intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động _2

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

53
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhà văn Lê Tràng Kiều tên thật là Lê Tài Phúng, sinh năm 1912 tại quê hương Nam Định và thời ấu thơ sống ở đó, theo học trường Thành Chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động _2

  1. Nhà văn Lê Tràng Kiều, một cuộc đời hành động
  2. Nhà văn Lê Tràng Kiều tên thật là Lê Tài Phúng, sinh năm 1912 tại quê hương Nam Định và thời ấu thơ sống ở đó, theo học trường Thành Chung. Năm mười sáu tuổi, Lê Tràng Kiều cùng gia đình chuyển cư lên Hà Nội, ngụ tại làng Mọc Quan Nhân, một trong bảy làng Mọc của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đất kẻ Mọc cũng là quê của nhà văn Nguyễn Tuân, và là quê ngoại của nhà văn Vũ Trọng Phụng.Vậy nên, từ tuổi mới lớn, Lê Tràng Kiều đã kết bạn với Nguyễn Tuân và Vũ trọng Phụng. Họ cùng trang lứa, cùng trở thành những nhà văn tiêu biểu của Việt Nam những năm ba mươi, thế kỷ XX. Khi mới lên sống ở Hà Nội, Lê Tràng Kiều học ở trường Thăng Long, và sớm tỏ rõ là một tài năng văn chương, báo chí. Mười tám, mười chín tuổi, Lê Tràng Kiều đã viết các bài báo về văn học, đăng trên tờ Tạp chí văn học. Ông sớm bộc lộ một năng lực sắc sảo trong nghiên cứu, phê bình văn học, làm báo, có khả năng hoà nhập rất nhanh vào đời sống văn chương và sớm tạo được nhiều ảnh hưởng đến các nhà văn. Giao du rất nhiều với các nhà văn đương thời, Lê Tràng Kiều quan hệ thân thiết với một số nhà văn cùng chí hướng như Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Can, Nguyễn Tuân, Bùi Huy Phồn, Hoài Thanh, Lan Khai, Thâm Tâm, Quỳnh Dao cùng một số tác giả sân khấu là Vi Huyền Đắc, Bùi Nguyên Cát, Chu Ngọc… Từ năm 1935, 1936, Lê Tràng Kiều có những đóng góp đáng kể cho văn học nước ta. Nhất là thời gian ông làm chủ bút Hà Nội báo, cùng các bạn thân thiết, đã làm cho phần văn học của báo tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Những tiểu thuyết như Giông tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng; những vở kịch thơ Anh Nga, Tần Ngọc của Phạm Huy Thông… đã được giới thiệu, đăng tải nhiều kỳ trên Hà Nội báo, và được độc giả vô cùng tán thưởng. Một nhà thơ trẻ chưa đầy mười lăm tuổi, là Nguyễn Xuân Sanh, cũng được Lê Tràng Kiều trân trọng giới thiệu trên Hà Nội báo tác phẩm đầu tay Trường ca lạc loài, đăng liền trên 13 kỳ báo. Vinh hạnh lớn này suốt đời khích lệ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Tình bạn văn chương của Lê Tràng Kiều với Vũ Trọng Phụng là mối tình tri kỷ lớn. Đương lúc Vũ Trọng Phụng được độc giả rất hâm mộ bởi một loạt phóng sự đặc sắc như Cạm bẫy Ngưòi, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô…, Lê Tràng Kiều có viết trên Văn học tạp chí số 4 ngày 8-6-1935, về ba nhà văn họ Vũ (Tam Lang Vũ Đình Chí, Tiêu Liêu Vũ Bằng và Thiên Hư Vũ Trọng Phụng). Ông biểu dương tài năng Vũ Trọng Phụng, đồng thời, đã tâm huyết trao đổi với Vũ Trọng
