Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
NGHIÊN CỨU NHỮNG BIẾN ĐỔI ĐIỆN TÂM ĐỒ<br />
TRONG BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH<br />
Trần Quốc Hoàn*, Hồ Thượng Dũng*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Giới thiệu. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là nguyên nhân tử vong xếp thứ tư trên thế giới. COPD được<br />
định nghĩa là quá trình viêm làm giới hạn vĩnh viễn đường dẫn khí, luôn luôn tiến triển và không phục hồi hoặc<br />
phục hồi một phần khi điều trị. Việc chẩn đoán được xác định bằng hô hấp ký và nghiệm pháp này còn dùng để<br />
phân bậc mức độ tắc nghẽn đường dẫn khí. COPD thường làm thay đổi điện học của tim mà chúng ta có thể thấy<br />
được qua ECG bề mặt. Mục đích của chúng tôi là nghiên cứu, đánh giá vai trò của những biến đổi ECG trong<br />
chẩn đoán và tiên lượng COPD và mối liên hệ giữa chúng với các phân bậc của GOLD.<br />
Chất liệu và phương pháp nghiên cứu. Chúng tôi phân tích 290 bản ECG của bệnh nhân có bệnh phổi<br />
mạn trong đó có 196 bệnh nhân mắc COPD và đánh giá các thông số FEV1, FEV1/FVC, XQ ngực chuẩn, độ cao<br />
của sóng P, trục và vôn thế của sóng P và QRS, block nhánh, kiểu qR ở aVR, kiểu rS ở V5, V6, phì đại thất phải,<br />
và thay đổi ST-T.<br />
Kết quả. Trong 196 bệnh nhân COPD, chúng tôi thấy những thay đổi ECG nói chung chiếm 61,3%.<br />
Những thay đổi ECG hay gặp nhất đó là rS ở V5, V6 chiếm 47,5%, p “phế” 42%, qR ở aVR 37,2%, biến đổi STT 35,8%, block nhánh 28,6% và điện thế QRS thấp 12,8%. Trục lệch phải và trục lệch trái của QRS chiếm<br />
16,3% và 13,8%, tương ứng. Cuối cùng, các biến đổi ECG ấy có mối tương quan nghịch một cách rõ rệt với các<br />
phân bậc của GOLD.<br />
Kết luận. Trong COPD, các biến đổi ECG nên được tầm soát nhằm bổ sung cho các dấu hiệu lâm sàng khác<br />
trong chẩn đoán và tiên lượng điều trị.<br />
Từ khoá: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, biến đổi ECG.<br />
<br />
SUMMARY<br />
EVALUATING THE DIAGNOSTIC VALUE OF ECG CHANGES<br />
IN CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE.<br />
Tran Quoc Hoan, Ho ThuongDung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 135-140<br />
Introduction. Chronic obstructive pulmonary disease is the fourth leading cause of mortality worldwide. It<br />
is defined as a persistent airflow limitation usually progressive and not fully reversible to treatment. The<br />
diagnosis of chronic obstructive pulmonary disease and severity of disease is confirmed by spirometry. Chronic<br />
obstructive pulmonary disease produces electrical changes in the heart which shows characteristic<br />
electrocardiogram pattern. The aim of this study was to observe, evaluate diagnostic values of electrocardiogram<br />
changes in chronic obstructive pulmonary disease patients and relationship between those changes with the<br />
grades of GOLD.<br />
Material and Methods. We analyzed 290 electrocardiogram findings in the patients with clinically chronic<br />
pumonary disease, 196 of whom suffering from chronic obstructive pulmonary disease and evaluated the forced<br />
