Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2014<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ CHI PHÍ KHÔNG CHÍNH THỨC<br />
NHẰM CẢI THIỆN CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH (PCI)<br />
CỦA KHÁNH HÒA<br />
STUDING UNOFFICAL COSTS TO ENHANCE PROVINCIAL<br />
COMPETITIVENESS INDEX (PCI) OF KHANH HOA<br />
Lê Thị Hồng Yến1, Nguyễn Thị Hà Trang2<br />
Ngày nhận bài: 11/4/2014; Ngày phản biện thông qua: 16/6/2014; Ngày duyệt đăng: 01/12/2014<br />
<br />
TÓM TẲT<br />
Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng dựa trên dữ liệu của VCCI và điều tra khảo sát các doanh nghiệp trên địa<br />
bàn tỉnh để xác định các nguyên nhân cơ bản của vấn đề chi phí không chính thức mà các doanh nghiệp và nhà đầu tư phải<br />
tri trả của tỉnh Khánh Hòa. Kết quả phân tích thực trạng cho thấy chỉ số "Chi phí không chính thức” xếp ở vị trí tương đối<br />
thấp, khoảng 30 - 40/63 tỉnh/thành. Để cải thiện chỉ số thành phần này, theo khảo sát 700 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh,<br />
chính quyền tỉnh Khánh Hòa nên chú trọng vào các vấn đề: (i) Công khai hóa các thông tin, quy trình thủ tục hành chính<br />
cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư; (ii) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; (iii) Đào tạo, luân chuyển cán bộ công<br />
chức và xây dựng cơ chế hợp lý để gia tăng thu nhập hợp pháp; (iv) Xây dựng chương trình đào tạo hàng năm cho doanh<br />
nghiệp; (v) Thực hiện nghiêm chương trình phòng chống tham nhũng.<br />
Từ khóa: PCI, chi phí không chính thức, Khánh Hòa<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Based on data from VCCI and the enterprise’s survey in Khanh Hoa province, this study analyzes the current status of<br />
unoffical costs for enterprises and investers to indentify main causes. Results from VCCI show that the index of information<br />
access and transparancy for enterprises and investers is rather low, around the 30 - 40/63 of provinces/cities. To improve<br />
this index, the results from the survey of 700 enterprises say that Khanh Hoa should focus on problems: (i) Publicizing<br />
information and administrative procedure and processing for enterprises and investers; (ii) Speeding up administrative<br />
reform; (iii) Training, rotating staff and establishing mechanism for increasing legal earned income for staff; (iv) Buiding<br />
training program for enterprises; and (v) Implementing seriously program against corruption.<br />
Keywords: PCI, unofficial costs, Khanh Hoa<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ngày nay, chính quyền cấp tỉnh đã được giao<br />
quyền tự chủ trong các quyết định điều hành kinh<br />
tế địa phương thì việc các tỉnh cạnh tranh với nhau<br />
để thu hút đầu tư là một điều tất yếu. Cải thiên môi<br />
trường kinh doanh để thu hẹp khoảng cách giàu<br />
nghèo, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ở các tỉnh tụt<br />
hậu và duy trì tăng trưởng ở các tỉnh năng động<br />
để nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi tỉnh, và<br />
sâu xa hơn là để tăng cường năng lực cạnh tranh<br />
quốc gia đã thúc đẩy sự ra đời của chỉ số năng lực<br />
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) trong năm 2005. Hiện tại,<br />
<br />
1<br />
<br />
chỉ số PCI, được Phòng Thương mại và Công<br />
nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố thường niên, đã<br />
