Nguồn nhân lực chất lượng cao cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 1
download
Bài viết "Nguồn nhân lực chất lượng cao cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay" mô tả khái quát tác động của cuộc cách mạng 4.0 đến nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nguồn nhân lực chất lượng cao cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đinh Thị Thúy Hường Ngô Thái Hà Thân Thị Giang, Bùi Thị Ngọc Lan*** Tóm tắt: Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, máy móc tự động hóa sẽ thay thế con người, theo đó nguồn nhân lực phải trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới. Để làm rõ một số vấn đề về nguồn nhân lực cao, trong bài viết này, nhóm tác giả mô tả khái quát tác động của cuộc cách mạng 4.0 đến nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao. 1. MỞ ĐẦU Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ, không chỉ với những ý niệm hay định nghĩa mà là những thành quả, những sản phẩm cụ thể. Sự phát triển của cuộc cách mạng này đang đặt ra yêu cầu và những đòi hỏi mới về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực ở cấp doanh nghiệp cũng như cấp quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong ba chiến lược đột phá nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế của nước ta. Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: “Chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; coi trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế. Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế”1. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư được xây dựng trên nền tảng cuộc CMCN lần thứ ba, là sự hợp nhất các công nghệ, làm mờ đi ranh giới giữa các các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh ThS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, phân hiệu Hà Nam. TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. ThS. Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây. 1 Nguồn:https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-05-NQ-TW-chu-truong-chinh-sach-lon-nham-doi-moi- mo-hinh-tang-truong-suc-canh-tranh-nen-kinh-te-329067.aspx. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 298
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững học. Cuộc CMCN 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các nhà máy thông minh, trong đó các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với sự phát triển của Internet vạn vật, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, phục vụ con người thông qua mạng Internet dịch vụ. Công nghệ hiện tại đã cho phép hàng tỷ người kết nối mạng mọi lúc, mọi nơi thông qua các thiết bị di động, cho phép xử lý, lưu trữ, và tiếp cận tri thức không giới hạn. Những khả năng này sẽ được nhân lên gấp bội bởi sự đột phá của công nghệ trong các lĩnh vực khác, đặc biệt bởi năng lực tính toán và sự sẵn có khối lượng lớn dữ liệu. Với việc các công nghệ chế tạo số có thể tương tác với thế giới sinh học, các nhà thiết kế và kiến trúc sư đã kết hợp giữa thiết kế bằng máy tính, kỹ thuật vật liệu và sinh học tổng hợp cho các hệ thống tiên phong có liên quan đến sự tương tác giữa các vi sinh vật, cơ thể người, những sản phẩm con người tiêu thụ và thậm chí cả những tòa nhà con người đang sinh sống. CMCN 4.0 mở ra kỷ nguyên mới về đầu tư, năng suất và mức sống gia tăng. Việc áp dụng thành công kỹ thuật vào chế tạo robot, phát triển Internet vạn vật, điện thoại di động và công nghệ in 3D đã thúc đẩy năng suất lao động toàn cầu tăng mạnh như những gì mà máy tính cá nhân và mạng Internet đã làm được vào cuối những thập niên 90 của thế kỷ XX. CMCN 4.0 không chỉ đơn thuần là sự kéo dài của cuộc CMCN lần thứ ba mà có sự khác biệt lớn về tốc độ phát triển, phạm vi và mức độ tác động của nó. So với các cuộc CMCN trước đây, cuộc CMCN 4.0 đang phát triển với tốc độ ở cấp số nhân, đang làm biến đổi hầu hết nền công nghiệp ở tất cả quốc gia trên thế giới không chỉ về bề rộng mà còn đi vào chiều sâu trong toàn bộ các hệ thống sản xuất và quản lý. Dựa trên nền tảng là những thành công trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên: toán học, vật lý, hóa học, khoa học xã hội và nhân văn, các lĩnh vực khoa học và công nghệ: công nghệ tin học, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ nông nghiệp, y dược, nhân loại đã có nhiều phát kiến sáng tạo và ứng dụng hiệu quả phục vụ lợi ích của con người. 