expiratory volume in the first second, ratio of forces expiratory volume in the first second to the fixed vital<br />
capacity, chest radiographs as well as electrocardiogram changes such as p wave height, P and QRS axises and<br />
voltages, bundle branch block (includes right bundle branch block and left bundle branch block), qR pattern in<br />
aVR, rS pattern in V5,V6, right ventricular hypertrophy, ST-T changes.<br />
* Bệnh viện Thống nhất Tp. Hồ Chí Minh<br />
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Trần Quốc Hoàn ĐT: 0984989902<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014<br />
<br />
Email: hermybin@gmail.com<br />
<br />
135<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Results. The 196 patients with COPD, we found electrocardiogram changes in 61.3% (122 ps) patients,<br />
while 38.7% (74 ps) had normal electrocardiogram. The most frequent electrocardiogram changes observed were<br />
rS pattern in V5, V6 (47.5%), p pulmonale (42%), qR pattern in aVR (37.2%), ST-T changes (35.8%), bundle<br />
branch block (28.6%), and low QRS (12.8%). Right axis deviation and left axis deviation were observed in 16.3%<br />
and 13.8% patients, respectively. Eventually, Of the 196 patients with COPD, incidence of those<br />
electrocardiographic features showed significant negative correlations with FEVl/FVC ratio as well as with the<br />
grades of GOLD.<br />
Conclusion. Diagnostic values of electrocardiogram in patients with chronic obstructive pulmonary disease<br />
suggest that chronic obstructive pulmonary disease patients should be screened electrocardiographically in<br />
addition to other clinical investigations.<br />
Key words: Electrocardiographic changing; Chronic Obstructive Pulmonary Disease;<br />
trong COPD vừa có thể là biến chứng vừa có thể<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
là bệnh đồng mắc chiếm tỷ lệ cao nhất và là<br />
Trong thực hành lâm sàng, hô hấp và tuần<br />
nguyên nhân gây tử vong chính của COPD. Tuy<br />
hoàn là hai cơ quan có mối liên quan mật thiết<br />
nhiên, qua tham khảo từ ATS, EURS, WHO, USvới nhau. Sự thay đổi của cơ quan hô hấp thì<br />
NHLBI, AHA, NYHA; chúng tôi cũng chỉ thu<br />
sớm hay muộn đều dẫn đến thay đổi cơ quan<br />
được khiêm tốn các khuyến cáo, các công trình<br />
tuần hoàn và ngược lại. Bệnh phổi tắc nghẽn<br />
nghiên cứu liên quan giữa tim mạch và COPD<br />
mạn tính (COPD), một bệnh lý ảnh hưởng mạn<br />
và còn ít hơn trong các nghiên cứu về ECG trong<br />
tính cơ quan hô hấp một cách nặng nề đang<br />
COPD. Do vậy, đây là lĩnh vực mà GOLD đang<br />
ngày càng gia tăng có tính thời sự toàn cầu.<br />
khuyến cáo cần nghiên cứu thêm để bổ sung cho<br />
COPD là một bệnh tiến triển được đặc trưng bởi<br />
các phiên bản sắp tới. Vì những lý do đó chúng<br />
sự tắc nghẽn và giới hạn đường thở có hay<br />
tôi đưa ra mục tiêu nghiên cứu một khía cạnh<br />
không phục hồi hoàn toàn hoặc một phần.<br />
quan trọng trong COPD như sau:<br />
COPD liên quan chặt chẽ đến đáp ứng viêm của<br />
