TRAO ĐỔI HỌC TẬP<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP HỘI CHỨNG BOERHAAVE ĐƯỢC<br />
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 175<br />
<br />
Nguyễn Văn Mạnh1, Nguyễn Hồng Minh1<br />
Nguyễn Quốc Dũng1, Nguyễn Hoàng Gia1<br />
TÓM TẮT<br />
Vỡ thực quản tự phát có liên quan đến nôn mửa (hội chứng Boerhaave) là một<br />
tình trạng bệnh hiếm gặp và có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh lý đường tiêu hóa,<br />
với tỷ lệ tử vong lên đến 40% (20–75%). Triệu chứng bệnh thường không rõ ràng, có<br />
liên quan đến tình trạng nôn mửa nhiều sau khi ăn uống, đặc biệt sau uống quá nhiều<br />
rượu và một số bệnh lý sẵn có của thực quản. Chẩn đoán khó nhất là chẩn đoán sớm, do<br />
đó có thể dễ dàng bị bỏ qua hoặc để muộn dẫn đến tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc<br />
nặng và sốc. Điều trị bệnh cần nhanh chóng xác định tổn thương và can thiệp, vì thiếu<br />
can thiệp điều trị có thể gây tử vong. Trong đó, phẫu thuật vẫn được coi là phương pháp<br />
điều trị được lựa chọn cho tất cả các lỗ thủng thực quản.<br />
* Từ khóa: Hội chứng Boerhaave, Vỡ thực quản tự phát.<br />
A CASE OF BOERHAAVE’S SYNDROM DIAGNOSED AND<br />
TREATMENT AT MILITARY HOSPITAL 175<br />
ABSTRACT<br />
Spontaneous rupture of the oesophagus associated with forceful emesis<br />
(Boerhaave’s syndrome) is a rare condition and one of the most lethal diseases of the<br />
gastrointestinal tract, with a mortality rate up to 40% (20-75%). The symptom is not<br />
clear, refers to a forceful ejection of gastric contents after the consumption of excessive<br />
food and alcohol, as well as some existing pathogens in the oesophagus. Early diagnosis<br />
<br />
1<br />
Bệnh viện Quân y 175<br />
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Mạnh (manhnguyen2388@gmail.com)<br />
Ngày nhận bài: 11/4/2018, ngày phản biện: 25/4/2018<br />
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2018<br />
<br />
<br />
109<br />
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018<br />
<br />
is very difficult, therefore it is easily dismissed or left until too late, leading to infection,<br />
severe intoxication and shock. Management relies on rapid recognition and intervention,<br />
as lack of therapeutic interventions can be fatal. Ideal management for Boerhaave’s<br />
syndrome involves surgical treatment for perforation of the oesophagus.<br />
* Key word: Boerhaave’s syndrome, Spontaneous rupture of the oesophagus.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ 12-24 giờ có kết quả điều trị tốt nhất [2].<br />
Ba phương pháp điều trị bao gồm điều<br />
Vỡ thực quản (TQ) tự phát có liên<br />
trị bảo tồn, can thiệp nội soi và can thiệp<br />
quan đến nôn mửa (hội chứng Boerhaave)<br />
phẫu thuật [5]. Nội dung điều trị chính<br />