2.2. Quan niệm về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao Nguyên liệu sẵn sàng của một nước tiên tiến về kinh tế không phải là của cải vật chất của nó, mà là: “Con người với những kiến thức được thu thập từ những tìm kiếm đã được kiểm nghiệm, những tìm tòi của khoa thực tiễn và khả năng cũng như sự đào tạo người dân của nước đó sử dụng những kiến thức này một cách có hiệu quả”2. Nhà kinh tế học cổ điển người Anh - Adam Smith là người đầu tiên đưa ra khái niệm về vốn nhân lực. Ông cho rằng: “Sự tích lũy những tài năng trong quá trình học tập, nghiên cứu hoặc học việc thường đòi hỏi chi phí. Đó là tư bản cố định đã kết tinh trong con người. Những tài năng đó tạo thành một phần tài sản của anh ta và của xã hội”3. Nhân lực là sức con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với quá trình phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất, xã hội cần có các yếu tố cơ bản: sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Theo C.Mác: “Sức lao động chính là toàn bộ năng lực, thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng trong khi sản xuất ra một giá trị sử dụng 2 E.Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.419. 3 Nguyễn Xuân Cầu (2009), Kinh tế nguồn nhân lực, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr.14. 299
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất nào đó”4. Cùng với sự phát triển của sản xuất, sức lao động của con người không ngừng được hoàn thiện, phát triển và nhận thức về nguồn lực này cũng ngày càng đầy đủ hơn. Nếu trước đây, nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một trong các nguồn lực cho phát triển như các nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực được coi là mục tiêu cho phát triển của tất cả các quốc gia. Trong thời đại ngày nay, khi cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ thì trí tuệ của con người được đánh giá là nguồn lực vô tận, có tính quyết định đối với sự phát triển. Có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực, điều đó phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề. Nếu tiếp cận nguồn nhân lực dựa vào khả năng lao động thì nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, của toàn thể xã hội có cơ thể phát triển bình thường, có khả năng lao động. Nếu tiếp cận nguồn nhân lực dựa trên tiêu trí trạng thái hoạt động kinh tế của con người thì, nguồn nhân lực là toàn bộ những người đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,..của mỗi cá nhân. Như vậy, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Liên Hợp quốc xem nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là “vốn người” mà coi nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Tổ chức Lao động quốc tế, quan niệm rộng hơn và cụ thể hơn khi cho rằng: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Dưới góc độ kinh tế phát triển: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học,..Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Từ quan niệm về nguồn nhân lực trên, ta có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao thiên về trình độ đào tạo cao (từ đại học trở lên), tức là đồng nhất chất lượng cao với trình độ cao; có cách hiểu 4 C.Mác - Ph.Ănghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.251. 300
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực được sử dụng trong thực tế mang lại năng suất và hiệu quả cao. Cả lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy: khi nói về nguồn nhân lực chất lượng cao đều phải bao hàm mối quan hệ hữu cơ giữa các tiêu chí chất lượng và trình độ của nguồn nhân lực quốc gia, đồng thời nguồn nhân lực chất lượng cao phải được thể hiện trực tiếp ở vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trên thực tế, chất lượng cao không hoàn toàn đồng nhất với trình độ cao. Đồng thời, khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao cần được hiểu theo hai nghĩa và có quan hệ mật thiết với nhau: Thứ nhất, đó là nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng đáp ứng có hiệu quả cao đối với việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, trình độ phát triển cụ thể, điều kiện cụ thể; Thứ hai, đó là nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao trong tương quan với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới và trong tương quan với nhân lực quốc tế. Sự phân định này là cần thiết để xác định rõ yêu cầu, bước đi, tính hiện thực, tính hiệu quả trong phát triển nguồn nhân lực trên bình diện quốc gia cũng như trong từng ngành, lĩnh vực, đơn vị và mỗi người lao động. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một quốc gia, dân tộc. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, nghĩa là phải bảo đảm được các yếu tố: có kiến thức chuyên môn sâu, rộng, thành thạo ngoại ngữ, tin học; có kỹ năng, kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc,..Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực, thể lực, khả năng lao động, tính tích cực chính trị - xã hội, đạo đức, tình cảm trong sáng... 2.3. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam Cuộc cách mạng 4.0 đã mang tới nhiều cơ hội phát triển và hội nhập, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đó là, sự tụt hậu xa hơn, lao động chi phí thấp mất dần lợi thế, khoảng cách công nghệ và tri thức nới rộng hơn dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn. Đây thực sự là những khó khăn trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam còn thua kém các doanh nghiệp nước ngoài về công nghệ và vốn đầu tư. Tuy nhiên, đặc biệt lưu ý đến thách thức về nguồn nhân lực chất lượng cao. Năng suất lao động là tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế. Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có 03 yếu tố chính: cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành, trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực. Cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng do công nghệ làm chủ, tức là công nghệ, máy móc vừa đóng vai trò là lực lượng sản xuất vừa là phương tiện sản xuất và thay thế yếu tố lao động thủ công, trình độ thấp như hiện nay. Nhưng hiện tại, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của nước ta vẫn chiếm tỷ lệ cao trên 44% (khoảng hơn 23 triệu người) tổng cơ cấu lao động; trong khi nguồn lao động được đào tạo bài bản, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiêp 4.0 lại thiếu hụt lớn. Thách thức này sẽ không dễ giải quyết trong thời gian ngắn. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều ngành nghề sẽ biến mất nhưng lại có những công việc mới ra đời. Trước xu thế máy móc tự động hóa thay thế con người, nguồn nhân lực phải trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới. Số lượng công nhân bị ảnh hưởng từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không hẳn đã thất nghiệp mà họ sẽ chuyển sang quá trình học cách vận hành các loại máy móc tinh vi, hiện đại, để không đứng ngoài thị trường lao động trong 301
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất tương lai. Do đó, nhu cầu đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện nay trở nên vô cùng cấp bách. Tuy nhiên, đào tạo ở Việt Nam từ trước đến nay thiên về hàn lâm, khi đi vào chuyên sâu khó thích nghi, chuyển đổi và tích hợp. Các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học đang phải đối mặt với các yêu cầu cải cách và cạnh tranh mới, đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học những kiến thức và kỹ năng cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các yêu cầu công việc thay đổi để tránh nguy cơ bị đào thải. Học sinh, sinh viên với các kiến thức, kỹ năng đang được dạy trong nhà trường hiện nay, theo đánh giá của nhiều doanh nghiệp và các chuyên gia, còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện tại, có thể hoàn toàn không hữu dụng với nền kinh tế 4.0 hoặc đang dễ dàng bị robot thay thế trong tương lai gần ở một số ngành nghề. Vì thế, các cơ sở giáo dục đại học nếu không có định hướng về nghề nghiệp cho người lao động để đào tạo kiến thức nhằm chủ động tiếp nhận cơ hội mà cách mạng 4.0 đưa tới thì thời cơ vàng của cơ cấu dân số trẻ có thể bị bỏ lỡ, bị tụt hậu trong thời đại công nghệ số hiện nay. Cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng công nghiệp, khuyến khích tư duy sáng tạo và khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học công nghệ,..Nhà nước cần có chính sách thỏa đáng để khuyến khích và thu hút doang nghiệp và người lao động cùng tham gia vào quá trình xã hội hóa giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng có hiệu quả, thiết thực. Do đó, cần đa dạng hóa ngành nghề, đa dạng hóa hình thức đào tạo, thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông một cách hiệu quả, chú trọng đầu tư, phát triển các ngành, nghề có giá trị gia tăng cao. Thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế cho thấy, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0. Hơn 2/3 trong số 9,2 triệu lao động ngành dệt may và da giày tại Đông Nam Á đang bị đe dọa bởi sự bùng nổ nhanh chóng của ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành này. Trong số đó, có 86% lao động của Việt Nam, 88% lao động của Campuchia và 64% lao động của Indonesia trong ngành may mặc, da giày sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự động hóa, công nghiệp hóa của ngành5. Đặc biệt, nền công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Các nhà kinh tế và khoa học cảnh báo, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về chất lượng nguồn nhân lực: trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn thấp; năng suất lao động thấp hơn nhiều nước trong khu vực Asean,..Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2018 với trọng tâm “Hiểu về thị trường lao động để tăng năng suất” vừa được Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố thì, năng suất lao động bình quân của lao động Việt Nam tính theo giá hiện hành tăng từ 38,64 triệu đồng năm 2006 lên 60,73 triệu đồng vào cuối năm 2017. Trên phương diện so sánh quốc tế, năng suất lao động của Việt Nam được đặt trong mối tương quan với các nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và ASEAN (Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, Campuchia). Tuy nhiên, VEPR cho biết, kết quả cho thấy, tới năm 2015, năng suất lao động của 9 nhóm ngành của Việt Nam đang ở mức gần hoặc thấp nhất trong các nước kể trên. 5 Nguyễn Hoài, “86% lao động dệt may có thể mất việc vì cách mạng 4.0”, ngày18/8/2017. Nguồn.https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/86-lao-dong-det-may-co-the-mat-viec-vi-cach-mang-4-0- 3629524.html. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 302
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Năng suất lao động của Việt Nam thấp nhất trong các nước so sánh, thậm chí xếp sau Campuchia ở 3 ngành gồm: công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng, vận tải - kho bãi - truyền thống. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia ở các nhóm ngành: nông nghiệp, điện - nước - khí đốt, bán buôn - bán lẻ - sửa chữa. Việt Nam có năng suất lao động cao hơn một số nước trong ba nhóm ngành: khai mỏ và khai khoáng, tài chính - bất động sản - dịch vụ văn phòng, dịch vụ cộng đồng - xã hội - cá nhân6. Như vậy, những ngành nghề sử dụng lao động phổ thông ở mức độ đào tạo đơn giản sẽ chịu tác động lớn và nguy cơ thất nghiệp do sự phát triển của công nghệ tự động và trí tuệ nhân tạo. 2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định một trong những đột phá chiến lược cần đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả là: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”7. Đây vừa là một trong ba khâu đột phá chiến lược của vừa là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nhằm triển khai, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”8. Để nguồn nhân lực ở Việt Nam đáp ứng được xu thế phát triển hiện nay, theo tác giả cần tập trung vào một số giải pháp sau: Một là, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn nhân lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài. Phát triển nguồn nhân lực chính là nâng cao năng lực của con người về mọi mặt. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải hướng đến mục tiêu vì con người, phát triển con người, bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền con người; Cần tách bạch vai trò nòng cốt của Nhà nước là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý định hướng các hoạt động phát triển nguồn nhân lực ra khỏi vai trò của người cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho cộng đồng. Nhà nước cần phải chuyển từ vai trò là người trực tiếp cung cấp các dịch vụ xã hội sang vai trò là người điều phối; Cần huy động được tối đa sự tham gia của các chủ thể xã hội khác ngoài nhà nước: các tổ chức xã hội, khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp, cộng đồng,..trong phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo chuyên môn và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động là trách nhiệm không chỉ của Nhà nước, của xã hội mà còn là của chính bản thân người lao động. Trước hết, mỗi người lao động phải tự thấy rằng ra sức học tập trang bị cho mình có một nghề nghiệp vững vàng thì sẽ tìm được việc làm tốt, ổn định và tay nghề càng cao thì thu nhập sẽ tăng theo; Đổi mới vai trò “nhà tài trợ” và phương thức tài trợ của Nhà nước cho các dịch vụ xã hội. 6 Nguyễn Hà, “VEPR: Năng suất lao động một số ngành Việt Nam thua Campuchia”, Thứ ba ngày 8/5/2018.Nguồn.https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/vepr-nang-suat-lao-dong-mot-so-nganh-viet-nam- thua-campuchia-3746781.html. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.218, 295-296. 8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.295-296. 303
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất Nhà nước cần kiên quyết từ bỏ việc tài trợ theo kiểu cào bằng, xin - cho, cung cấp nguồn vốn với dự toán trên cơ sở đầu vào. Thay vào đó, Nên tập trung nguồn lực tài chính vào một số lĩnh vực trọng tâm và các giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhà nước cần đặt mục tiêu cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển con người, ưu tiên đầu tư vào các dịch vụ xã hội và an sinh xã hội, đồng thời đẩy mạnh tiến trình cải cách cấp tài chính cho dịch vụ xã hội theo phương hướng nghiên cứu và áp dụng cơ chế phân bổ chính sách dựa theo kết quả hoạt động cho các cơ sở cung cấp dịch vụ như bệnh viện, trường học,..Công tác giám sát chất lượng dịch vụ công cần được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ công, cả tư nhân và nhà nước, thường chưa được giám sát, kiểm tra ở mức cần thiết. Các cơ sở này ít phải chịu trách nhiệm trước những hậu quả của việc cung cấp dịch vụ kém chất lượng gây ra, kể cả khi các hậu quả đó mang tính nghiêm trọng đối với các cá nhân và hộ gia đình. Do vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý về kiểm tra, giám sát và đánh giá các cơ sở cung cấp dịch vụ là một trong những lĩnh vực ưu tiên của các cơ quan quản lý Nhà nước hiện nay. Hai là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0, các cơ sở dạy nghề phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm” người lao động tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, hiện nay “sức ỳ” của nhiều năm đào tạo theo hướng cung với những chương trình đạo tạo cứng và phương pháp đào tạo lạo hậu là lực cản của sự đổi mới này. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động nhanh, mạnh mẽ đến thị trường lao động Việt Nam, thì các cơ sở dạy nghề - nơi cung cấp nhân lực chủ yếu cho nền kinh tế thích ứng khá chậm chạp, vẫn chủ yếu đạo tạo theo cách đã cũ. Trong xu thế hiện nay, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các cơ sở giáo dục cần: Hoàn thiện chương trình giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ; Đổi mới phương pháp dạy và học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo, đổi mới mô hình đào tạo,.. Ba là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực, cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện; Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới; Tạo môi trường và 304
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. 4. KẾT LUẬN Những yếu tố mà các nước đang phát triển như Việt Nam coi là ưu thế: lực lượng lao động trẻ, chi phí thấp sẽ không còn ưu thế, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng trước tác động của cuộc cách mạng 4.0. Cuộc cách mạng này, đưa đến nhiều cơ hội để nước ta thực hiện việc phát triển theo hướng tắt, đón đầu, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời cũng đưa đến những thách thức đối với quá trình phát triển. Bởi vậy, cần tận dụng những sức mạnh sẵn có và nắm lấy cơ hội để tham gia vào cuộc cách mạng 4.0, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, quan tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đào tạo, phát huy, sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao hiệu quả, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 2. Nguyễn Xuân Cầu (2009), Kinh tế nguồn nhân lực, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 3. C.Mác - Ph.Ănghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. E.Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. 5. Nguyễn Hà, “VEPR: Năng suất lao động một số ngành Việt Nam thua Campuchia”, Thứ ba ngày 8/5/2018. Nguồn: https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/vepr-nang-suat-lao-dong-mot-so-nganh-viet-nam- thua-campuchia-3746781.html. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 6. Nguyễn Hoài, “86% lao động dệt may có thể mất việc vì cách mạng 4.0”, Thứ sáu,ngày18/8/2017. Nguồn: https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/86-lao-dong-det-may-co-the-mat-viec-vi- cach-mang-4-0-3629524.html. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 7. Nguồn: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Nghi-quyet-05-NQ-TW-chu-truong-chinh- sach-lon-nham-doi-moi-mo-hinh-tang-truong-suc-canh-tranh-nen-kinh-te-329067.aspx. Cập nhật, ngày 3/7/2020. 305
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế
7 p | 84 | 13
-
Hành vi quyết định chọn nơi làm việc của nguồn nhân lực chất lượng cao ở tỉnh Lâm Đồng
11 p | 102 | 9
-
Một số giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2022 – 2030
13 p | 18 | 7
-
Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
6 p | 98 | 7
-
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – bước đi cần thiết cho sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2030
5 p | 55 | 6
-
Ảnh hưởng của chuyển đổi số trong việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
4 p | 10 | 6
-
Đề xuất mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị nguồn nhân lực chất lượng cao đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam
10 p | 9 | 5
-
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
8 p | 52 | 5
-
Nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời đại công nghiệp 4.0
5 p | 48 | 4
-
Thành phố Hải Phòng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0
6 p | 40 | 3
-
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự cống hiến của nguồn nhân lực chất lượng cao: Trường hợp các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ khu vực miền Trung - Việt Nam
7 p | 46 | 2
-
Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tại các doanh nghiệp khu vực Thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 6 | 2
-
Chiến lược “Trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Bình Dương trong giai đoạn hiện nay
6 p | 10 | 2
-
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế số của Việt Nam
13 p | 5 | 2
-
Thực trạng về nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Bình Dương
7 p | 6 | 2
-
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam
7 p | 7 | 2
-
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các tỉnh duyên hải miền Trung trong giai đoạn hiện nay
9 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn