doanh thu không nhỏ cho ngành dịch <br />
vụ từ du lịch nội địa và quốc tế từ việc quảng bá hình ảnh đó, vị thế của Việt Nam chắc <br />
chắn sẽ được cải thiện, được nâng cao trên trường quốc tế, rất nhiều cơ hội mở ra cho <br />
việc giao lưu cả về mặt kinh tế, chính trị phục vụ cho sự phát triển của đất nước, vì thế <br />
nếu chúng ta không có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình thì tự chúng <br />
ta sẽ làm mất đi vị thế riêng của mình, sẽ bị hoà tan trong những nền văn hoá khác trên <br />
thế giới. Có những thứ khi đã mất đi ta vẫn có thể lấy lại được nhưng có những điều nêu <br />
không níu giữ thì nó sẽ tuột khỏi tay ta mãi mãi.<br />
<br />
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, có rất nhiều thuận lợi khi chúng ta mở cửa, giao lưu với <br />
các nước trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội để quảng bá cho văn hóa Việt Nam với bạn bè <br />
quốc tế nhưng nếu như chúng ta không có ý thức giữ bản sắc văn hoá dân tộc thì sẽ làm <br />
mất dần đi những giá trị văn hoá độc đáo. Làm sao để hoà nhập mà không hoà tan là một <br />
vấn để không đơn giản không phải là không thể làm được nếu như mỗi người chúng ta <br />
đều có ý thức giữ gìn những nét đẹp văn hoá của dân tộc mình, đặc biệt là thế hệ trẻ nay. <br />
Mỗi người hãy tự trau dồi cho mình vốn hiểu biết về văn hoá dân tộc làm sao để bạn bè <br />
quốc tế hiểu và yêu thích văn hóa của đất nước chúng ta cũng là một cách để giữ gìn bản <br />
sắc văn hoá bởi ai đó đã từng nói rằng: cho đi cũng là cái còn lại mãi mãi". Việc giữ gìn <br />
truyền thống văn hoá phải bắt đầu từ việc giữ gìn truyền thống của mỗi gia đình, mỗi địa <br />
phương, vùng miền cụ thể. Và mỗi nét đặc sắc trong văn hoá của hơn năm mươi dân tộc <br />
sẽ làm nên một nền văn hoá Việt Nam đa dạng, đậm đà bản sắc. Mỗi người dân phải tự <br />
có ý thức bảo vệ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của vùng miền mình, của <br />
đất nước mình. Nhà nước cần có những biện pháp thích đáng đối với những hành vi gây <br />
tác động xấu đến văn hoá, song song với những chính sách hợp lý để trùng tu, bảo tồn <br />
những di tích, danh lam và giữ gìn những giá trị văn hoá phi vật thể. Có thể nói, việc giữ <br />
gìn những giá trị văn hoá không phải là trách nhiệm của riêng ai mà cần có sự tham gia <br />
của tất cả mọi người, không phải bằng khẩu hiệu, bằng lời nói mà những việc làm hết <br />
sức cụ thể.<br />
<br />
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể giữ gìn được những giá trị văn hóa của mình bởi <br />
lẽ cuộc sống cũng có những biến cố (chiến tranh, thiên tai,…) có thể làm cho những công <br />
trình văn hoá bị xuống cấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang hằng ngày cố <br />
gắng tìm mọi cách để có thể giữ gìn được phố cổ Hà Nội, chùa Một Cột,… Việt Nam <br />
vinh dự được UNESCO công nhận một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể là di <br />
sản văn hoá thế giới chứng tỏ sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của chúng ta trong việc <br />
phát huy những giá trị văn hoá dân tộc. Cuộc sống hiện đại hối hả hơn, con người ta bận <br />
rộn hơn, điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng hơn bao giờ hết nhưng sâu thẳm trong mỗi <br />
chúng ta là một tâm hồn Việt, một cốt cách Việt. Tuy nhiên, giữ gìn bản sắc văn hoá <br />
không có nghĩa là không có sự giao lưu, học hỏi. Mỗi nền văn hóa đều có những thế <br />
mạnh riêng của nó. Tiếp thu một cách hợp lí có chọn lọc sẽ là điều kiện để làm giàu có <br />
thêm vốn văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, cũng chính từ sự giao lưu ấy mà ta có thế biết <br />
được điểm mạnh điểm yếu trong nền văn hoá của mình, từ đó có thể phát huy những <br />
điểm mạnh đồng thời học hỏi những kinh nghiệm để có thể khắc phục những chỗ còn <br />
khiếm khuyết.<br />
<br />
Có thể nói giữ gìn bản sắc văn hoá không chỉ có ý nghĩa với cộng đồng dân nhân loại mà <br />
còn rất ý nghĩa đối với mỗi con người vì những giá trị văn hóa được thể hiện trong nếp <br />
sống, nếp nghĩ hằng ngày của mỗi con người.<br />
<br />
Cảm ơn Nguyễn Khải với "Một người Hà Nội" bởi lẽ, với truyện ngắn ta nhận ra rằng <br />
văn hoá là một nét đẹp của cuộc sống và dù có những đổi thay thì "nếp sống tốt đẹp của <br />
cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống ồ ạt hôm nay".<br />
<br />
Bài số 2<br />
<br />
“Cái cao quý của một đất nước, của một dân tộc là ở giá trị văn hóa…”(Phạm Văn Đồng)<br />
<br />
Nếu nghệ thuật là một loại văn hóa đặc biệt, thì văn học chính là gương mặt tiêu biểu <br />
cho văn hóa tinh thần của mỗi một dân tộc. Văn học là nơi kết tinh cho những giá trị văn <br />
hóa bền vững của dân tộc, do đó nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giữ gìn <br />
bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình quốc tế hóa hiện nay.<br />
<br />
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, sự tấn công ồ ạt của các luồng văn hóa từ bên <br />
ngoài là điều không thể tránh khỏi. Có thể nhận thấy nhịp điệu sống gấp gáp, vội vàng <br />
của một nền văn minh công nghiệp đang có nguy cơ làm thay đổi nhịp điệu sống chậm <br />
rãi, khoan thai của một nền văn minh nông nghiệp lâu đời, gần như đã trở thành cốt cách <br />
con người Việt. Sự trang trọng linh thiêng ở những chốn thờ tự trong tín ngưỡng người <br />
Việt (như chùa chiền, đền miếu) đang bị cái xô bồ, hỗn tạp, cái tâm lý trục lợi thực dụng <br />
tấn công. Những trào lưu văn hóa lai căng đang cuốn hút giới trẻ chạy theo những giá trị <br />
nhất thời, giả tạo, làm mai một, rơi rớt những giá trị truyền thống của dân tộc. Bên cạnh <br />
khả năng giao lưu, tiếp xúc để mở rộng và trưởng thành hơn, nền văn hóa dân tộc đang <br />
phải đối mặt với “sức ép” của văn hóa thế giới, và nguy cơ bị mờ nhòe đi là nguy cơ có <br />
thật. Một bộ phận giới trẻ đang say mê tiểu thuyết diễm tình Trung Quốc, thích nghe <br />
nhạc Hàn hơn nhạc Việt, lại càng không phải là những làn điệu dân ca hay nhạc trữ tình <br />
quê hương, hâm mộ những tài tử điện ảnh của Hàn Quốc. Một thời ra đường, đâu đâu <br />
cũng gặp những cô gái “mắt nâu môi trầm” theo đúng kiểu của diễn viên Hàn Quốc. <br />
Những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với mái tóc dài thướt tha, “tóc <br />
đen như gỗ mun, môi đỏ như son” đã trở nên hiếm hoi.<br />
<br />
Văn học là gương mặt tiêu biểu cho văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Trong tình hình <br />
ấy, văn học phải gánh vác một trọng trách: lưu giữ, tôn vinh những giá trị văn hóa bền <br />
vững của dân tộc. Văn học là sự phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc thù: phản <br />
ánh gắn với nhận thức, phản ánh gắn với biểu hiện, phản ánh gắn với sáng tạo. Do đó, <br />
thế giới hiện thực trong văn học phải là thế giới đã được nhà văn chọn lọc và sáng tạo <br />
lại, có ý nghĩa tác động đến nhận thức, tình cảm của người đọc, hướng con người đến <br />
với chân – thiện – mỹ. Do đó, thế giới nghệ thuật trong văn học càng đậm đà bản sắc dân <br />
tộc thì càng có vai trò giữ gìn và bảo vệ nó. Nếu văn học tôn vinh những vẻ đẹp truyền <br />
thống, thể hiện được sức sống mãnh liệt của nó giữa bao điều còn xô bồ, hỗn tạp, thì lúc <br />
đó văn học có ý nghĩa định hướng cho con người nhận chân ra những giá trị đích thực. Bởi <br />
vì, ai lại không rung cảm trước cái đẹp, nhất là cái đẹp đã được sàng lọc qua cảm quan <br />
thẩm mỹ và trái tim nhạy cảm của nhà văn?<br />
<br />
Những chàng trai và cô gái trẻ đang mải miết chạy theo những mốt thời trang của Hàn <br />
Quốc, có bao giờ nhận ra dáng điệu rất duyên dáng, rất đằm thắm, cũng rất tình tứ gợi <br />
cảm của hình ảnh người con gái quan họ trong câu thơ của Hoàng Cầm:<br />
<br />
Bao giờ về bên kia sông Đuống<br />
<br />
Anh lại gặp em<br />
<br />
Em mặc yếm thắm<br />
Em thắt lụa hồng<br />
<br />
Em đi trẩy hội non sông<br />
<br />
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.<br />
<br />
Đó là vẻ đẹp mang cốt cách truyền thống. Những “yếm thắm, lụa hồng” có thể đã trở <br />
thành một kiểu trang phục xa lạ, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cái chất dân tộc ngấm <br />
vào trong dáng vóc uyển chuyển mềm mại, ngấm vào trong nụ cười tỏa sáng của cô. Nó <br />
gợi lên một vẻ đẹp thuần túy Việt Nam.<br />
<br />
Có thể hàm răng đen (vẻ đẹp một thời của các mẹ, các cô ngày xưa) không còn phù hợp <br />
với ngày nay nữa, nhưng khi đi vào văn học, nó lưu giữ một vẻ đẹp đặc biệt:<br />
<br />
Những cô hàng xén răng đen<br />
<br />
Cười như mùa thu tỏa nắng<br />
<br />
( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)<br />
<br />
Nét cười đen nhánh sau tay áo<br />
<br />
Dưới ánh trưa hè trước dậu thưa<br />
<br />
( Nắng mới – Lưu Trọng Lư)<br />
<br />
Sự đằm thắm, tươi tắn của nụ cười ấy chính là thần thái của người phụ nữ truyền <br />
thống, những người “giữ lửa” cho gia đình và cho xã hội, những người có thể rất lam lũ, <br />
vất vả, có thể cuộc đời còn nhiều cơ cực đắng cay, nhưng sức sống mãnh liệt và tâm hồn <br />
giàu tình nặng nghĩa đã dệt nên những nụ cười đằm thắm đến như vậy.<br />
<br />
Cuộc sống đang diễn ra ngày càng xô bồ hơn, thực dụng hơn. Không khí công nghiệp từ <br />
văn hóa phương Tây đang làm xáo động cái không khí yên bình của một đất nước vốn <br />
thuần nông. Sự giao lưu rộng mở, một bộ phận, một lớp thanh niên chịu ảnh hưởng của <br />
lối sống phương Tây, thực dụng hơn, sòng phẳng rõ ràng hơn. Tỷ lệ ly hôn ngày càng <br />
tăng. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhận xét rằng : “Gia đình Việt nam đang đứng trước <br />
những thử thách nghiêm trọng. Một thứ văn hóa kỳ quặc chỉ thâu tóm trong hai nguyên lý <br />
là xác thịt và đồng tiền đang đầu độc tâm hồn. Đâu đâu cũng nghe “ Anh yêu em, em yêu <br />
anh” như cháy nhà. Nhưng tỷ lệ ly hôn lại gia tăng đến chóng mặt”. Nhưng ta vẫn còn <br />
một niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của gia đình Việt, khi văn học vẫn lưu giữ cho <br />
chúng ta những vẻ đẹp của một đời sống gia đình giàu tình nặng nghĩa, gắn kết và biết hy <br />
sinh. Đó là tình nghĩa vợ chồng xuyên thấm từ trong ca dao:<br />
<br />
Rủ nhau xuống bể mò cua<br />
<br />
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng<br />
<br />
Em ơi chua ngọt đã từng<br />
<br />
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau<br />
<br />
Rồi kết tinh thành một đạo lý sống:<br />
<br />
Tóc mẹ thì bới sau đầu<br />
<br />
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.<br />
<br />
Và khi tư tưởng “bình đẳng giới” đã xuất hiện, người phụ nữ trong Chiếc thuyền ngoài <br />
xa của Nguyễn Minh Châu vẫn chấp nhận hy sinh để giữ gìn sự trọn vẹn của gia đình. <br />
Nghèo khó, lam lũ, người phụ nữ hàng chài ấy còn chịu đựng những trận đòn dữ dằn của <br />
chồng. Nhưng chị vẫn oằn lưng lên chịu đựng không một tiếng rên la, bởi với chị, đó cũng <br />
là một cách chia sẻ nỗi nhọc nhằn mưu sinh (dồn tụ quá bộc phát thành những trận đòn) <br />
của người chồng. Sự sẻ chia đặc biệt đó chỉ có thể bắt nguồn từ tình nghĩa nặng sâu giữ <br />
vợ và chồng, tuyệt nhiên không thể bắt nguồn từ cái lý thuyết tình yêu của một bộ phận <br />
giới trẻ hiện nay. Và, cảm động thay câu nói của chị “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải <br />
sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đức hy sinh ấy chính là <br />
một nét đẹp văn hóa của người Việt, như một mạch ngầm xuyên suốt hàng ngàn năm, đi <br />
qua mọi biến động của thời đại, để hiển hiện trong một người phụ nữ bình thường nhất <br />
của thời hiện đại. Bởi thế, trong truyện ngắn Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp, sau <br />
khi nhân vật Sinh chịu đựng bao nhiêu nỗi tủi nhục của những ngày làm dâu trong một gia <br />
đình toàn đàn ông láo nháo ô hợp, tác giả đã để cho nhân vật nói một câu rưng rưng nước <br />
mắt khi trả lời câu hỏi của Khảm (“Chị Sinh ơi, về làm dâu họ Sĩ nhà này chị có khổ <br />
không?”): “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. Có <br />
những tác phẩm văn chương như thế và có những nhân vật như thế trong văn học, ta tin <br />
tưởng rằng, gia đình Việt sẽ chống chọi lại được với những tác động dữ dội của thời đại <br />
để giữ nguyên vẻ đẹp, bề dày văn hóa của nó. Tỷ lệ ly hôn có thể gia tăng, nhưng trong <br />
tâm thức người Việt, vẫn là ước nguyện về những gia đình bền vững, nghĩa tình. Và còn <br />
ước nguyện chân thành như thế, còn những con người mà đạo lý sống đã hòa tan trong <br />
máu thịt như thế, gia đình Việt sẽ vượt qua được những chông chênh của buổi đầu hội <br />
nhập.<br />
<br />
Còn vô vàn những giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc được bảo tồn trong văn chương <br />
nghệ thuật. Một làn khói lam chiều ấm áp gợi nhắc tình quê hương nguồn cội, một đạo <br />
lý sống “ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” ( Đất nước – <br />
Nguyễn Khoa Điềm), một không gian làng quê với “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng <br />
bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trong chùa Bút Tháp/ Giữa huyện <br />
Lang Tài”… Có thể nói, văn chương chính là tấm gương cho con người và cả dân tộc soi <br />
vào, nhận chân ra những giá trị văn hóa bền vững. Tiếp nhận văn học, người đọc gặp gỡ <br />
những vẻ đẹp của bản sắc văn hóa Việt Nam. Nghĩa là bằng văn học, bản sắc văn hóa <br />
dân tộc được tồn tại, được bảo lưu, được tôn vinh. Nó không mai một đi, đó là một điều <br />
chắc chắn nhờ sức mạnh và khả năng to lớn của văn học.<br />
<br />
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng ý thức trong văn học đã được chuyển hóa <br />
thành những tình cảm mãnh liệt. Bởi vậy, văn học không chỉ tác động đến con người ở <br />
phương diện nhận thức mà còn ở phương diện tâm hồn. Điều đó có nghĩa, khi lưu giữ <br />
những giá trị văn hóa truyền thống để nó không bị mai một đi trước những ảnh hưởng <br />
của văn hóa toàn cầu, giúp người đọc nhận chân ra những giá trị văn hóa bền vững, văn <br />
học còn đồng thời đánh thức tình yêu, niềm tự hào về những giá trị văn hóa đó, từ đó nảy <br />
sinh ra một mong ước thiết tha được giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Sự thức <br />
tỉnh đó thể hiện ở nhiều cấp độ.<br />
<br />
Thứ nhất, bằng lương tâm của một người cầm bút, nhà văn khiến chúng ta giật mình <br />