là một thước đo uy tín để theo dõi và đánh giá tình<br />
hình điều hành kinh tế và cải cách hành chính của<br />
chính quyền địa phương. Trong bảng tổng hợp chỉ<br />
số PCI của cả nước qua các năm, chúng ta dễ nhận<br />
thấy sự thay đổi vị trí xếp hạng liên tục của các tỉnh<br />
trong cả nước. Như vậy, chính quyền của rất nhiều<br />
tỉnh đã và đang nỗ lực điều điều chỉnh chính sách<br />
hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân nhằm cải<br />
thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của<br />
địa phương mình [1-2].<br />
<br />
ThS. Lê Thị Hồng Yến, 2 Nguyễn Thị Hà Trang: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
76 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2014<br />
<br />
Trong các tỉnh miền Trung, Khánh Hòa là một<br />
trong các địa phương có nhiều nỗ lực cải thiện chỉ<br />
số PCI, tuy nhiên theo nhận định chung thì sự thay<br />
đổi trong những năm qua vẫn chưa tương xứng<br />
với tiềm năng và thế mạnh của địa phương. Một<br />
trong những yếu tố làm cho PCI của Khánh Hòa ít<br />
được cải thiện là chỉ số thành phần “Chi phí không<br />
chính thức” vẫn chưa được đánh giá cao trong<br />
mối tương quan chung của cả nước. Đây là chỉ số<br />
thành phần dù không chiếm tỷ trọng lớn trong chỉ<br />
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nhưng có<br />
ảnh hưởng đến nhiều chỉ số thành phần khác và<br />
đặc biệt ảnh hưởng đến sự bền vững của việc cải<br />
thiện môi trường đầu tư và tăng trưởng kinh tế địa<br />
phương trong dài hạn [4].<br />
Để xây dựng các giải pháp quản lý có hiệu quả<br />
nhằm hạn chế được vấn đề chi phí không chính<br />
thức đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư của tỉnh<br />
Khánh Hòa, nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích<br />
thực trạng dựa trên dữ liệu của VCCI và điều tra<br />
khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để xác<br />
định các nguyên nhân cơ bản cho vấn đề chi phí<br />
không chính thức của tỉnh Khánh Hòa.<br />
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu<br />
2.1. Dữ liệu nghiên cứu<br />
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các tài<br />
liệu, báo cáo của VCCI giai đoạn 2005 - 2012 và dữ<br />
liệu sơ cấp được thu thập từ các doanh nghiệp hoạt<br />
động trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa năm 2013. Quy<br />
mô mẫu gồm 700 doanh nghiệp được xác định theo<br />
công thức của Yamane (1967): n = N/(1+N*e2) cho<br />
một tổng thể hữu hạn đã được xác định trước (với<br />
n: số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu, N:<br />
mẫu tổng thể của địa bàn nghiên cứu; e: mức độ<br />
chính xác mong muốn). Các doanh nghiệp được<br />
khảo sát ở các địa bàn sẽ được chọn theo tỷ lệ<br />
tương ứng với tỷ trọng số lượng, loại hình doanh<br />
nghiệp và ngành nghề sản xuất kinh doanh trên<br />
địa bàn đó. Phương pháp điều tra khuyết danh với<br />
Phiếu phỏng vấn phát cho doanh nghiệp và được<br />
thu lại một tuần sau đó [3].<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Nghiên cứu sử dụng các phương pháp (i)<br />
chuyên gia: thực hiện trong phỏng vấn sâu với<br />
chuyên gia VCCI, doanh nghiệp, nhà khoa học; (ii)<br />
điều tra xã hội học: sử dụng trong thực hiện điều<br />
tra doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế; (iii) tổng<br />