1, Khảo sát những biến đổi ECG trong bệnh<br />
phổi khi tiếp xúc lâu dài với thuốc lá, bụi bẩn và<br />
nhân COPD. 2, Khảo sát mối liên hệ giữa các<br />
các chất ô nhiễm không khí khác. COPD là một<br />
biến đổi ECG và các phân bậc GOLD 2012.<br />
bệnh lý có đặc điểm khó thở ngày càng tăng, tốc<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
độ tùy từng cá thể. Các bàn luận về COPD được<br />
cập nhật hàng năm của GOLD.<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Qua một thập kỷ, mặc dù sự nỗ lực của<br />
nhóm các chuyên gia GOLD, mọi biện pháp và<br />
nỗ lực cũng chỉ dừng lại ở mức độ làm giảm<br />
triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống; làm<br />
giảm đợt cấp và cải thiện tỷ lệ tử vong.<br />
Năm 2000, GOLD đề xuất phân loại mức độ<br />
nặng của bệnh theo giai đoạn suy giảm của FEV1<br />
nhưng thực ra theo thời gian người ta phát hiện<br />
ra rằng bảng phân loại này không hoàn toàn liên<br />
quan rõ rệt đến mức độ trầm trọng của khó thở,<br />
giới hạn gắng sức và tình trạng suy giảm sức<br />
khỏe. Vì vậy, hằng năm các chuyên gia của<br />
GOLD đều đề nghị hệ thống phân loại tốt hơn.<br />
GOLD 2011 đã đưa ra vai trò bệnh tim mạch<br />
<br />
136<br />
<br />
196 bện nhân COPD được chẩn đoán từ<br />
12/2011-12/2012 (trong tổng 290 bệnh nhân bệnh<br />
phổi mạn).<br />
<br />
Phương pháp tiến hành<br />
Test chức năng phổi và tính toán FEV1 và<br />
FEV1/FVC. Chẩn đoán và đánh giá mức độ tắc<br />
nghẽn theo GOLD 2012. Điện tâm đồ được đo 12<br />
chuyển đạo tiêu chuẩn. Các cân lâm sàng khác<br />
khi cần thiết.<br />
Các đặc tính được nghiên cứu gồm: P “phế”,<br />
trục sóng P, phức bộ QRS và biên độ của chúng,<br />
block nhánh, kiểu qR ở aVR, kiểu rS ở V5, V6,<br />
thay đổi ST- T.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014<br />
Nhập và xử lý số liệu<br />
Phần mềm Microsoft office-Exel. Version<br />
2010. Mọi khác biệt được xem là có ý nghĩa<br />
thống kê khi xác suất p < 0,05.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Các biển đổi điện tâm đồ trong trong bệnh<br />
phổi tắc nghẽn mạn tính<br />
Bảng 1. Các biến đổi nhịp tim trong COPD<br />
Các loại nhịp tim<br />
Nhịp xoang bình thường<br />
Nhịp nhanh xoang<br />
Nhịp chậm xoang<br />
Ngoại tâm thu nhĩ<br />
Ngoại tâm thu thất<br />
Rung nhĩ/cuồng nhĩ<br />
Nhịp nhanh thất<br />
Tổng<br />
<br />
Số lượng<br />
74<br />
82<br />
01<br />
11<br />
09<br />
16<br />
01<br />
196<br />
<br />
Tỉ lệ %<br />
38,7%<br />
41,2%<br />
0,3%<br />
5,6%<br />
5,1%<br />
8,1%<br />
0,3%<br />
100%<br />
<br />
Bảng 2. Các biến đổi ECG trong COPD<br />
Thông số<br />
<br />
Thời gian<br />
<br />
Biên độ<br />
<br />
Trục<br />
<br />
Thời gian<br />
Điện thế ngoại<br />
biên<br />
<br />
Trục QRS<br />
<br />
qR ở aVR<br />
Kiểu rS ở V5,<br />
V6<br />
Biến đổi ST/T<br />
Biến đổi ECG<br />
<br />
Trạng thái<br />
Số lượng<br />
Sóng P<br />
Bình thường<br />
136<br />
Kéo dài<br />
60<br />
Bình thường<br />
84<br />
P “phế”<br />
82<br />
Khác<br />
30<br />
0<br />
111<br />
> 60<br />
Bình thường<br />
8<br />
0<br />
77<br />
≤ 60<br />
Phức bộ QRS<br />
Bình thường<br />
140<br />
Block nhánh<br />
56<br />
Bình thường<br />
171<br />
Thấp<br />
25<br />
Trung gian<br />
134<br />
RAD<br />
32<br />
LAD<br />
27<br />
Vô định<br />
3<br />
Có<br />
73<br />
Không<br />
123<br />
Có<br />
93<br />
Không<br />
103<br />
Bình thường<br />
127<br />
Thấp/dẹt/ ngược<br />
69<br />
chiều<br />
Có<br />
181<br />
Không<br />
15<br />
<br />
Tỉ lệ %<br />
69<br />
31<br />
43<br />
42<br />
15<br />
56,6<br />
4,1<br />
39,3<br />
71,4<br />
28,6<br />
87,2<br />
12,8<br />
68,3<br />
16,3<br />
13,8<br />
1,6<br />
37,2<br />
62,8<br />
47,5<br />
52,5<br />
64,8<br />
35,2<br />
92,4<br />
7,6<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
So sánh các biến đổi điện tâm đồ theo phân<br />
bậc GOLD<br />
Bảng 3. Rối loạn nhịp theo phân bậc GOLD<br />
Rối loạn<br />
Nhịp xoang thường<br />
Nhịp xoang nhanh<br />
Nhịp xoang chậm<br />
Khác<br />
TỔNG<br />
<br />
GOLD II<br />
30(51%)<br />
24(41%)<br />
2(3,3%)<br />
3(4,7%)<br />
59<br />
<br />
GOLD III<br />
38(32%)<br />
53(45%)<br />
0(0%)<br />
28(23%)<br />
119<br />
<br />
GOLD IV<br />
8(44%)<br />
6)33%)<br />
0(0%)<br />
4(23%)<br />
4<br />
<br />
Bảng 4. Tương quan giữa các biến đổi khác của ECG<br />
với FEV1<br />
FEV1<br />
P “phế”<br />
Block nhánh P<br />
Trục QRS lệch P<br />
Nhịp tim nhanh<br />
<br />
R<br />
-0,05<br />
-0,02<br />
-0,16<br />
-0,16<br />
<br />
P<br />
< 0,05<br />
< 0,05<br />
< 0,05<br />
< 0,05<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Bệnh nhân COPD có nguy cơ tim mạch cao.<br />
Điện tâm đồ (ECG) cung cấp nhiều thông tin có<br />
giá trị về bệnh tim và có giá trị tiên lượng. Trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi, nhịp nhanh xoang<br />
chiếm tỷ lệ 41,2%. Trong nghiên cứu của Miriam<br />
J. Warnier và cộng sự, nhịp nhanh xoang chiếm<br />
50% cao hơn rõ rệt trong nhóm không COPD<br />
36%. Greenber, Yisachar J và cộng sự tìm thấy<br />
trong một phân tích gộp rằng nhịp nhanh xoang<br />
là tình trạng rối loạn nhịp phổ biến nhất trong<br />
bệnh nhân COPD nhập viện, nó chiếm 61%<br />
trường hợp.<br />
Nhịp nhĩ đa ổ theo các tác giả này, chiếm 617%; rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ chiếm 2,5-18% và<br />
nhịp nhanh nhĩ chiếm 16% bệnh nhân. Nghiên<br />
cứu của chúng tôi có rung nhĩ/cuồng nhĩ chiếm<br />
8,6% và ngoại tâm thu nhĩ chiếm 5,6%; đặc biệt<br />
có xuất hiện ngoại tâm thu thất 5.1% trường hợp.<br />
Chỉ có một trường hợp nhịp chậm xoang và một<br />
trường hợp nhịp nhanh kịch phát thất (0,3%).<br />
Nhóm nhịp tim bất thường xuất hiện phần lớn<br />
trong COPD so với nhịp tim bình thường (61,3%<br />
và 38,7%), p < 0,05. Theo Jenten MT và cộng sự,<br />
rối loạn nhịp có liên quan đến tỷ lệ tử vong cả<br />
tim mạch và tất cả các nguyên nhân trên tất cả<br />
các giai đoạn của bệnh COPD. Rối loạn nhịp<br />
xuất hiện trong COPD thường được lý giải: (1)<br />
Thiếu ô xy trường diễn trong COPD làm co mao<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014<br />
<br />
137<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
mạch phổi gây tăng áp phổi tăng tiền gánh của<br />
tim và tăng nhịp tim để tăng nhu cầu ô xy cho tổ<br />
chức. (2)Thuốc lá và COPD làm tăng nguy cơ<br />
tim mạch trong đó có rối loạn nhịp, (3) Đồng<br />
vận β2 thường được dùng trong COPD cũng góp<br />
phần làm tăng gánh hệ tim mạch do kích thích<br />
hệ tim mạch. Những thuốc này làm tăng tần số<br />
tim và huyết áp, làm tăng nguy cơ thiếu máu cục<br />
bộ cơ tim, tai biến mạch máu não và các rối loạn<br />
nhịp tim như rung nhĩ, nhịp nhĩ đa ổ và các rối<br />
loạn nhịp khác.<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, P “phế”<br />
chiếm tỉ lệ khá cao (42%). Đây là một kiểu biến<br />
đổi điện tim tương đối chuyên biệt của COPD.<br />
Trong nghiên cứu Spodicks, 13.9% bệnh nhân<br />
COPD có sóng P ≥ 0.25mV, Carid và Wilcken,<br />
15,5%, trong khi Scott và cộng sự ; Pinto và cộng<br />
sự ghi nhận cùng tỷ lệ 32,7%. Kết quả của chúng<br />
tôi thì tương đồng với Rachaiah. Nhiều tác giả<br />
xem P “phế” là dấu hiệu tiên lượng COPD: Sóng<br />
P “phế” được dùng như một dấu hiệu gián tiếp<br />
của dày thất phải (Winternitz, I935; Hecht, I937;<br />
Katz, 1946; Wood, 1948; Kilpatrick, 1951.<br />
Lepeschkin, I951; Phillips, 1958). Một số tác giả<br />
khác đề nghị: P “phế” là do thay đổi vị trí tim<br />
quay dọc do phổi căng phồng và đẩy cơ hoành<br />
xuống thấp (Spodick,1959; Caird và Wilcken,<br />
I962; Phillips,I958). Ram Abhishek Sharma trong<br />
một nghiên cứu đề nghị rằng nếu sóng P “phế”<br />
xuất hiện thì có thể kết luận COPD ở giai đoạn<br />
nặng và được điều trị ngay cả khi không thực<br />
hiện được hô hấp kí và nếu sóng P “phế” xuất<br />
hiện; bệnh nhân có thể bắt đầu điều trị cả<br />
corticosteroids và đồng vận beta 2 hoạt động kéo<br />
dài dạng hít. Trục sóng P chuyển sang phải (trục<br />
P>+600) xuất hiện quá nửa trường hợp (56,6%).<br />
Đây là một trong hai thông số của sóng P có giá<br />
trị đánh giá tim mạch trong COPD, chúng gián<br />
tiếp đánh giá tình trạng dày giãn tim phải và<br />
tăng áp phổi và như vậy cũng đánh giá được<br />
tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí. Tỷ lệ trục P<br />
> +600 trong các nghiên cứu khác: 80% bởi<br />
Zuckermann và cộng sự (1948) và 48,6% bởi S.<br />
Padmavati và Veena Raizada(1972) . Trục P lệch<br />
<br />
138<br />
<br />
phải được dùng để định nghĩa dày nhĩ phải<br />
(Caird and Wilcken, I962; Coelho và cộng sự,<br />
1962). Trong khi đó các tác giả khác cho rằng do<br />
thay đổi tư thế tim và liên quan chặt chẽ đến tắc<br />
nghẽn khi được kiểm định bởi test hô hấp kí và<br />
X-quang (Calatayud và cộng sự, 1970; Tibblin, và<br />
Rose, 1968).<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trục QRS<br />
lệch phải có tỷ lệ 16,3%. Trục QRS lệch phải<br />
theo một số tác giả là dấu hiệu dày và giãn<br />
thất phải và là biểu hiện tâm phế mạn (Phillips<br />
và Burch, 1963; Oram và Davies, 1967). Theo<br />
các tác giả, mối liên quan này là rất chặt chẽ và<br />
là dấu hiệu gián tiếp của tăng áp động mạch<br />
phổi. Trong một nghiên cứu so sánh trục lệch<br />
phải ở 1123 trường hợp dày thất phải của ba<br />
nhóm bệnh nhân, tỷ lệ trục lệch phải vượt trội<br />
hơn hẳn trong nhóm tâm phế mạn (53,4%) so<br />
với hai nhóm suy tim xung huyết và hẹp hai lá<br />
(47,3% và 20,7% tương ứng, Raizada và<br />
Padmavati, 1971). Các tác giả còn cho rằng<br />
trong COPD, dày và giãn thất phải thường<br />
xuất hiện đồng thời và điều đó càng làm cho<br />
tầm quan trọng của dấu hiệu trục lệch phải<br />
trong vấn đề đánh giá tim mạch trong COPD.<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dạng rS ở<br />
V5-6 chỉ tỷ lệ 47,5% so sánh với S. Padmavati và<br />
Veena Raizada, 1997 (77,8%), sự khác biệt có ý<br />
nghĩa thống kê (p < 0,05). Theo nhiều tác giả (A.<br />
O. Obasohan và cộng sự, 2005. Gabriel<br />
Gregoratos, MD, 2004) cho rằng sự thay đổi ECG<br />
trong COPD là những biến cố động, vì vậy sự<br />
khác biệt về phân bố các biến cố giữa kết quả của<br />
chúng tôi và các tác giả khác có lẽ là do họ lấy<br />
kết quả ECG trong thời kỳ bệnh nhân vào phòng<br />
cấp cứu, còn của chúng tôi bệnh nhân phần lớn<br />
đã ra khỏi tình trạng suy hô hấp cấp. Trong<br />
nghiên cứu của Assad và cộng sự, cho thấy sự<br />
thay đổi rõ rệt của thông số này giữa ghi nhận<br />
lần đầu vào viện và lần cuối khi xuất viện.<br />
Nhiều tác giả cho rằng phần lớn sự xuất hiện<br />
sóng S nổi trội trong V5-6 được xem như dấu<br />
hiệu khác của dày thất phải (Spodick, 1959;<br />
Selvester và Rubin,1965). Silver và Calatayud<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014<br />
(1971), trong một nghiên cứu 173 bệnh nhân<br />
COPD với suy giảm chức năng hô hấp nặng tìm<br />
thấy rằng sự đặc hiệu tốt nhất khi biên độ của<br />
QRS là ≤ 0,5mV và R/S ở V6 ≤ 1. Kết quả kiểu<br />
này trong nghiên cứu của chúng tôi là 37,2%.<br />
Đây cũng là một dấu hiệu tương đương dày thất<br />
phải theo nhiều tác giả (Kilpatrick, 1951; Myers<br />
và cộng sự, 1948; Coelho và cộng sự, 1962;<br />
Padmavati, 1970), và họ cho rằng khi xuất hiện<br />
kiểu này cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ với<br />
dấu hiệu kinh điển của dày thất phải ở mức xác<br />
suất 5% và phải được coi là dày thất phải ngay<br />
cả khi vắng mặt các dấu hiệu kinh điển. Kết<br />
quả điện thế thấp trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi là 12,8%. Trong khi đó các tác giả khác<br />
(Murphy và Hutcheson, 1974 58,3%, Suma K.S,<br />
2006 28%). Theo các tác giả Silver và<br />
Calatayud, Mark và Snider cho rằng điện thế<br />
QRS thấp là do sự tăng lượng khí ứ trệ ở phổi<br />
tạo ra tư thế tim vuông góc với mặt phẳng trán<br />
đồng thời sự căng phồng không khí giữa điện<br />
cực và thành tim làm tăng điện trở gây nên<br />
giảm biên độ QRS. Điều này chứng tỏ bệnh<br />
nhân có khí phế thũng nặng và như vậy điện<br />
thế QRS thấp được xem như dấu hiệu đánh giá<br />
tiên lượng rất giá trị.<br />
Bloch nhánh trong nghiên cứu của chúng tôi<br />
chiếm tỷ lệ 29%.Theo Padmavati và Raizada<br />
(1972) thu được kết quả 15,4% và hai tác giả có<br />
nhận xét rằng block nhánh thường xuất hiện<br />