trước những biến đổi của đời sống xã hội đang từng ngày từng giờ bào mòn đi những giá <br />
trị văn hóa truyền thống. Đó là cái giật mình thức tỉnh.<br />
<br />
Trong tác phẩm “Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải báo động về một hiện thực xô bồ <br />
ngay trên mảnh đất ngàn năm văn vật, nơi đang lưu giữ nhiều giá trị văn hóa quý giá của <br />
dân tộc: “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa nghĩ ngợi. <br />
Một anh bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi <br />
quay lại nói cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội thế?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua <br />
xe tôi, rồi quay lại chửi một câu đến sững sờ: “Tiên sư cái anh già!”. Lại một buổi sáng <br />
tôi tới thăm một người bạn ở quận Đống Đa, đã lâu không đến nên quên đường, lát lát <br />
phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất hàm, có người cứ giương mắt nhìn <br />
mình như nhìn con thú lạ. Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của <br />
người Hà Nội, cô con gái đang cho con bú góp lời liền: “Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi <br />
xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo bađờxuy, cưỡi cái Cúp xem, thưa gửi tử tế <br />
ngay”. Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế”. Sự xót xa trăn trở của tác giả đánh thức nỗi trăn <br />
trở trong chúng ta về nguy cơ mai một của những giá trị văn hóa tinh thần. Một Hà Nội <br />
thanh lịch “Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An” trong tâm thức của tất thảy mọi <br />
người đang chông chênh trong cơn bão của kinh tế thị trường. Nếu như truyền thống dân <br />
tộc ta nhìn nhận đánh giá con người ở nhân cách, ở đạo đức chứ không phải ở của cải, <br />
địa vị thì bây giờ, trong mắt giới trẻ, một ông già “ăn mặc tẩm như thế, lại đi xe đạp” bị <br />
coi thường khinh khi. Vẻ đẹp ý nhị kín đáo và rất mực tinh tế của người Hà Thành bây <br />
giờ lại thay thế bằng hình ảnh một cô con gái “đang cho con bú” lại tham gia góp lời vào <br />
trong cuộc chuyện của những bậc cao niên! Những giá trị vật chất tầm thường như của <br />
cải, tiền bạc đang lên ngôi và chi phối lối sống, hành vi ứng xử. Rõ ràng, nhà văn đang <br />
đánh thức chúng ta, yêu cầu chúng ta hãy nhìn thẳng vào chân dung cuộc sống, để giật <br />
mình và trăn trở, để nghĩ suy và ứng xử.<br />
Cấp độ thứ hai, văn học đánh thức tình yêu và niềm tin ở mỗi người về bản sắc văn hóa <br />
dân tộc. Đặt trong sự đối sánh với cái xô bồ nhộn nhạo của thời kỳ quốc tế hóa, nhà văn <br />
đã chạm khắc lên vẻ đẹp tinh túy, thiêng liêng của những giá trị văn hóa truyền thống, <br />
hiện thân cho linh hồn của dân tộc. Đó là hình ảnh một cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi rồi, <br />
nhưng vẫn là một “người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn” trong <br />
dáng điệu tỉ mẩn lau đánh cái bát thủy tiên men đỏ giữa cái thời mà “dân Hà Nội nhảy tàu <br />
lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà không buôn được vài ngàn củ thủy tiên” (Một người <br />
Hà Nội – Nguyễn Khải). Đó là những tình cảm thiêng liêng mà cái nhộn nhạo xô bồ <br />
không thể phá vỡ được, như tình quê hương, tình mẫu tử, tình phụ tử – những sợi dây <br />
gắn kết con người với cội nguồn:<br />
<br />
Bóng xoài ba tôi mắc võng<br />
<br />
Sáng chiều hai hướng chờ trông<br />
<br />
Con ở thị thành nóng bỏng<br />
<br />
Bóng xoài mát đến con không?<br />
<br />
(Quê buồn – Thu Nguyệt)<br />
<br />
Cũng có khi, giữa cái lấp lánh náo động của đô thị thời mở cửa, văn học đưa ta về với <br />
một góc văn hóa xưa, bình yên, trong trẻo, thanh khiết:<br />
<br />
Có thể xuân sau, xuân sau nữa<br />
<br />
Lá chuối lá dong bánh đúc bánh đa<br />
<br />
Rượu mận rượu đào trà lài trà quế<br />
<br />
Hạt bí hạt bầu quả chuối quả na…<br />
<br />
Chị xuống chợ mù sương mua cá chép<br />
<br />
Thả xuôi dòng trắc ẩn lẫn lo toan<br />
Mẹ vẫn đợi áo hoa con vừa mặc<br />
<br />
Chở xe về hao hụt chuyến đò ngang!<br />
<br />
( Có thể xuân sau – Phan Trung Thành)<br />
<br />
Sự đối sánh ấy trong văn học, qua cảm quan của người nghệ sĩ, giúp ta trân trọng những <br />
giá trị văn hóa truyền thống giữa không khí thời hiện đại. Nó vì vậy khơi gợi tình yêu và ý <br />
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.<br />
<br />
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa lại, cự tuyệt hoàn toàn những <br />
ảnh hưởng của văn hóa thế giới. Trong quá trình phát triển của nền văn hóa dân tộc, nhất <br />
là trong thời kỳ quốc tế hóa hiện nay, chúng ta phải chấp nhận sự tiếp xúc, giao lưu, sự <br />
ảnh hưởng của văn hóa thế giới và biến nó thành điều kiện thuận lợi để phát triển, làm <br />
giàu có thêm văn hóa của dân tộc mình.<br />
<br />
Ở phương diện đó, văn học đã thể hiện vai trò quan trọng của nó. Bằng tính chất không <br />
giới hạn về không gian và thời gian, văn học đã có một sự giao lưu rộng mở với các nền <br />
văn học nghệ thuật, các tư tưởng văn hóa trên toàn thế giới. Qua tác phẩm văn học (đặc <br />
biệt là mảng văn học dịch), chúng ta tiếp cận và học hỏi dược tinh hoa của nhiều nền văn <br />
hóa để tự làm giàu có cho nền văn hóa của chính mình. Ví dụ, tinh thần dân chủ và nhân <br />
văn của phương Tây đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hai <br />
trào lưu văn học lớn: Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Chính tinh thần dân <br />
chủ và nhân văn này đã làm mới hơn, phong phú hơn các truyền thống yêu nước và nhân <br />
đạo của dân tộc ta. Nếu như tinh thần yêu nước và dân tộc trước đây chỉ dừng lại ở lý <br />
tưởng “trung quân ái quốc” (do ảnh hưởng của đạo Nho) thì nay đã hướng đến ở tình <br />
cảm đối với nhân dân, với lý tưởng cứu nước. Và chủ nghĩa nhân đạo cũng vượt lên giới <br />
hạn của tình thương người để vươn đến một tư tưởng cao hơn, rộng hơn: nhân đạo đồng <br />
nghĩa với sự trân trọng mọi giá trị người.<br />
<br />
Đồng thời với việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa thế giới, văn học cũng có công lớn <br />
trong việc giới thiệu bản sắc văn hóa Việt nam đến với các dân tộc khác trên thế giới, <br />
khẳng định vị thế của một quốc gia có một bề dày văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà <br />
Truyện Kiều có một vị trí nhất định trên văn đàn thế giới, mà một phần là bởi Truyện <br />
Kiều đã đem đến cho nhân dân thế giới một cái nhìn về văn hóa và tư tưởng người Việt. <br />
Cái triết lý:<br />
<br />
Sen tàn cúc lại nở hoa<br />
<br />
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.<br />
<br />
thể hiện một tinh thần lạc quan, ung dung tự tại của người Việt mà người phương Tây <br />
phải kinh ngạc. Cũng như vậy, sự bao dung độ lượng đến cao thượng mà cội nguồn của <br />
nó là tình nghĩa con người đã đưa người Việt vượt ra khỏi cái tầm suy nghĩ hạn hẹp của <br />
một nước nông nghiệp để vươn đến giá trị nhân văn sâu sắc được thể hiện trong một câu <br />
nói của Kim Trọng về Kiều:<br />
<br />
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa<br />
<br />
Và:<br />
<br />
Như nàng lấy hiếu làm trinh<br />
<br />
Bụi nào vẫn được lòng mình ấy vay<br />
<br />
Chính việc đưa bản sắc văn hóa Việt Nam ra với thế giới cũng là một cách tôn vinh văn <br />
hóa dân tộc và là một cách để cho bản sắc văn hóa dân tộc không bị mờ nhòe đi khi hội <br />
nhập quốc tế.<br />
<br />
Có thể nói rằng, nếu muốn tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, không có lĩnh vực nào <br />
biểu hiện phong phú và đầy đủ như trong văn học. Từ phong tục tập quán đến vẻ đẹp <br />
tâm hồn con người, từ những giá trị văn hóa tinh thần đến những giá trị văn hóa vật chất, <br />
bóng dáng của nó in khá đậm trong văn học. Nói cách khác, từ văn học, ta nhìn thấy bản <br />
sắc của dân tộc mình.<br />
<br />
Điều đó đặt ra một vấn đề quan trọng: sứ mệnh của nhà văn, tâm thế của nhà văn trong <br />
nhiệm vụ lớn của xã hội: giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà văn phải đứng ở đâu, phải <br />
có thế giới quan như thế nào, phải có cái tâm như thế nào để có thể làm tròn sứ mệnh ấy.<br />
<br />
Mặt khác, khi văn học có vai trò quan trọng đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, <br />
thì đồng thời, văn học cũng chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa. Xác định điều <br />
này có ý nghĩa quan trọng, bởi trong xã hội hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, văn <br />
hóa nghe – nhìn đang chiếm ưu thế, các phương tiện thông tin đang phát triển phong phú <br />
và ngày càng trở nên tiện lợi đối với con người, thì văn hóa đọc đang bị xem nhẹ. Điều đó <br />
đòi hỏi một chiến lược thích hợp để phát triển văn hóa đọc, phát triển văn học trong giai <br />
đoạn mới hiện nay.<br />
<br />
Bài số 3<br />
<br />
Trước đó, sáng tác của Nguyễn Khải đầy ắp cảm hứng chính luận, chuyên đề cập các <br />
vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường lấy tiêu chí chính trị, đạo đức cách <br />
mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Rõ ràng, sự chuyển đổi từ cảm hứng <br />
chính luận sang cảm hứng triết luận đánh dấu một bước phát triển đáng ghi nhận trong tư <br />
duy nghệ thuật của nhà văn. Hứng thú quan sát, thể hiện những vấn đề thế sự, đặc biệt <br />
là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người giữa một hoàn cảnh sống mà cái <br />
“tôi” chưa được nhìn nhận công bằng, thỏa đáng, tất cả đều liên quan tới việc chuyển đổi <br />
cảm hứng nói trên. Các sáng tác lúc này vẫn không thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của <br />
chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh lâu dài. Việc nhà văn có <br />
ý thức tô đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá nhân mình trong việc trình bày một vấn đề <br />
đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh thần đối thoại dân chủ, thoát li dần <br />
kiểu áp đặt chân lí một chiều trước đây.<br />
<br />
Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt các nhân vật được miêu tả trong đó <br />
vào các phạm trù tốt – xấu, chính diện – phản diện quen thuộc một thời đã trở nên bất <br />
cập. Sự đánh giá về nhân vật có thể rất đa chiều. Lời khen hay lời chê của tác giả (thể <br />
hiện qua nhân vật kể chuyện xưng “tôi”) lúc này cũng chỉ có giá trị tham khảo thuần tuý, <br />
không hề mang tính chất “chân lý”, không phải là kết luận tối hậu. Trong Một người Hà <br />
Nội “, “tôi” nhìn nhận bà Hiền là “một hạt bụi vàng”, đó là quyền của “tôi”. Người khác <br />
có thể có cách nhìn nhận khác, tất nhiên, không thể không tham khảo cách nhìn có tính <br />
chất gợi ý mà “tôi” đưa ra. Nếu không hiểu nguyên tắc đánh giá này, lại lấy cách xây <br />
dựng nhân vật trong truyện của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trước làm hệ quy <br />
chiếu, độc giả rất dễ có những phán quyết vô lí về tác giả trên các vấn đề quan điểm, <br />
lập trường chính trị, hoặc ngược lại, ra sức tán dương nhân vật bà Hiền, gán cho bà <br />
những phẩm chất tốt đẹp (theo mong muốn hay tưởng tượng, suy diễn của chính độc <br />
giả) mà bản thân nhân vật “tôi” không nói tới trong câu chuyện của mình.<br />
<br />
Nếu căn cứ vào những gì đã được thể hiện trong truyện ngắn, độc giả có thể đặt lại tên <br />
tác phẩm Một người Hà Nội thành Nghĩ về một người Hà Nội. Dĩ nhiên, đây là đặt cho <br />
mình, nhằm mục đích lĩnh hội đúng tinh thần tác phẩm, cảm nhận đúng ý nghĩa của <br />
“thành phần” suy nghĩ trong kết cấu truyện ngắn này. Quả là chuyện kể không có gì thật <br />
đặc biệt, nhưng suy nghĩ, đánh giá của nhân vật “tôi” thì lại chứa đựng nhiều điều thú vị. <br />
Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Khải vốn là thế: tỉ trọng những lời phân tích, bình luận <br />
bao giờ cũng lớn, nhiều khi lấn át cả sự miêu tả, trần thuật khách quan về đối tượng.<br />
<br />
Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi một con <br />
người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm hứng chính của ông là <br />
khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong <br />
lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai. Không <br />
phải ngẫu nhiên mà khi ngắm hình ảnh bà Hiền “lau đánh cái bát bày thủy tiên”, ông đã có <br />
một ghi chú tưởng như là bâng quơ: “nếu là một thiếu nữ thì phải hơn”, rồi cảm thán: <br />
“thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”. Cũng hoàn <br />
toàn hợp lô gích việc nhà văn đã kết lại truyện ngắn như thế này : “Một người như cô <br />
phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất <br />
cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên <br />
cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng !”. Lô gích thì lô gích nhưng vẫn lạ. Ai đã từng <br />
quen với giọng văn tinh sắc, tỉnh táo, thậm chí là “lọc lõi” của Nguyễn Khải, hẳn phải <br />
ngỡ ngàng trước cái giọng “bốc” lên khá đột ngột mà nhà văn biểu lộ ở đây. Một chút <br />
giỡn đùa với chính văn mình hay niềm xúc động tận đáy tâm căn cứ bật ra không nén <br />
được? Trả lời quyết hẳn theo bề nào cũng khó, nhưng điều có thể khẳng định chắc chắn <br />
là: Nguyễn Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về “đất kinh kỳ” <br />
và tha thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hoá truyền <br />
thống của nó.<br />
<br />
Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một <br />
linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con <br />
của nó. Bà Hiền không phải là một “tấm gương” kiểu mẫu hiểu theo nghĩa thông thường <br />
để các tổ chức xã hội nêu lên cho mọi người học tập, theo cách người ta vẫn thường làm <br />
nhằm mục đích tuyên truyền, vận động. Bà chỉ là người dân bình thường, dù xuất thân là <br />
con nhà “tư sản”, dù đã có một thời “vang bóng” (mà thực ra, “tư sản” thì cũng có thể là <br />
người dân bình thường được chứ!). Tác giả (và người kể chuyện) hiểu vậy nên chọn <br />
cách giới thiệu, chuyện trò về bà thật dung dị. Bà là một người bà con xa, người dì họ <br />
của “tôi”, thế thôi ! Mọi việc bà làm đều tự nhiên, như cuộc sống hàng ngày, chẳng gây <br />
chấn động gì tới xung quanh cả. Ấy vậy, ai dám bảo chất Hà Nội ở bà không đậm đặc? <br />
Vả lại, muốn khám phá bề sâu văn hoá của một vùng đất, tuyệt đối không được bỏ qua <br />
những điều tưởng là nhỏ nhặt. Nhiều khi chính chúng lại cung cấp cứ liệu thuyết minh <br />
về vấn đề có sức nặng hơn hẳn những chuyện to tát. Dõi theo mạch kể của nhân vật <br />
“tôi”, người đọc thấy quả không có gì đáng gọi là “sự kiện” việc bà Hiền lấy chồng, <br />
quản lý gia đình, sinh con, dạy con, cho con đi bộ đội, tiếp khách, bài trí nơi ở, duy trì nếp <br />
sinh hoạt riêng,…<br />
<br />
Một câu bình phẩm của “tôi”, rằng, việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp <br />
tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã “khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”, phần nhiều <br />
chỉ là một cách nói ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh <br />
ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm <br />
chí là tầm thường) quá như thế. Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả <br />
những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết lý sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản <br />
lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kỳ. Bà Hiền <br />
biết rõ mình là ai (câu tuyên bố “thẳng thừng” của bà đối với nhân vật “tôi” đã chứng <br />
thực điều đó: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”), và cũng tương tự thế, <br />
bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì <br />
“không thể rời xa Hà Nội”. Đây không đơn giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với <br />
nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại <br />
bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có văn hóa riêng đã <br />
thấm vào máu thịt cư dân nơi này.<br />
<br />
Bà Hiền có thể không nghĩ một cách rành rọt như vậy, nhưng tác giả và nhân vật “tôi” – <br />
một sự hoá thân của ông – thì ý thức về điều này quá sâu sắc. Nhân vật “tôi” cũng khó <br />
lòng quên lời bà Hiền răn lũ con của anh: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, <br />
nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Hoá ra vậy, làm người <br />
Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn <br />
đề này, chẳng thế mà dù đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi <br />
người cháu (“tôi”) vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm: “Anh ra Hà Nội lần này <br />
thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào?” Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường <br />
mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp ph ỏng và hi vọng về tương lai của Hà <br />
Nội.<br />
<br />
Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà <br />
Nội. Nhưng cốt lõi ứng xử của người Hà Nội được thể hiện qua bà Hiền là cái gì? Khi <br />
kể về bà, nhân vật “tôi” rất hay nói đến chữ tính: “tính thế là đúng”, “Mọi sự mọi việc <br />
đều được các bà tính trước cả. Và luôn tính đúng…”, “đã tính là làm”, “Cô tôi tính toán <br />
việc nhà việc nước đại khái là như thế”, “cô muốn mở rộng sự tính toán…”. Dĩ nhiên, đã <br />
“tính đúng” thì người đó là người khôn (“cô khôn hơn các bà bạn của cô”), người “có đầu <br />
óc rất thực tế”, biết thích ứng. Với người “khôn”, mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể <br />
thu xếp được một cách khá nhẹ nhàng: là “tư sản” mà khi ở với chính quyền mới, gia <br />
đình bà Hiền không bị hề hấn gì, bà lại có khả năng nuôi cả gia đình đủ ăn mà không phải <br />
dính dáng gì tới hai chữ “bóc lột”… Bà Hiền có thể “cười rất tươi” – một kiểu cười quá <br />
đỗi tự tin – khi ông cháu thóc mách: “Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cố giấu cũng <br />
tài nhỉ?” Nói ra toàn những chuyện như thế về bà Hiền, phải chăng tác giả muốn kết luận <br />
rằng cái “bản sắc” của người Hà Nội là tính và khôn? Sự thực hoàn toàn không phải thế. <br />
Đằng sau mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự tồn tại của một <br />
bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lòng tự trọng không thể <br />
nghi ngờ.<br />
<br />
Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ <br />
được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách <br />
nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung <br />
quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này: “Tao đau đớn mà <br />
bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là <br />
biết tự trọng”, “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó <br />
tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn <br />
được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm <br />
gì”… Không phải không có những ngộ nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác <br />
giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này. Trong khi nhân vật “tôi”, giữa <br />
một bữa tiệc, đã “nói hơi nhiều” những ý chê trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những <br />
vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, <br />
đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lý của một người mẹ Hà Nội có con hy sinh: <br />
“Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà <br />
nói run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”. Đúng <br />
là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều!<br />
<br />
Ta đã phân tích khả năng tính của bà Hiền, một người Hà Nội. Tính không phải bao giờ <br />
cũng gắn với thói thực dụng. Nhiều khi, nó là đòi hỏi bắt buộc của một cách tồn tại giữa <br />
thời cuộc có nhiều thay đổi, xáo trộn khó lường. Bà Hiền quá nhạy cảm về vấn đề này. <br />
Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ mô” của nhà nước, chế độ. Khi đứa <br />
cháu nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?”, bà đã trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng <br />
hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của <br />
dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải <br />
sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người <br />
ở…”. Bà cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân <br />
làm giàu”: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ <br />
phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”. Đặc biệt, bà có <br />
một quan điểm hết sức khác thường: “Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng <br />
lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi <br />
của sự sống mà càng ngày ta càng phải thừa nhận: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của <br />
tạo vật không thể lường trước được”.<br />
<br />
Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một “tầm nhìn xa” đáng để cho nhân <br />
vật “tôi” phải thốt lên khâm phục: “Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. <br />
Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Chính tầm nhìn xa có ở bà Hiền, rộng ra là <br />
có ở nền văn hoá của đất kinh kỳ đã tạo nên cái mà trên kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển <br />
chuyển và ngoan cường của Hà Nội, vượt lên trên mọi ba động của đời sống chính trị. <br />
Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật “tôi” nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ <br />
ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lý sâu sắc. Các nhân vật trong truyện dường như chỉ <br />
“luận” về sự kiện này xoay quanh sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Hà Nội. Kì thực, ý <br />
nghĩa của nó trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm còn lớn hơn thế. Cũng cần lưu ý: <br />
nhiều quan điểm được nói ra từ miệng bà Hiền cũng là cái mà nhân vật “tôi” và tác giả tỏ <br />
ra tâm đắc. Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã quyện chặt với lời phân tích mang <br />
theo cách đánh giá riêng của người viết. Đây quả là một nét đặc sắc của văn Nguyễn <br />
Khải – một nhà văn vẫn được nhiều người viết khác cùng thế hệ bái phục về “năng <br />
khiếu” có thể gài lồng được vào sáng tác của mình những tư tưởng riêng đầy táo bạo, <br />
không dễ phát ngôn, về đời sống.<br />
<br />
Nói về “dân” Hà Nội, người ở nhiều vùng miền khác vẫn thường thừa nhận thanh lịch là <br />
đặc điểm nổi bật. Vậy, ở một người khôn ngoan, giỏi tính toán như bà Hiền, nét thanh <br />
lịch ấy có tồn tại không và nếu có thì nó được biểu hiện như thế nào? Thực ra, không hề <br />
có sự đối chọi nào giữa các phẩm chất ấy trong con người bà Hiền cả. Đừng lầm về <br />
kiểu xưng hô bỗ bã của bà đối với con cháu (vốn nó biểu hiện rõ tư cách của con người <br />
quyết đoán, ý thức mình là “nội tướng” trong gia đình), mà hãy nhìn vào thực chất của <br />
vấn đề, biểu hiện qua thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát <br />
đựng hoa thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách “bướng bỉnh” cái nề nếp sinh hoạt xa lông <br />
một thời vẫn thường bị định kiến là “tư sản”. Không, trong ngày thường, một người như <br />
bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cùng “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép <br />
hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu”.<br />
<br />
Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho <br />
mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ “đồng phục” để hóa thân thành những con người khác, <br />
đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn: “bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên <br />
sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, <br />
đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”. Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể <br />
của bản lĩnh sống – một vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong <br />
hoàn cảnh sống của đất nước, của thời đại bây giờ.<br />
<br />
Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc “típ” điển hình qu