hợp, thống kê, so sánh, quy nạp [3].<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
Chỉ số thành phần ”Chi phí không chính thức”<br />
1. Cơ sở lý thuyết<br />
chỉ chiếm trọng số ở mức trung bình (10%) trong<br />
Nghiên cứu sử dụng cơ sở lý thuyết về chỉ số<br />
9 chỉ số thành phần cấu thành chỉ số năng lực cạnh<br />
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được thiết kế và<br />
tranh cấp tỉnh, PCI [1-3]. Nhưng đây lại là chỉ số<br />
điều tra hàng năm của Phòng Thương mại và Công<br />
quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến cảm nhận của<br />
nghiệp Việt Nam (VCCI) ở tất cả các tỉnh/thành<br />
doanh nghiệp và nhà đầu tư đối với môi trường kinh<br />
trong cả nước kể từ năm 2005. Cụ thể, chỉ số thành<br />
doanh. Chỉ số này liên quan rất chặt chẽ với thành<br />
phần “Chi phí không chính thức” phân tích chi phí<br />
phần Tính minh bạch và tiếp cận thông tin (chiếm<br />
mà DN phải bỏ ra để chi trả các khoản phí không<br />
trọng số tới 20%). Vì vậy, về mặt dài hạn, cải thiện<br />
chính thức, tiền phạt và các khoản phí bất thường<br />
chỉ số này sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với việc gia tăng<br />
khác trong điều kiện hoạt động kinh doanh bình<br />
năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững kinh tế<br />
thường [1-3].<br />
của Tỉnh.<br />
Bảng 1. Điểm số và thứ hạng của chỉ số<br />
Năm<br />
<br />
2005<br />
2006<br />
2007<br />
2008<br />
2009<br />
2010<br />
2011<br />
2012<br />
2013<br />
<br />
Chỉ số PCI<br />
<br />
Chi phí không chính thức<br />
<br />
Điểm số<br />
<br />
Thứ hạng<br />
<br />
Điểm số<br />
<br />
Thứ hạng<br />
<br />
54,08<br />
55,33<br />
52,42<br />
52,12<br />
58,66<br />
56,75<br />
59,11<br />
58,82<br />
57,49<br />
<br />
29<br />
17<br />
40<br />
36<br />
30<br />
40<br />
34<br />
24<br />
34<br />
<br />
6,43<br />
6,51<br />
5,38<br />
6,66<br />
5,69<br />
6,49<br />
6,33<br />
6,73<br />
6,52<br />
<br />
20<br />
26<br />
63<br />
31<br />
38<br />
24<br />
43<br />
26<br />
34<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo PCI thường niên của VCCI [4]<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 77<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Theo đánh giá của VCCI, năm 2006, chỉ số<br />
tổng hợp PCI của Khánh Hòa đạt vị thế tương đối<br />
cao so với mặt bằng chung cả nước ở vị thứ 17 với<br />
55, 33 điểm đánh giá. Giai đoạn 2007 - 2011, chỉ số<br />
PCI của Khánh Hòa giao động từ thứ 30 - 40 trong<br />
63 tỉnh thành của cả nước. Năm 2012, Khánh Hòa<br />
có sự tăng trưởng tốt về thứ hạng với vị trí 24/63<br />
tỉnh/thành trong cả nước, cao nhất trong vòng 6<br />
năm trở lại đây. Dù vậy, Khánh Hòa lại trở về vị trí<br />
thường thấy của mình ở thứ hạng từ 30 - 40, cụ thể<br />
là 34, trong năm 2013.<br />
Trong chỉ số tổng hợp PCI của Khánh Hòa, Chi<br />
phí không chính thức (CPKCT) là lĩnh vực yếu của<br />
tỉnh Khánh Hòa. Điểm số CPKCT của Khánh Hòa<br />
luôn luôn thấp hơn 7,00. Do vậy, kết quả xếp hạng<br />
của chỉ số này từ năm 2006 đến 2011 đều thấp hơn<br />
20 (riêng năm 2005, Khánh Hòa xếp thứ 20). Năm<br />
2011, tỉnh Khánh Hòa chỉ xếp hạng 43/63 tỉnh/thành.<br />
Năm 2012 đạt thứ 26 nhưng lại giảm điểm và rơi<br />
xuống vị trí thứ 34/63 tỉnh thành trong cả nước.<br />
Như vậy, phân tích về kết quả chỉ số CPKCT của<br />
Khánh Hòa trong giai đoạn 2006 - 2012 cho thấy,<br />