  3. Phụng: “Ông Phụng cứ viết cho tôi nữa đi những truyện ngắn, hay những truyện dài về xã hội, tôi dám chắc sự nghiệp văn chương ông sẽ rực rỡ vô cùng…”. Thành tâm lắng nghe lời tâm huyết của ông bạn tri kỷ, Vũ Trọng Phụng lập tức đổ tâm dồn sức vào truyện dài về xã hội, và trong năm 1936, ông sáng tạo được ba tiểu thuyết xuất sắc, làm vinh dự cho văn chương nước Việt ta, là Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên, nhà văn đặt tên là Thị Mịch, và Lê Tràng Kiều nhận đăng tải ngay trên Hà Nội báo. Nhưng lập tức nhà kiểm duyệt đã can thiệp, đòi cấm. Lê Tràng Kiều và Vũ Trọng Phụng, sau một thời gian ngắn, đã quyết định đổi tên tiểu thuyết thành Giông tố, và đã đăng tải hết trên Hà Nội báo mà giới chức kiểm duyệt không kịp hiểu đó cũng chỉ là chuyện về Thị Mịch, Nghị Hách… Về sau, khi nhà xuất bản Văn Thanh ấn hành Giông tố, Vũ Trọng Phụng có in lời đề tặng Lê Tràng Kiều trên đầu sách rất trân trọng(1). Đầu năm 1936, khi cuộc tranh luận về thơ mới, thơ cũ trở nên sôi động, Lê Tràng Kiều có bài viết khá quan trọng, Thơ mới, in trên Hà Nội báo số 14. Bài viết khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới và chúc mừng chiến thắng toàn vẹn của nó. Ông viết: “Ba năm qua… Với thi ca, văn học ta đã bước một bước dài. Một sự may mắn không ngờ! Chỉ trong vòng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện không biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị mà trong cái dĩ vãng rất phẳng lặng mấy ngàn năm chỉ lơ thơ một vài cái…”. Và, ngay thời điểm đầu năm 1936 đó, Lê Tràng Kiều đã có tầm nhìn thật sâu rộng và khả năng tư duy rất chín chắn về thơ ca dân tộc, không sa và sự thái quá có mới nới cũ: “Từ bây giờ, lịch sử chỉ còn ghi lại những áng thơ hay mà thôi, chứ không chia ra mới, cũ nữa!...”. Ngay sau dó, nhiều bài viết bảo vệ thơ cũ đã đả kích lại Hà Nội báo và bài Thơ mớicủa Lê Tràng Kiều. Trong đó, đáng kể nhất là bài viết bừng bừng nộ khí của ông Thái Phỉ, in trên báo Tin văn, nhằm đả kích Lê Tràng Kiều; và tờ Văn học tuần san ở Sài Gòn cũng đồng quan điểm với Tin văn, công kích Lê Tràng Kiều và Thơ mới. Cuộc bút chiến trở nên quyết liệt hơn. Lê Tràng Kiều lại công bố trên Hà Nội báo số 18 một bài Thơ mới nữa, với sự khẳng định: “Những bài thơ như Tiếng thu, Bao la sầu, Một chiều thu không phải là di sản của một gia đình nào, của một phe phái nào, của một thời gian nào, nó đáng cho mọi người trong nước ngân nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta thấy rằng dân tộc ta không phải là không có người hiểu cái hay, cái đẹp ở đời…”. Thế rồi, quy mô hơn, sâu sắc hơn, Lê Tràng Kiều cho đăng một loạt bài tiếp theo trên Hà Nội báo, lần lượt
  4. khẳng định giá trị Thơ mới và những tài năng của phong trào Thơ mới; khẳng định tính sâu sắc, tính đa dạng, tính phổ quát, tính cội nguồn, tính cách tân đều có trong các nhà thơ mới; và khẳng định Thơ mới đã làm trẻ lại, làm sung sức tâm hồn dân tộc. Bài viết về thơ Thái Can đăng Hà Nội báo số 20 đã chứng minh rằng, thơ Thái Can mới mà rất gần với thơ cổ điển phương Đông. Ông viết: “Nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần với Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết, thì là Thái Can”. Đến bài về thơ Nguyễn Nhược Pháp trên Hà Nội báosố 21, Lê Tràng Kiều nêu bật phẩm chất thơ mới Nguyễn Nhược Pháp là sự bình dị, trong sáng, hồn nhiên. Ông đánh giá rằng, nhà thơ mới này đã dựng lại một thế giới: ngày xưa. Ông thật sâu sắc khi nhận xét rằng, văn thơ nước ta đã già đi với đạo Khổng, nhưng với thơ mới ngày nay, nó đã bắt đầu trẻ lại. Trên Hà Nội báo số 22, Lê Tràng Kiều viết về thơ mới có ngay trong thơ Đông Hồ, khen Đông Hồ thoát xác từ một thi sĩ cũ trở thành một nhà thơ có khuynh hướng mới: “Đông Hồ ngày trước là một ông cụ non lụ khụ…Nay thì Đông Hồ, với cái tuổi sắp đứng, còn biết yêu như yêu lần đầu tiên, nồng nàn, tha thiết”. Sang bài viết về thơ mới Nguyễn Vỹ, đăng Hà Nội báo số 23, Lê Tràng Kiều nhận định nhà thơ này quá mới, và cho rằng, thơ mới ngoài hàm chứa cái hay cổ điển còn phải vô cùng mới về hình thức biểu hiện. Ông nhấn mạnh thành công của Nguyễn Vỹ qua bài Sương rơi, rằng: “Đó là nhạc điệu thiên nhiên của những vật hữu hình và vô hình trong vũ trụ lúc đêm khuya, những vật ấy nối tiếp nhau mà tan vỡ thành giọt… Từng giọt/ Thánh thót/ Từng giọt/ Điêu tàn…”. Và ông nhận xét về sự đóng góp của Nguyễn Vỹ cho thơ ca Việt Nam: “Làm được một bài như Sương rơi cũng là nhiều lắm rồi”. Bài viết về thơ Thế Lữ, Hà Nội báo số 24, Lê Tràng Kiều chứng minh thơ mới Thế Lữ phần nào đã đạt tới cái hay cổ điển. Ông thật tinh tế khi nhận xét rằng, Thế Lữ có “tâm hồn của một người tiên chưa hề có một quá khứ đau khổ ở trần gian”. Bài viết về thơ Vũ Đình Liên trên Hà Nội báo số 26, Lê Tràng Kiều nhận định, thơ mới Vũ Đình Liên đã làm sống lại dĩ vãng, sống lại những gì vô cùng thân yêu trong quá khứ. Ông còn lưu tâm đến một phẩm chất khá đặc biệt của thơ Vũ Đình Liên, khi nêu dư luận rằng, có người đã đánh giá: “Vũ Đình Liên là một nhà thơ lao động, vì hơn nửa số tác phẩm của ông dành cho anh em lao khổ”. Tới Hà Nội báo số 30 Lê Tràng Kiều viết về Lưu Trọng Lư, “người đầu tiên gieo hạt thơ mới vào đất Bắc”. Ông so sánh Lưu Trọng Lư với Thế Lữ và Phạm Huy Thông, chỉ vài dòng mà thật đắc cách: “Thế
  5. Lữ và Huy Thông thường ngẩng đầu lên nhìn trời, nhìn núi sông to rộng mà ca những bài ca hùng tráng… Lưu Trọng Lư thì cúi đầu xuống bước từng bước sợ sệt ngại ngùng như bao giờ cũng lo đạp phải những cái linh thiêng của trời đất rải xuống”. Ông khẳng định, phẩm chất tiêu biểu của thơ Lưu Trọng Lư là rất giàu nhạc điệu, và cũng là khẳng định phẩm chất đó trong Thơ mới Việt Nam. Nay nhìn nhận lại hiện tượng Thơ mới, chúng tôi thấy, giai đoạn từ năm 1934 đến 1936, trên văn đàn diễn ra cuộc tranh luận có lúc rất quyết liệt giữa những nhà văn không tán thành thơ mới với những nhà văn cổ võ, khích lệ cho thơ mới phát triển. Là bạn văn của Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh cũng chỉ viết có một bài Thơ mới, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy ngày 29-12-1934. Và trong bài viết này, có đoạn viết: “Vậy bây giờ Thơ mới có quy tắc gì chưa? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ Thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy mà thôi…”. Nhìn lại việc này, chúng tôi không có mục đích gì ngoài việc muốn lưu ý với bạn đọc về tầm nhìn sâu rộng, tư duy lý luận sắc bén và phẩm chất tiên phong của nhà lý luận phê bình văn học Lê Tràng Kiều. Với một loạt hơn mười bài viết, ông đã trình bày được tất cả sự đa dạng, phong phú muôn màu muôn vẻ của các nhà thơ mới, có sức thuyết phục rất lớn trong đời sống văn chương nước ta những năm đó. Mãi đến năm 1942, các tác giả Thi nhân Việt Nam mới có đánh giá sự thắng lợi trọn vẹn của Thơ mới. Nhưng, ngay từ năm 1936, với loạt bài viết của mình, Lê Tràng Kiều đã thực sự khiến độc giả thấy được sự ưu việt tuyệt đối của thơ mới! Có thể nói phong trào Thơ mới là một thành công rực rỡ của văn chương dân tộc, và trong cuộc phấn đấu để khẳng định nó, khích lệ nó phát triển mạnh mẽ, có một vị trí rất vinh dự giành cho nhà văn Lê Tràng Kiều!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2