lần đầu tiên được mô tả bởi Hermann<br />
gồm kháng sinh phổ rộng, can thiệp xử trí<br />
Boerhaave (1724), trong quá trình khám<br />
tổn thương và nuôi dưỡng.<br />
nghiệm tử thi của một Đô đốc hải quân<br />
Hà Lan chết vì viêm màng phổi do vỡ TQ Tiên lượng HC Boerhaave kém và<br />
sau khi nôn [1]. Đây là tình trạng bệnh tỉ lệ tử vong lên tới 90% ở những trường<br />
khá hiếm gặp, chiếm 15% các trường hợp không được điều trị và 40% sau khi<br />
hợp chấn thương hoặc vỡ TQ, tỷ lệ mắc phẫu thuật thích hợp, tỷ lệ biến chứng, di<br />
khoảng 3,1/1.000.000 mỗi năm [8]. Bệnh chứng cao [1],[2],[5],[6]. Tử vong thường<br />
gặp ở tất cả các chủng tộc và lứa tuổi, có do biến chứng nhiễm trùng.<br />
đến 80% số bệnh nhân là nam giới trung CA LÂM SÀNG<br />
niên (tuổi 50-70) [8].<br />
Chúng tôi báo cáo ca lâm sàng<br />
Chẩn đoán HC Boerhaave tương HC Boerhaave do nôn mửa nặng sau khi<br />
đối khó nhất là chẩn đoán sớm. Trong 50% lạm dụng rượu. Bệnh nam 64 tuổi (BMI:<br />
trường hợp, nó được chứng minh bởi bộ 19,2kg/m2), nghỉ hưu, tiền sử tăng huyết<br />
ba của Mackler: nôn mửa, đau thắt ngực áp, viêm hang vị dạ dày, cắt túi mật nội<br />
dưới và tràn khí dưới da [6]. X-quang phổi soi, mổ thoát vị bẹn trái, nhập viện cấp<br />
có thể cho thấy tràn khí – tràn dịch màng cứu trong tình trạng đau ngực dưới, đau<br />
phổi và/hoặc khí thũng dưới da, chụp TQ thượng vị và khó thở sau khi nôn. Tối<br />
cản quang có thể thấy lỗ thủng, chụp CT ngày hôm trước và sáng ngày nhập viện,<br />
ngực có giá trị chẩn đoán cao, nội soi TQ bệnh nhân uống rượu nhiều. Sau khi đi xe<br />
xác định vị trí tổn thương và có thể kết xuất hiện nôn nhiều, nôn liên tục, trong<br />
hợp can thiệp điều trị [6]. một đợt nôn, xảy ra đau ngực và đau bụng<br />
Điều trị thường dựa vào tình trên, tiếp theo là khó thở. Bệnh nhân được<br />
trạng cụ thể của từng bệnh nhân, các lỗ cấp cứu tại bệnh viện tư nhân địa phương.<br />
thủng ban đầu được chẩn đoán trong vòng Chụp X-quang ngực có hình ảnh tràn dịch<br />
<br />
110<br />
TRAO ĐỔI HỌC TẬP<br />
<br />
- khí màng phổi trái, chụp CT ngực nghi<br />
ngờ tổn thương TQ đoạn dưới. Bệnh nhân<br />
được gửi đến trung tâm của chúng tôi<br />
sau 10 giờ bị bệnh, trong tình trạng: tỉnh,<br />
mệt mỏi, khát nước, mạch nhanh, khó thở<br />
vừa, nôn nói, đau ngực dưới – thượng vị,<br />
không có triệu chứng phúc mạc, rì rào phế<br />
nang phổi (T) giảm rõ, tình trạng nhiễm<br />
trùng tiến triển nhanh. Chụp X-quang TQ<br />
uống cản quang tan trong nước không<br />
rõ lỗ thủng, chụp CT ngực xác định tổn Hình 2. Hình ảnh CT: tổn thương<br />
thương TQ đoạn dưới, nội soi TQ dạ dày mất liên tục thành thực quản ngay trên<br />
xác định lỗ thủng thành sau bên trái TQ tâm vị.<br />
trên đường “Z” 1cm, kích thước 0,5x1cm.<br />
Sau khi nội soi chẩn đoán tình trạng đau<br />
ngực và khó thở bệnh nhân tăng lên nhiều.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Hình ảnh nội soi thực<br />
quản: lỗ thủng bên trái thành thực quản<br />
ngay trên tâm vị.<br />
Bệnh nhân đã được điều trị ngay<br />
sau khi có chẩn đoán xác định, đặt sonde<br />
Hình 1. Hình ảnh tràn dịch - khí dạ dày, thở oxy, kháng sinh phổ rộng<br />
màng phổi trái trên phim X-quang ngực. liều cao, hồi sức toàn thân và được phẫu<br />
thuật vào giờ thứ 13, dưới mê NKQ. Phẫu<br />
thuật qua đường bụng và cơ hoành trái;<br />
cắt bỏ dây chằng hình tam giác bên trái<br />
<br />
111<br />
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018<br />
<br />
và vén gan qua bên phải; cắt các dây Boerhaave được chẩn đoán và điều trị<br />
chằng TQ, kéo TQ xuống xác định vị trí thành công. Nên nghi ngờ HC Boerhaave<br />
tổn thương: một lỗ thủng lỗ thủng thành ở tất cả các bệnh nhân có biểu hiện đau<br />
sau bên trái TQ trên đường “Z” 1cm, kích ngực dưới trầm trọng có liên quan đến<br />
thước 0,5x1cm thủng vào khoang màng uống nhiều rượu và nôn mửa nặng.<br />
phổi trái. Lỗ thủng được đóng lại bằng Vỡ TQ trong hội chứng (HC)<br />
mối khâu vắt niêm mạc và khâu mối rời Boerhaave được mặc nhiên công nhận là<br />
cơ TQ. Bơm rửa khoang màng phổi trái kết quả của sự gia tăng đột ngột áp lực TQ<br />
qua vị trí thủng phế mạc trước khi đóng sản sinh trong quá nôn, do hậu quả của<br />
lại, đồng thời đặt hệ thống tưới rửa gồm mất phối hợp thần kinh cơ gây giãn và<br />
2 dẫn lưu (1 dẫn lưu nhỏ liên sườn II giữa vỡ TQ. Hay gặp ở người say rượu, người<br />
đòn trái và 1dẫn lưu to liên sườn V đường dùng thuốc an thần, bệnh nhân đang mê<br />
nách giữa), cuối cùng là mở thông hỗng toàn thân hoặc trên người bị nôn mửa liên<br />
tràng nuôi ăn kiểu Witzel. Sau phẫu thuật, tục [1],[5],[8]. Áp lực ấy có thể lên đến<br />
bệnh nhân được gửi đến đơn vị chăm sóc 200 mmHg, gấp 5 lần áp lực bình thường.<br />
hồi sức tích cực. Trong ICU, bệnh nhân Trên thực tế áp lực thấp hơn vẫn có thể<br />
tiếp tục được dùng kháng sinh mạnh, liều gây vỡ nếu TQ có sẵn bệnh lý như thoát vị<br />
cao phổ rộng, nuôi dưỡng tĩnh mạch, hồi hoành qua khe TQ, loét TQ hoặc ung thư.<br />
sức toàn thân, thở máy, tưới rửa khoang Vị trí vỡ hay gặp nhất là ở thành sau bên<br />
màng phổi trái liên tục bằng dung dịch trái 1/3 dưới của TQ và thường vỡ vào<br />
nước muối. Bệnh nhân diễn biến tốt, bỏ khoang màng phổi trái. Vị trí vỡ hay gặp<br />
thở máy sau mổ 7 giờ, toàn thân nhiễm tiếp theo là 1/3 giữa TQ thường là vỡ vào<br />
trùng được kiểm soát. Vào ngày mổ 3, hệ khoang màng phổi phải, chỗ vỡ ngay dưới<br />
thông tưới rửa tắc, được đặt lại dẫn lưu và hoành hiếm gặp. Có đến 90% tổn thương<br />
dừng tưới rửa sau mổ 5 ngày, đến ngày thứ của HC Boerhaave thường là một vết nứt<br />
7 các dẫn lưu phổi được rút. Bệnh nhân dọc, bờ rõ, thay đổi từ 0,5-20 cm, thường<br />
có biến chứng sớm áp xe tồn dư khoang ở thành sau - bên trái của TQ cách 2-3<br />
màng phổi trái, xẹp thùy dưới phổi trái, cm gần đến ngã ba dạ dày [2],[4]. Vết nứt<br />
được VATS bóc vỏ phổi sớm và dẫn lưu thành sau - bên phải, thường cao hơn và<br />
vào ngày thứ 8. Bệnh nhân xuất viện vào chỉ chiếm 8% các trường hợp, hiếm thấy<br />
ngày thứ 14 sau khi điều trị. ở thành trước. Ít khi gặp đường nứt ngang<br />
BÀN LUẬN [1]. Sở dĩ tổn thương thành sau - bên trái<br />
là do yếu tố giải phẫu tại chỗ: thớ cơ thưa,<br />
Trường hợp chúng tôi báo cáo<br />
ít cơ dọc, ít được che chở và là nơi đi<br />
ở đây là một ví dụ điển hình của HC<br />
<br />
112<br />
TRAO ĐỔI HỌC TẬP<br />
<br />
vào của các thần kinh và mạch máu. Yếu tim nhanh, thở nhanh, sốt, giảm âm thanh<br />
tố giải phẫu khác là sự gập góc ra trước thở ở phía đục lỗ, khí phế quản trung thất,<br />
của TQ tại trụ trái của cơ hoành. Nhiều và dấu hiệu của Hamman (vết rạn da «đi<br />
tác giả đã nghiên cứu và giả định vai trò kèm với nhịp tim ở vị trí bên trái).<br />
quan trọng của bố trí không đồng bộ cấu Các xét nghiệm thông thường<br />
trúc lớp cơ niêm của thành TQ là nguyên cung cấp giá trị loại trừ các tình trạng<br />
nhân gây nên HC này, khi nôn mạnh. như nhồi máu cơ tim và viêm tụy. Các xét<br />
Ngoài ra còn có một số yếu tố nguy cơ nghiệm hình ảnh có tầm quan trọng cao<br />
như HC trào ngược dạ dày - TQ, bệnh lý trong chẩn đoán HC Boerhaave. Chụp<br />
“thực quản đen” (AEN –Acute Esophagus X-quang ngực có thể thấy tràn khí dưới da<br />
Necrosis)....[8]. Các nguyên nhân gây hoặc trung thất mở rộng, tràn dịch – khí<br />
tăng áp lực ổ bụng như gồng bụng mạnh, màng phổi và 20% trường hợp, dấu hiệu<br />
rặn mạnh, ho, động kinh hoặc thậm chí “V” (tia nắng mặt trời cắt ngang các máy<br />
cười cũng có thể gây nên HC này. Cần bay chằng chịt). Công cụ chẩn đoán hay<br />
phân biệt với HC Mallory - Weiss cũng được lựa chọn là chụp TQ tương phản sử<br />
do nôn ói, nhưng chỉ ảnh hưởng ở lớp dụng chất tương phản hòa tan trong nước.<br />
niêm mạc mà thôi. Mặc dù Barium có ưu thế hơn trong việc<br />
Các triệu chứng điển hình của phát hiện lỗ thủng nhỏ nhưng không nên<br />
thủng TQ là đau thắt ngực dưới hoặc đau sử dụng [1]. CT- scan đang được sử dụng<br />
thượng vị sau khi nôn, khó thở, tràn khí nhiều thay vì chụp TQ tương phản do độ<br />
dưới da và nhiễm khuẩn tự phát tiến triển nhạy cao hơn và đánh giá chi tiết hơn về<br />
nhanh. Trong 50% trường hợp, nó được các cơ quan có liên quan [8]. Nội soi cần<br />
chứng minh bởi bộ ba của Mackler: nôn được sử dụng thận trọng do nguy cơ gây<br />
mửa, đau thắt ngực dưới và tràn khí dưới nặng thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra người<br />
da. Tuy nhiên cũng có tới một phần ba ta cũng có thể cho bệnh nhân uống xanh<br />
bệnh nhân không có các triệu chứng này. methylene khi đó dịch màng phổi dẫn lưu<br />
Thông thường, bệnh nhân sẽ có đau ở vị hoặc trọc hút sẽ có màu xanh.<br />
trí thủng, thường ở cổ, ngực, vùng thượng Mấu chốt của điều trị HC<br />
vị, hoặc trên vùng bụng. Bệnh nhân có Boerhaave là chẩn đoán sớm, can thiệp kịp<br />
thể có đau cổ, khó nuốt hoặc rối loạn; lỗ thời, lựa chọn phương pháp điều trị phù<br />
thủng trong ngực với đau ngực và thủng ổ hợp với từng bệnh nhân cụ thể. Phương<br />
bụng với đau thượng vị chiếu vào vai hoặc pháp điều trị bao gồm điều trị bảo tồn, can<br />
lưng. Các dấu hiệu khám thực thể có thể thiệp nội soi và can thiệp phẫu thuật [5].<br />
bao gồm các triệu chứng bất thường nhịp Nội dung điều trị chính gồm kháng sinh<br />
<br />
113<br />
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 14 - 6/2018<br />
<br />
phổ rộng, can thiệp xử trí tổn thương và tốt nhất cho các trường hợp có chẩn đoán<br />
nuôi dưỡng. Phẫu thuật vẫn được coi là sớm [3],[6],[7]. Tỷ lệ tử vong được báo<br />
phương pháp điều trị được lựa chọn cho cáo thay đổi từ 0%, nếu điều trị được bắt<br />
tất cả các lỗ thủng TQ. Can thiệp phẫu đầu trong vòng 24 giờ, đến 29%, nếu điều<br />
thuật bao gồm sửa chữa TQ thông qua mở trị được bắt đầu sau 48 giờ [2]. Không có<br />
lồng ngực, mở bụng hoặc có thể sử dụng sự đồng thuận về chiến lược phẫu thuật<br />
VATS (Video Assisted Thoracoscopic tốt nhất. Tuy nhiên, phẫu thuật cấp cứu<br />
Surgery), đó là tiêu chuẩn vàng trong vẫn là sự lựa chọn cuối cùng triệt để nhất<br />
vòng 24 giờ đầu. Việc đặt stent nội soi mặc dù điều trị bảo tồn hay can thiệp qua<br />
đã được sử dụng để ngăn ngừa sự hình nội soi được báo cáo mang lại kết quả<br />
thành của lỗ rò hoặc dấu vết rò rỉ TQ ở khích lệ. Phẫu thuật đôi khi đơn giản chỉ<br />
cả hai bệnh nhân bị chẩn đoán trì hoãn là để rửa và dẫn lưu, phẫu thuật sửa chữa<br />
và những người được chẩn đoán sớm mà tổn thương là phương pháp được lựa chọn<br />
không bị ô nhiễm lan rộng. Điều trị bảo cho thủng TQ bất kể nguyên nhân. Can<br />
tồn thường được dành riêng cho các vết thiệp phẫu thuật bao gồm việc rửa, dẫn<br />
rạn nhỏ. Tranh cãi xảy ra khi một lỗ thủng lưu có hoặc không có mở ngực trái (phải<br />
muộn, những người được chẩn đoán sau phụ thuộc vào địa điểm vỡ); cắt bỏ TQ<br />
24 giờ, vì các vết thương thường gây ra của lồng ngực với lỗ rò, phẫu thuật mở<br />
sưng tấy, cứng, hoặc xơ cứng. Nắm bắt thông nuôi ăn và dẫn lưu; khâu vết rách<br />
được điều này, nhiều tác giả chủ trương [1],[2].<br />
xử lý lỗ thủng muộn bằng cách cắt bỏ TQ<br />
với lỗ thủng và làm mở thông dạ dày nuôi<br />
dưỡng. Thay thế TQ thường được thực<br />
hiện sau 6 tuần [2],[8].<br />
Biện pháp điều trị bảo tồn có vẻ<br />
khả thi đặc biệt là nếu bệnh nhân được<br />
chẩn đoán sau 48 giờ và bệnh nhân không<br />
có nhiễm khuẩn, nhưng ở một số bệnh<br />
nhân vẫn cần chuyển sang điều trị can<br />
thiệp. Điều trị nội soi thường được ủng<br />
hộ bởi một số báo cáo đang gây ấn tượng, Hình 4. Sơ đồ hướng dẫn điều trị [2].<br />
nhưng không rõ ràng về tỷ lệ thành công Tiên lượng bệnh dựa vào việc<br />
trong các HC Boerhaave thật sự. Một số chẩn đoán sớm và can thiệp phù hợp.<br />
tác giả coi đây như là cách xử lý điều trị Chẩn đoán và phẫu thuật trong vòng 24<br />
<br />
114<br />
TRAO ĐỔI HỌC TẬP<br />
<br />
giờ có tỷ lệ sống sót 75%. Mức này giảm 2. De Schipper J. P., et al. (2009),<br />
xuống khoảng 50% sau một khoảng thời “Spontaneous rupture of the oesophagus:<br />
gian hoãn 24 giờ và khoảng 10% sau 48 Boerhaave’s syndrome in 2008. Literature<br />
giờ. Tỷ lệ tử vong cao và phụ thuộc vào review and treatment algorithm”, Dig<br />
thời điểm bắt đầu điều trị bệnh; nó đạt Surg, 26(1), 1-6.<br />
90% ở những bệnh nhân không được điều 3. Dickinson K. J., et al. (2016),<br />
trị và 40% ở bệnh nhân sau phẫu thuật “Utility of endoscopic therapy in the<br />
thích hợp [1],[2]. Tử vong thường do biến management of Boerhaave syndrome”,<br />
chứng nhiễm trùng. Endosc Int Open, 4(11), E1146-e1150.<br />
KẾT LUẬN 4. Dinic B. R., et al. (2017),<br />
Tóm lại, đây là một tình trạng “Boerhaave syndrome - case report”, Sao<br />
bệnh hiếm gặp, chẩn đoán khó khăn, tỉ Paulo Med J, 135(1), 71-75.<br />
lệ tử vong cao, kinh nghiệm điều trị tại 5. Mubang R. N., Stawicki<br />
Việt Nam và trên thế giới còn chưa nhiều S. P. (2017), “Trauma, Esophageal”,<br />
không đủ làm cơ sở thiết lập các chuẩn StatPearls, StatPearls Publishing LLC.,<br />
chẩn đoán và điều trị. Mặc dù vậy, chẩn Treasure Island (FL).<br />
đoán sớm, điều trị can thiệp kịp thời, phù<br />
6. Sulpice L., et al. (2013),<br />
hợp, lựa chọn phẫu thuật, dẫn lưu màng<br />
“Conservative surgical management of<br />
phổi và trung thất, kết hợp với kháng sinh<br />
Boerhaave’s syndrome: experience of<br />
phổ rộng và dinh dưỡng tốt sẽ làm giảm<br />
two tertiary referral centers”, Int J Surg,<br />
tỷ lệ tử vong.<br />
11(1), 64-7.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
7. Tellechea J. I., et al. (2017),<br />
1. Czopnik P., et al. (2017), “Role of Endoscopy in the Management<br />
“Barogenic rupture of esophagus of Boerhaave Syndrome”, Clin Endosc.<br />
(Boerhaave syndrome) as diagnostic and<br />
8. Turner A. R., Turner S.<br />
therapeutic challenge requiring rapid and<br />
D. (2017), “Boerhaave Syndrome”,<br />
effective interdisciplinary cooperation -<br />
StatPearls, StatPearls Publishing LLC.,<br />
case report”, Pol Przegl Chir, 89(6), 37-<br />
Treasure Island (FL).<br />
39.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
115<br />