cứ qua mỗi năm xếp thứ hạng thấp, Khánh Hòa lại<br />
có sự nỗ lực thay đổi để gia tăng thứ hạng, nhưng<br />
rồi sau đó, lại phải đối diện với việc giảm điểm và<br />
kéo theo đó là vị trí xếp hạng tụt xuống ở năm kế<br />
tiếp. Điều này phản ánh thực tế, trong nhiều năm<br />
qua, chính quyền tỉnh Khánh Hòa dù rất cố gắng,<br />
nhưng sự nỗ lực vẫn chưa liên tục, và thực sự vẫn<br />
chưa tìm được hướng giải quyết triệt để nhằm cải<br />
thiện điểm số CPKCT. Kết quả này phản ảnh một<br />
thực tế là các nỗ lực cải thiện điểm và thứ hạng<br />
đối với chỉ số này của Khánh Hòa là chưa liên tục,<br />
thống nhất và bền vững.<br />
Khi xem xét cụ thể hơn chỉ số thành phần chi<br />
phí không chính thức, Khánh Hòa đã cải thiện tốt<br />
được tiêu chí “doanh nghiệp trả hoa hồng để đạt<br />
được các hợp đồng từ các cơ quan Nhà nước”. Cụ<br />
thể từ giai đoạn 2005 - 2009 tỷ lệ các doanh nghiệp<br />
đồng ý với nhận định này ở mức khá cao, qua đến<br />
năm 2010, Khánh Hòa đã tích cực giảm được so<br />
với năm 2009 với tỷ lệ 46,59% doanh nghiệp đồng<br />
ý với nhận định này. Đến năm 2011, Khánh Hòa<br />
đã tạo được bước ngoặc khi vừa giảm được tỷ lệ<br />
doanh nghiệp đồng ý với nhận định này rất nhiều so<br />
với 2 năm trước, vừa thấp hơn so với mức trung vị<br />
cả nước. Năm 2012, con số này của Khánh Hòa là<br />
35,62% thấp hơn mức trung vị cả nước là 40,38%.<br />
Với tiêu chí “cán bộ tỉnh sử dụng các quy định<br />
riêng để trục lợi”, trong hai năm 2006 và 2007, tiêu<br />
chí này của Khánh Hòa luôn bị đánh giá là cao hơn<br />
mức trung vị cả nước và biên độ ngày càng nới rộng.<br />
<br />
78 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 4/2014<br />
Nhưng giai đoạn 2008 - 2011, mặc dù tiêu chí này<br />
của Khánh Hòa vẫn bị đánh giá là cao hơn so với<br />
mức trung vị cả nước nhưng biên độ đã thu hẹp lại<br />
từ 2% - 4%. Hy vọng trong những năm tiếp theo,<br />
Khánh Hòa sẽ có các giải pháp mạnh hơn để có thể<br />
cải thiện được tiêu chí này.<br />
Kết quả đánh giá của VCCI năm 2012 cho<br />
thấy, tỷ lệ doanh nghiệp ở Khánh Hòa cho rằng DN<br />
trong ngành trả chi phí không chính thức là 52,73%,<br />
trong khi đó năm 2011 là 59,55%; điều này có nghĩa<br />
là cứ 10 doanh nghiệp được hỏi thì có khoảng 5<br />
doanh nghiệp công nhận có tồn tại chi phí không<br />
chính thức theo khảo sát của VCCI.<br />
Kết quả khảo sát với 700 DN trong nghiên cứu<br />
này cho thấy có gần một nửa số doanh nghiệp cho<br />
rằng họ phải trả chi phí không chính thức hàng năm<br />
cho các hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả này<br />
là tương đối đồng nhất với kết quả điều tra của<br />
VCCI đối với chỉ số này của Khánh Hòa. Cuộc khảo<br />
sát này cũng cho thấy phần lớn các doanh nghiệp<br />
thường phải trả các chi phí không chính thức phổ<br />
biến nhất, gồm:<br />
- Các thủ tục về đất đai<br />
- Tiếp cận các khoản vốn vay của nhà nước<br />
- Chi phí không chính thức cho hoạt động thanh<br />
tra/kiểm tra<br />
- Giảm thiểu thời gian làm thủ tục hành chính<br />
- Đạt được các hợp đồng với cơ quan nhà nước<br />
và tăng tốc độ giải ngân<br />
- Lại quả cho cán bộ ngân hàng<br />
- Xin các giấy phép kinh doanh khác<br />
- Làm thủ tục đăng ký kinh doanh<br />
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cho biết<br />
thêm các loại chi phí chính thức khác mà doanh<br />
nghiệp thường phải chi trong quá trình hoạt động<br />
như: (i) bồi dưỡng cho cán bộ chính quyền địa<br />
phương nơi doanh nghiệp hoạt động; (ii) bồi dưỡng<br />
cho kiểm toán; (iii) mua quà cáp để tạo mối quan hệ<br />
với cán bộ.<br />
Như vậy, các doanh nghiệp trong tỉnh đang<br />
phải chịu những loại chi phí không chính thức làm<br />
gánh nặng chi phí kinh doanh của họ tăng lên.<br />
Vậy hiệu quả của việc chi ra những loại chi phí<br />
này có đạt được các kỳ vọng như mong muốn<br />
của doanh nghiệp hay không. Kết quả khảo sát<br />
doanh nghiệp cho thấy có tới trên 63% số doanh<br />
nghiệp cho rằng họ đạt được mục đích khi chi ra<br />
các khoản chi phí không chính thức (24,6% luôn<br />
luôn; 38,5% trong phần lớn trường hợp). Chỉ có<br />
11,3% số doanh nghiệp trả lời không hoặc ít khi<br />
đạt được mục đích như mong muốn. Còn lại là<br />
không có ý kiến.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Tóm lại, các loại chi phí không chính thức đang<br />
có một vị trí nhất định trong hoạt động của các<br />
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Nhìn<br />
chung việc cải thiện chỉ số chi phí không chính thức<br />
còn khá hạn chế và chưa liên tục, bền vững. Hầu<br />
như các tiêu chí bị đánh giá là cao hơn mức trung<br />
vị của cả nước, mặc dù đã có cải thiện qua các<br />
năm, phản ánh tình trạng tồn tại các khoản chi trả<br />
phi chính thức còn rất phổ biến. Những tồn tại này<br />
đang có những tác động xấu đến môi trường hoạt<br />
động của các doanh nghiệp, làm hạn chế năng lực<br />
cạnh tranh của tỉnh. Những nguyên nhân sau đây<br />
giải thích tại sao chi phí không chính thức vẫn còn<br />
rất phổ biến tại Khánh Hòa.<br />
(1) Doanh nghiệp (DN) gặp khó khăn khi tìm<br />
kiếm các thông tin về thủ tục đăng ký kiểm duyệt<br />
(ĐKKD) trên website của Sở Kế hoạch - Đầu tư<br />
(KH-ĐT) tỉnh Khánh Hòa và các Sở, ban ngành có<br />
liên quan. Hiện nay, trên website của Sở KH-ĐT tỉnh<br />
Khánh Hòa vẫn chưa đăng tải và có đường link một<br />
cách đầy đủ đến các thông tin cần thiết để các DN<br />
có thể tự tìm kiếm cũng như hiểu rõ hơn về thủ tục<br />
ĐKKD, đặc biệt là trình tự làm thủ tục đăng ký kinh<br />
doanh. Mặc dù Phòng ĐKKD của Sở KH-ĐT tỉnh<br />
Khánh Hòa có niêm yết các thông tin hướng dẫn về<br />
thủ tục ĐKKD nhưng không phải DN nào cũng đọc<br />
hiểu các thông tin trên. Chính vì vậy, doanh nghiệp<br />
thường tìm đến bên môi giới để có thể giải quyết hồ<br />
sơ một cách nhanh nhất.<br />
(2) Các DN hoạt động kinh doanh cần đến các<br />
giấy phép con nhưng thời gian chờ đợi quá dài.<br />
Trong thực tế, giấy phép có rất nhiều loại như: Giấy<br />
chứng nhận, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký,<br />
thẻ, phê duyệt, bằng,… cũng có thể là quyết định<br />
hành chính như văn bản xác nhận, quyết định, giấy<br />
xác nhận, văn bản chấp thuận. Thông thường các<br />
loại giấy phép con được quy định trong các nghị định<br />
và phần lớn là do các Bộ quản lý chuyên ngành đặt<br />
ra trên cơ sở các luật, pháp lệnh. Nội dung các quy<br />
định này không tránh khỏi thiên hướng tạo thuận lợi<br />
cho bộ, ngành, đẩy khó khăn cho DN. Giấy phép<br />
thể hiện điều kiện kinh doanh của ngành nghề kinh<br />
doanh đòi hỏi phải có giấy phép. Vì vậy, về mặt pháp<br />
lý, những ngành nghề kinh doanh hoặc hoạt động<br />
kinh doanh đòi hỏi phải được quản lý bằng giấy phép<br />