cùng với dạng qR trong cùng một bản ghi ECG.<br />
Các tác giả này còn nhận thấy block nhánh<br />
thường xuất hiện thoáng qua trong phần lớn các<br />
trường hợp phì đại thất phải kinh điển. Tuy<br />
nhiên, theo Lazović. B và cộng sự, april- 2013;<br />
Block nhánh phải không hoàn toàn (nghiên cứu<br />
của chúng tôi, 20/196, 10,2%) là dấu hiệu sớm<br />
của COPD vì người ta đã chứng minh rằng một<br />
tình trạng COPD trầm trọng không thể tạo ra<br />
một dấu hiệu ECG như thế. Theo Richard N.<br />
Fogoros, M.D. 2011, block nhánh phải hiện diện<br />
phần lớn ở người khỏe mạnh nhưng gia tăng<br />
xuất hiện theo tuổi. Ở tuổi 80, hơn 11% người<br />
xuất hiện Block nhánh phải. Tuy nhiên, khi tồn<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
tại với COPD thì Block nhánh phải lại liên quan<br />
đến mức độ trầm trọng của bệnh. Điều này được<br />
giải thích là do tăng áp suất thất phải mạn tính<br />
hoặc tăng áp suất động mạch phổi cấp tính như<br />
trong trường hợp thuyên tắc động mạch phổi. Ở<br />
đây, cũng theo các tác giả này khi Block nhánh<br />
phải phối hợp với Block nhánh trái thì rất dễ xảy<br />
ra Block AV hoàn toàn, một loại rối loạn nhịp<br />
nguy hiểm cần thiết sự trợ giúp của máy tạo<br />
nhịp. Như vậy, khi xuất hiện Block nhánh nhất<br />
thiết chúng ta phải đi tìm bệnh lý tim kèm theo<br />
hoặc huyết khối phổi và cần thiết sử dụng các<br />
phương tiện như ECHO, MRI và nhiều kỹ thuật<br />
khác để nhanh chóng đưa ra các phương án điều<br />
trị kịp thời thích hợp. Cuối cùng, trong COPD<br />
kèm Block nhánh chúng ta có thể coi như là sự<br />
diễn tiến nặng của bệnh và có nguy cơ tim mạch<br />
kèm theo.<br />
Thay đổi ST-T trong nghiên cứu của chúng<br />
là 35% so sánh với 57,7% của S. Padmavati và<br />
Veena Raizada. Biến đổi ST-T, nó là dấu hiệu<br />
thay đổi không ổn định nhất trong tất các các<br />
dấu hiệu ECG. Sóng T ngược chiều ở các chuyển<br />
đạo trước tim phải minh chứng cho dãn và căng<br />
quá mức thất phải (Coelho và cộng sự, I962;<br />
Armen, Kantor, và Weiser, I958). Tuy nhiên<br />
trong nghiên cứu của Padmavati và Veena<br />
Raizada lại chứng tỏ chẳng có mối liên hệ nào<br />
giữa T ngược chiều V1-3 với dày và giãn thất<br />
phải. Nhiều tác giả cũng cho rằng thay đổi này<br />
của sóng T gặp trong nhiều bệnh lý như bệnh lý<br />
bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ, thuyên tắc phổi…<br />
và nói như Phillip S. Cuculich, Andrew M. Kates<br />
2009, có đến ít nhất 20 lý do thay đổi ST-T.<br />
Các biến đổi của ECG trong COPD ít khi đơn<br />
độc (6%). Đại đa số bệnh COPD đều có từ ≥ 2<br />
biến đổi ECG. Sự biến đổi đơn độc thì ít đặc hiệu<br />
hơn sự phối hợp trên một dấu hiệu.<br />
Nhịp nhanh xoang trong các phân đoạn của<br />
GOLD chiếm tỷ lệ khá cao (41%, 45%, 33% trong<br />
mỗi nhóm), phân bậc càng cao xuất hiện rối loạn<br />
nhịp như rung nhĩ/cuồng nhĩ, nhanh thất<br />
(những rối loạn nhịp chết người) càng nhiều<br />
hơn. Các thông số ECG như P “phế”, trục P lệch<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014<br />
<br />
139<br />
<br />