và điều kiện hoặc tiêu chí làm căn cứ để cấp hoặc<br />
không cấp giấy phép phải do luật, pháp lệnh hoặc<br />
nghị định hoặc quyết định của Thủ tướng Chính phủ<br />
quy định. Chính các loại giấy phép con này lại chiếm<br />
thời gian rất lớn của DN so với việc ĐKKD.<br />
(3) Việc tiếp cận và am hiểu các thủ tục hành<br />
chính là vấn đề khó khăn đối với hầu hết các DN<br />
<br />
Số 4/2014<br />
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Thực sự, trong quá<br />
trình hoạt động kinh doanh, bất cứ DN nào cũng<br />
phải thường xuyên đối mặt với các thủ tục hành<br />
chính. Vấn đề hiện nay là có quá nhiều thủ tục hành<br />
chính còn khó hiểu, rườm rà mà không phải bất cứ<br />
DN nào cũng có thể hiểu một cách thấu đáo nhất. Vì<br />
vậy, để tiết kiệm thời gian, công sức và đạt được kết<br />
quả một cách nhanh nhất doanh nghiệp xem chi phí<br />
không chính thức như là một công cụ hữu hiệu để<br />
giải quyết vấn đề này.<br />
(4) DN gặp phải nhũng nhiễu từ phía các cán bộ<br />
công chức (CBCC) khi đến các cơ quan nhà nước.<br />
DN vừa và nhỏ có những hạn chế rất lớn trong việc<br />
nắm bắt các thông tin cũng như tìm lời giải đáp cho<br />
những khó khăn và vướng mắc khi gặp phải. Nhiều<br />
vấn đề phức tạp, các doanh nghiệp không nắm bắt<br />
hết các quy định là cơ hội để một bộ phận cán bộ<br />
có thể gây sách nhiễu đối với doanh nghiệp. Bên<br />
cạnh đó, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng cho đội<br />
ngũ CBCC, sự chênh lệch về tiền lương và chế độ<br />
ưu đãi nói chung giữa khu vực nhà nước với khu<br />
vực ngoài quốc doanh dẫn đến việc phát sinh động<br />
cơ tham nhũng đối với CBCC. Đồng thời, khi tiền<br />
lương và những lợi ích vật chất có được từ công<br />
việc hiện tại không đủ để thỏa mãn những nhu cầu<br />
thiết yếu của bản thân và gia đình, người có chức<br />
vụ, quyền hạn dễ có xu hướng tìm kiếm những lợi<br />
ích bất chính do chính chức vụ và quyền hạn của<br />
họ tạo ra.<br />
(5) Tính minh bạch, công khai còn yếu kém<br />
trong khâu mời thầu, đấu thầu và triển khai thực<br />
hiện gói thầu. Theo quy định, các gói thầu thường<br />
được công khai rộng rãi trên các báo và các website<br />
của các Sở, ban ngành. Tuy nhiên, các chủ đầu tư<br />
càng “úp mở” thông tin về gói thầu bao nhiêu thì các<br />
nhà thầu càng phải tốn nhiều khoản phí “không tên”,<br />
để rồi sau đó, sẽ được hạch toán vào giá gói thầu.<br />
Sự thiếu minh bạch thông tin là kết quả tiêu cực khi<br />
những quy định về Hồ sơ mời thầu, điều kiện tham<br />
gia của nhà thầu…v.v chưa được quy định chặt<br />
chẽ, cụ thể và công khai ngay từ giai đoạn mời thầu.<br />
Như vậy, vấn nạn tham nhũng đã bắt đầu từ giai đạn<br />
mời thầu. Chuyển sang giai đoạn đấu thầu, chính<br />
các DN và các chủ đầu tư có mối quan hệ thường<br />
“cấu kết” với nhau để mang lại lợi ích cho cả hai<br />
bên. Trong giai đoạn triển khai thực hiện gói thầu<br />
(hậu đấu thầu), hiện nay việc giải ngân khi thực hiện<br />
gói thầu vẫn thiếu tính minh bạch dẫn tới việc sử<br />
dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, gây lãng phí, nhất<br />
là các dự án có sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước.<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 79<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
1. Kết luận<br />
Đây là chỉ số thành phần có trọng số trung bình<br />
(10%), nhưng Khánh Hòa bị xếp hạng tương đối<br />
thấp (khoảng thứ 40/63 tỉnh thành) trong giai đoạn<br />
2009 - 2013. Thực sự, các loại chi phí không chính<br />
thức đang có một vị trí nhất định trong hoạt động<br />
của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa.<br />
Nhìn chung việc cải thiện chỉ số chi phí không chính<br />
thức còn khá hạn chế và chưa liên tục, bền vững.<br />
Để cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển<br />
kinh tế bền vững trong dài hạn, Khánh Hòa cần chú<br />
trọng và dành nhiều nỗ lực cải thiện chỉ số này.<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các<br />
doanh nghiệp trong tỉnh cho rằng chi phí không chính<br />
thức phát sinh trong các công việc liên quan đến<br />
(i) thực hiện các thủ tục hành chính - đặc biệt đối với<br />
các “giấy phép con” khi mà các doanh nghiệp Khánh<br />
Hòa thường tham gia kinh doanh trong lĩnh vực dịch<br />
vụ; (ii) thanh/kiểm tra; (iii) vay vốn; (iv) đấu thầu các<br />
hợp đồng của nhà nước. Các doanh nghiệp cũng<br />
thường chủ động chi phí cho quà cáp vào các dịp<br />
lễ tết để kết thân với cán bộ công chức. Nguyên<br />
nhân chủ yếu của vấn đề chi phí không chính thức<br />
là: (i) thủ tục hành chính rườm rà, khó hiểu và việc<br />
<br />
Số 4/2014<br />
công khai, hướng dẫn các thủ tục này chưa rõ ràng,<br />
đầy đủ; (ii) các doanh nghiệp ngại mất thời gian và<br />
thực sự, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trình độ<br />
hạn chế nên ngại đến cơ quan công quyền, thích<br />
làm tắt; (iii) một bộ phận cán bộ công chức còn<br />
nhũng nhiễu; (iv) công tác mời thầu, đấu thầu vẫn<br />
còn nhiều kẽ hở, thiếu minh bạch.<br />
2. Kiến nghị<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy tính cấp thiết và<br />
các vấn đề trọng điểm mà Khánh Hòa cần phải thực<br />
hiện để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp<br />
tỉnh, PCI, từ đó xây dựng được hình ảnh tích cực<br />
hơn trong “con mắt” của doanh nghiệp và nhà đầu<br />
tư. Để cải thiện chỉ số thành phần “Chi phí không<br />
chính thức”, trong những năm tiếp theo, chính<br />
quyền tỉnh Khánh Hòa nên chú trọng vào các vấn<br />
đề: (i) công khai hóa các thông tin, quy trình thủ tục<br />
hành chính cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư;<br />
(ii) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; (iii) Đào<br />
tạo, luân chuyển, nâng cao chất lượng cán bộ công<br />
chức và xây dựng cơ chế hợp lý để gia tăng thu<br />
nhập hợp pháp; (iv) Xây dựng chương trình đào tạo<br />
hàng năm cho doanh nghiệp; (v) Thực hiện nghiêm<br />
chương trình phòng chống tham nhũng.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
Phan Nhật Thanh, 2010. Nghiên cứu nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Hải Dương, Luận văn Tiến sỹ.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nguyễn Trường Sơn, 2009. Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp<br />
tỉnh (PCI) của tỉnh Quảng Ngãi, Đề tài cấp tỉnh, Sở KHCN Quảng Ngãi.<br />
<br />
3.<br />
<br />
Võ Tấn Thái và ctv, 2014. Nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Khánh Hòa giai đoạn 2012 - 2020, Đề tài<br />
cấp tỉnh, đã nghiệm thu tháng 04, 2014, Sở KHĐT Khánh Hòa.<br />
<br />
4.<br />
<br />
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam từ năm 2005<br />
đến 2012.<br />
<br />
80 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />