Nhật Bản sự kết tinh của các nền văn hóa<br />
Nhật Bản thường được biết đến với cái tên:Xứ sở mặt trời mọc hay Xứ sở Hoa anh<br />
đào. Đất nước này là một quần đảo hình cánh cung nằm ở sườn đông của đại lục câu<br />
Âu và câu Á phía Tây Bắc Thái Bình Dương, bao gồm bốn hòn đảo chính: Hokkaido,<br />
Honshu, Shikoku và Kyushu, cùng với nhóm đảo Ryukyu (Okinawa) và nhiều hòn<br />
đảo nhỏ khác.Với nền văn hóa đa màu sắc, nét truyền thống đan xen nét hiện đại, Nhật<br />
Bản luôn có những lễ hội diễn ra xuyên suốt trong năm. Đến Nhật Bản có rất nhiều<br />
nơi thu hút du khách, và bạn không thể ghé thăm Tokyo - nơi được xem là bận rộn<br />
nhất trên thế giới, hay thành cổ Nara và Kyoto ...<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. Người dân không có<br />
nguồn gốc Nhật chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số vào năm 1993. Sắc dân nước ngoài<br />
đông nhất là Triều Tiên nhưng nhiều người Triều Tiên sinh trưởng tại Nhật Bản đã nói<br />
tiếng Nhật không khác gì người Nhật Bản cả. Sắc dân này trước kia bị kỳ thị tại nơi<br />
làm việc và tại một số phương diện trong đời sống hàng ngày. Sắc dân ngoại quốc thứ<br />
hai là người Trung Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Philippines<br />
và người Thái.<br />
Văn hóa Nhật Bản là một trong những nền văn hóa đặc sắc nhất thế giới, văn hóa Nhật<br />
đã phát triển mạnh mẽ qua thời gian từ thời kỳ Jōmon cho tới thời kỳ đương thời, mà<br />
trong đó chịu ảnh hưởng cả từ văn hóa châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nghệ thuật<br />
truyền thống Nhật Bản bao gồm các ngành nghề thủ công như ikebana, origami,<br />
ukiyo-e, đồ chơi, đồ gỗ sơn mài và gốm sứ; các môn nghệ thuật biểu diễn như<br />
bunraku, nhảy, kabuki, nō, rakugo, ngoài ra còn phải kể đến những nét đặc sắc truyền<br />
thống khác như trà đạo, Budō, kiến trúc, vườn Nhật và cả gươm Nhật. Ẩm thực Nhật<br />
Bản hiện nay là một trong những nền ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế giới.<br />
Xã hội Nhật Bản có các nét đặc biệt về giao thiệp. Người Nhật thường cúi chào bằng<br />
cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị xã hội của cả hai người. Đây là<br />
một dấu hiệu quan trọng để tỏ lộ sự kính trọng. Một nét phong tục khác là việc trao<br />
đổi danh thiếp. Mỗi lần giới thiệu hay gặp mặt đều cần tới tấm danh thiếp và việc<br />
nhận tấm danh thiếp bằng hai tay là một cử chỉ lễ độ. Tấm danh thiếp được in rõ ràng<br />
và không được viết tay trên đó. Trong việc giao thiệp, người Nhật thường không thích<br />
sự trực tiếp và việc trung gian đóng một vai trò quan trọng trong cách giải quyết mọi<br />
hoàn cảnh khó khăn. Cũng như đối với nhiều người châu Á khác, người ngoại quốc<br />
tới Nhật Bản cần phải bình tĩnh trước mọi điều không vừa ý, không nên nổi giận và<br />
luôn luôn nên nở nụ cười.<br />
1. Tư tưởng và Tôn giáo<br />
Thần đạo (Shintò) là một tôn giáo đa thần, có nguồn gốc từ những tín ngưỡng thời cổ<br />
xưa ở Nhật Bản. Người ta thờ cúng các sự vật, hiện tượng được coi là có năng lực linh<br />
thiêng trong tự nhiên và xã hội, như đỉnh núi, con sông, biển, mặt trời, mưa, dông bão,<br />
các vị anh hùng và tổ tiên để mong được sự phù hộ, chở che trong cuộc sống hiện tại.<br />
Những truyền thuyết về nguồn gốc thần linh của Hoàng tộc đã trở thành một phần<br />
quan trong của giáo lý Thần đạo. Từ Thần đạo (Shintò) chỉ những nghi lễ tế thần và<br />
đền thờ được thấy xuất hiện rất sớm, nhưng phải đến tận cuối thế kỷ thứ XII thuật ngữ<br />
này mới mang ý nghĩa chỉ một loại giáo lý tôn giáo nhất định. Thần đạo có một quá<br />
trình kết hợp lâu dài với Phật giáo dưới dạng tín ngưỡng Thần Phật tập hợp. Đầu thế<br />
kỷ XIX một phong trào Thần đạo phục cổ đã nổi lên và dần chiếm ưu thế, Phật giáo bị<br />
tách ra khỏi Thần đạo vì bị coi là một tôn giáo ngoại lai. Sau cải cách Minh Trị và đặc<br />
biệt trong Chiến tranh Thế giới thứ II, Thần đạo được các nhà chức trách đưa lên<br />
thành quốc giáo. Kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II quân Đồng Minh đã chiếm đóng<br />
Nhật Bản, giải thể Thần đạo Nhà nước- một tổ chức Thần đạo được coi là có liên quan<br />
đến việc cổ súy tư tưởng dân tộc cực đoan và chủ nghĩa quân phiệt. Theo Hiến pháp<br />
Nhật Bản sau chiến tranh, Thần đạo không còn được hưởng bất kỳ một đặc quyền nào<br />
và tồn tại bình đẳng như các tôn giáo khác. Ngày nay trong ý thức dân chúng Thần<br />
đạo tồn tại song song và đôi khi hoà trộn với Phật giáo. Nhiều người Nhật kết hôn<br />
theo nghi thức Thần đạo và được mai táng theo nghi thức Phật giáo.<br />
Theo thống kê, Nhật Bản là quốc gia Phật giáo có hơn 85% dân số theo Đạo Phật.<br />
Hiện ở Nhật Bản có 75.000 chùa với gần 200.000 sư. Phật giáo được truyền vào Nhật<br />
Bản khoảng năm 552 sau công nguyên từ vương quốc Bách Tế (nay thuộc Triều<br />
Tiên). Lúc bấy giờ quốc vương Bách Tế đã cử một sứ đoàn mang đến biếu Thiên<br />
hoàng Nhật Bản một pho tượng Phật quý và một số sách kinh điển nhà Phật. Tuy lúc<br />
đầu có gặp một số khó khăn, song nhờ được sự bảo trợ của Nữ hoàng Suiko (593-<br />
628), đặc biệt là của Thái tử Shotoku (574- 622), Phật giáo được truyền bá rộng khắp<br />
đất nước. Đầu thế kỷ thứ IX Phật giáo Nhật Bản chủ yếu phục vụ cho giới quý tộc<br />
cung đình. Đến thời Hei-an (794- 1185) đã xuất hiện và phát triển hai tông phái lớn là<br />
Chân Ngôn tông và Thiên Thai tông. Bước vào thời Kamakura (1185-1333) Phật giáo<br />
trên quần đảo này phát triển rực rỡ với sự truyền bá của hàng loạt các tông phái mới<br />
khác từ Trung Quốc như Thiền tông (Zen), Tào Động tông, Tịnh Thổ tông... đem lại<br />
hy vọng được giải thoát cho đông đảo các tầng lớp dân chúng. Dưới thời Tokugawa<br />
(1603-1867), do sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền nhằm ngăn chặn ảnh hưởng<br />
của Kitô giáo, Phật giáo và sinh hoạt của hệ thống chùa chiền trên khắp Nhật Bản<br />
cũng gặp nhiều trở ngại. Trong thời Minh Trị, chính sách quốc giáo hoá Thần đạo đã<br />
làm cho Phật giáo phải trải qua một giai đoạn đầy khó khăn, không ít chùa chiền,<br />
tượng Phật bị huỷ hoại. Sau Thế chiến thứ II, xuất hiện hàng loạt tổ chức tôn giáo mới<br />
với tư cách những phong trào Phật giáo mà một số tổ chức lớn trong đó là Soka<br />
Gakkai, Risshò Kòseikai, Reiyùkai...Trong suốt lịch sử phát triển lâu dài ở Nhật Bản,<br />
Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà còn góp phần đáng kể vào việc làm<br />
giàu nền nghệ thuật và vốn tri thức của Nhật Bản.<br />
Kitô giáo đươc truyền vào Nhật Bản từ nửa cuối thế kỷ XVI và được phát triển đến<br />
đầu thế kỷ XVII. Những tín đồ đầu tiên là những người đang cần một biểu tượng tinh<br />
thần mới trong một xã hội có nhiều biến động rối ren, những người hy vọng làm giàu<br />
trong buôn bán hay muốn có kỹ nghệ mới, nhất là kỹ nghệ sản xuất vũ khí của phương<br />
Tây. Tuy nhiên, chính quyền Tokugawa (1603-1867) cho rằng Kitô giáo là nguy cơ đe<br />
doạ sự ổn định của trật tự vừa được thiết lập nên đã cấm nó hoạt động. Kitô giáo bị<br />
cấm cho đến tận giữa thế kỷ XIX- khi Nhật Bản lại mở cửa ra thế giới bên ngoài.<br />
Trong số tín đồ Kitô giáo ở Nhật Bản hiện nay tín đồ Tin lành nhiều hơn tín đồ Thiên<br />
chúa.<br />
Ngoài Thần đạo và Phật giáo ra, Nho giáo, du nhập vào Nhật Bản khoảng thế kỷ thứ<br />
VI cũng góp phần rất lớn vào việc tạo ra cái gọi là tư tưởng Nhật Bản. Tương tự ở<br />
Việt nam và Triều tiên, Nho giáo đã giúp Nhật Bản tạo ra thiết chế chính trị chặt chẽ<br />
và tạo ra một xã hội có đẳng cấp trên dưới. Cho đến thời điểm hiện bây giờ Nho giáo<br />
vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Nhật Bản. Bên cạnh đó còn phải kể đến Cơ<br />
đốc giáo. Một tôn giáo đươc truyền vào Nhật Bản từ nửa cuối thế kỷ XVI và được<br />
phát triển đến đầu thế kỷ XVII. Tôn giáo này đã tạo ra một luồng gió mới thổi vào xã<br />
hội phong kiến Nhật bản. Nó đã đóng góp một phần rất lớn vào việc tạo nên một nước<br />
Nhật Bản cường thịnh như hiện nay.<br />
Có thể nói đặc điểm cơ bản cuả tôn giáo Nhật Bản là sự uyển chuyển linh hoạt. Tất cả<br />
đã được Nhật Bản hoá để cho phù hợp với điều kiện đặc biệt của xứ sở hoa anh đào.<br />
2. Phong tục, tập quán, thói quen<br />
Cùng với sự thay đổi về số người trong gia đình, nếp sống hiện nay của người Nhật<br />
Bản khác ngày trước do việc dùng các máy móc gia dụng, do sự phổ biến các loại<br />
thực phẩm ăn liền và đông lạnh, các loại quần áo may sẵn và các phương tiện hàng<br />
ngày khác. Những tiện nghi này đã giải phóng người phụ nữ khỏi các ràng buộc về gia<br />
chánh, cho phép mọi người có dư thời giờ tham gia vào các hoạt động giải trí, giáo<br />
dục và văn hóa. Các tiến bộ về công bằng xã hội cũng làm mất đi tính kỳ thị về giai<br />
cấp, về quá trình gia đình, và đại đa số người Nhật Bản thuộc giai cấp trung lưu, căn<br />
cứ vào lợi tức của họ.<br />
Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai<br />
trò và các liên hệ nam nữ đã được ấn định rõ ràng.Thời xưa, Nhật Bản theo chế độ<br />
mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò lớn hơn nam giới. Từ khi thời kỳ samurai phát triển,<br />
người đàn ông lại chiếm vai trò độc tôn. Dù rằng tinh thần giải phóng phụ nữ đã được<br />
du nhập vào Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19 nhưng hiện nay trong đời sống công cộng,<br />
người phụ nữ vẫn ở vị thế thấp hơn nam giới và bên ngoài xã hội, người nam vẫn giữ<br />
vai trò lớn hơn một chút. Theo căn bản, người nữ vẫn là người của "bên trong" (uchi<br />
no) và người nam vẫn là người của "bên ngoài" (soto no). Phạm vi của người phụ nữ<br />
là gia đình và các công việc liên hệ, trong khi người chồng là người đi kiếm sống và<br />
đưa hết tiền lương về cho người vợ. Thời xưa, người phụ nữ trên 25 tuổi mà chưa có<br />
chồng thường bị nam giới coi như "có khuyết điểm nào đó". Nhưng nay Nhật Bản lại<br />
là nước có phụ nữ lấy chồng rất muộn, thậm chí là sống độc thân mà không có chồng<br />
(Nhật Bản hiện nay là nước có phụ nữ lấy chồng rất ít và tỉ lệ sinh thấp nhất Châu Á.<br />
Tại các công ty, nhà máy, cửa hàng... người phụ nữ thường được thuê mướn để chào<br />
đón các khách mới đến. Ngày nay, vị thế của người phụ nữ đã được nâng lên nhiều<br />
trong xã hội, nhất là tư duy của lớp thanh niên trẻ - những người thường không có<br />
quan niêm phân biệt và suy nghĩ bảo thủ, cổ hủ.<br />
- Kimono: Một nét văn hóa Nhật Bản<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Dù bản sắc văn hóa khác nhau, mỗi dân tộc đều có một trang phục truyền thống đặc<br />
trưng. Có lẽ trong đời mình, không một phụ nữ Nhật Bản nào lại không sắm cho mình<br />
ít nhất một bộ Kimono nhưng ít ai biết được rằng bộ trang phục này lại có nguồn gốc<br />
từ nước láng giềng Trung Hoa.<br />
Kimono là một trong những niềm tự hào của người Nhật và là một trong những biểu<br />
tượng của đất nước này. Về cơ bản, Kimono là một chiếc áo choàng được giữ cố định<br />
bằng một vành khăn rộng cố định vào người cùng với một số dây đai và dây buộc.<br />
Hình ảnh các bộ trang phục có hình dạng giống Kimono mà phụ nữ Nhật Bản mặc<br />
ngày nay đã xuất hiện trong tranh của các họa sĩ Trung Quốc từ những năm đầu của<br />
thế kỷ thứ nǎm. Các thiếu nữ mặc những bộ quần áo chất liệu mềm, nhẹ thoải mái với<br />
váy ngắn có độ dài chỉ đến đầu gối đi kèm áo hoặc một jacket dài thay cho cả quần.<br />
Các phục trang này cũng gần giống như loại quần áo giới chủ điền Nhật Bản mặc<br />
thười đó. Nhận thức tính thuận tiện của loại trang phục này, giới chủ điền Nhật Bản đã<br />
chọn ra hai loại áo quần làm trang phục truyền thống: áo rộng xẻ tà, mặc với quần<br />
dành cho nam và áo quấn cùng váy dài dành cho nữ.<br />
Đầu thế kỷ 7, một dạng quần áo lót chất cotton đan có hình dạng gần giống Kimono<br />
ngày nay được du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc, nó được xem là kiểu Kimono<br />
trung gian để chuyển sang kiểu Kimono truyền thống như ngày nay. Trong suốt thời<br />
kỳ Vua Heian cầm quyền ở Nhật Bản (794-897), Kimono vẫn chưa được xem là một<br />
loại trang phục phổ biến ở Nhật Bản, bởi nó vẫn bị cho là trang phục du nhập từ nước<br />
ngoài. Tuy nhiên, một mốc quan trọng được đánh dấu, đó là vào năm 894, người Nhật<br />
Bản chính thức cho ra đời một bộ Kimono theo kiểu của riêng mình. Đó là một áo dài<br />
đến gót, có cánh tay xẻ và để dài quết đất. Trang phục này đặc biệt được các quý bà,<br />
quý cô ưa chuộng trong các dịp lễ lạt, họ thường mặc nhiều lớp cùng một lúc, thậm<br />
chí có thể đến 20 lớp. Nhưng không vì quá nhiều lớp như vậy mà màu sắc và chất liệu<br />
bị xem nhẹ. Ngược lại, chúng được lựa chọn hết sức kỹ càng từng lớp một, sự phối<br />
màu giữa các lớp cũng hết sức được chú trọng. Sự phân biệt màu sắc giữa các lớp thể<br />
hiện ở cổ áo, gấu tay và chân váy mặc bên trong. Trang phục của nam giới cũng gần<br />
giống của nữ, tuy nhiên được may kèm với một quần chẽn bên trong.<br />
Khi tầng lớp võ sĩ đạo lên nắm quyền ở Nhật Bản thời Kamakura (1192-1333) và<br />
Muromachi (1338-1573), họ đã đưa Kimono từ vị trí lễ phục trở thành trang phục<br />
thường ngày. Để phân biệt với các trang phục ngày tưhường, các võ sĩ đạo đã chọn<br />
hakama làm trang phục khi lên võ đài. Hakama bao gồm một quần dài mặc với một áo<br />
chất liệu mềm có dải rút ở ống tay. Ngày nay, hakana vẫn được các võ sĩ mặc trong<br />
các cuộc thi đấu võ thuật, đặc biệt là môn kendo.<br />
Một thay đổi đáng kể đối với trang phục Kimono xảy ra vào thời trị vì của vua Edo<br />
(1603-1868) khi ống tay áo được may gọn lại và sự ra đời của obi (một khăn rộng thắt<br />
ngang bụng), nhằm làm cho trang phục phù hợp hơn với các hoạt động thờng ngày<br />
của người phụ nữ Nhật. Kể từ đó, kiểu dáng của Kimono có thay đổi chút ít. Ngày<br />
nay, đa số các phụ nữ Nhật Bản xem quần áo tây là thường phục thì Kimono vẫn được<br />
mặc trong các dịp nghi lễ, cới xin, tang ma, tiệc mừng năm mới và một số ngày lễ<br />
khác.<br />
Trải qua thời gian, hình dáng của obi cũng phần nào thay đổi. Đầu tiên nó được thiết<br />
kế ra chỉ để làm cho Kimono được gọn lại, ngày nay obi có mặt trong trang phục phụ<br />
nữ Nhật như một phụ liệu không thể thiếu, với chức nǎng thẩm mỹ là chủ yếu. Obi<br />
được phân loại dựa vào chất liệu làm nên nó, bề rộng của bản obi hoặc các kiểu thắt<br />
dùng riêng cho các dịp nghi lễ khác nhau. Hình nơ là kiểu thắt phổ biến nhất, thường<br />
xuất hiện trong trang phục của nam, nữ chưa lập gia đình hoặc các cô, cậu bé học sinh.<br />
Thông thường một obi có độ rộng 15cm và chiều dài hơn 1m. Một obi dùng với<br />
Kimono mặc thường ngày được đan bằng sợi lanh loại tốt hoặc tơ lụa và thường có<br />
bản bé hơn các obi đi kèm lễ phục.<br />
Cách thắt obi cũng là vấn đề gây sự tò mò đối với những ai có ý định tìm hiểu vǎn hóa<br />
Nhật Bản. Đến nay, tổng cộng có tất cả 300 kiểu thắt khác nhau, nhưng trong đó chỉ<br />
có một số kiểu phổ biến hơn cả, tiêu biểu nhất là kiểu taiko (hình xoáy trông như một<br />
cái trống). Kiểu thắt này thường xuất hiện trên trang phục của những phụ nữ có chồng,<br />
trong khi hình nơ lại được các thiếu nữ chưa chồng ưa chuộng. Để thắt được obi,<br />
người ta phải thiết kế cho nó một chân đế. Chân đế Obi-ita có dạng dẹt, ôm lấy phần<br />
eo người mặc, giúp giữ áo Kimono đúng vị trí và tạo một nền vững chắc cho obi. Đế<br />
Obi-makura hay còn gọi là obi gối đệm, tức là một lớp đệm được thiết kế lồng vào<br />
phía trong dây obi để tạo cho nó một hình dáng cứng cáp hơn. Obi-age thường được<br />
làm từ chất cao su, dùng để đỡ obi-makura. Trước đây, các obi có màu sắc bất kỳ, chỉ<br />
cần phù hợp với sở thích của người mặc, nhưng từ khi xuất hiện obi-age, nhất thiết<br />
màu của obi phải cùng tông với phần còn lại của áo. Obi-jime là dây được may bằng<br />
lụa, hoặc satin có viền dùng để thắt vòng quanh obi. Obi -dome là một que hình cái<br />
xiên có tác dụng thắt obi-jime được chặt hơn. Thực chất Obi -dome chỉ là một phụ<br />
liệu làm cho trang phục Kimono đẹp hơn chứ hoàn toàn không mang tính bắt buộc.<br />
Không chỉ là trang phục của quý bà, quý cô, Kimono còn là trang phục của nam giưới<br />
và trẻ em. Kimono của nam giới thường có màu sắc nhã nhặn hơn của nữ, thậm chí<br />
chỉ có một màu, không hoa văn, họa tiết. Trong các dịp nghi lễ, đàn ông thường mặc<br />
một loại Kimono may bằng lụa đen được trang bị trên đó nhiều nóc nhà màu trắng<br />
(nǎm nóc nhà được vẽ ở năm vị trí trên áo là hai vai, hai ngực và đường nối cầu vai<br />
phía sau lưng), tiếng Nhật gọi là áo kuro-montsuki. Áo kuro-montsuki được thắt bằng<br />
dải lụa trắng. Cổ áo có thể may bằng vải trắng, xám hoặc nâu. Người ta còn khoác<br />
thêm vào bên ngoài kuro-montsuki một áo choàng lửng (cũng bằng lụa đen). Trẻ em<br />
Nhật thường mặc Kimono trong các lễ hội mùa hè và hội pháo bông. Một dịp khác mà<br />
trẻ em Nhật không thể không mặc Kimono là lễ hội Shichigosan, được tổ chức vào<br />
ngày 15/11 hàng năm. Shichigosan có nghĩa là "bảy, năm, ba". Vì vậy Shichigosan<br />
còn được gọi là lễ hội của những trẻ em tuổi ba, năm, bảy; vào dịp này, trẻ em Nhật ở<br />
các tuổi này sẽ mặc Kimono và đi cầu nguyện ở các nhà thờ đạo Shinto. Trẻ em gái<br />
mặc Kimono màu mè, tóc buộc cao, trong khi các bé trai chỉ mặc kuro-montsuki.<br />
Trang phục Kimono bao giờ cũng đi kèm với guốc gỗ, mùa đông có thêm vớ len ngắn<br />
đến nửa ống chân, mùa hè thì các loại vớ có chất liệu mỏng và thoáng hơn.<br />
Nói đến đất nước Phù Tang, người ta nghĩ ngay đến xứ sở của hoa anh đào và áo<br />
Kimono. Phụ nữ Nhật Bản vốn nổi tiếng vì sự dịu dàng và khả năng chiều chồng lại<br />
càng duyên dáng hơn trong trang phục Kimono truyền thống. Và Kimono mãi vẫn là<br />
niềm tự hào của người Nhật...<br />
- Ngày tết Nhật Bản<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tết là dịp lễ quan trọng nhất trong năm của người Nhật là khi chào đón vị thần<br />
Toshigamisama đến thăm nhà. Những phong tục tập quán đón Tết của Nhật Bản cũng<br />
ít nhiều có những điểm tương đồng với các nước châu Á khác và cũng có những nét<br />
đặc sắc riêng của mình.<br />
Trước khi Tết đến, mọi nhà đều trang trí cây Tùng (kadomatsu) trước cửa. Tương<br />
truyền rằng, vị thần Toshigamisama sẽ hạ giới và trú ẩn trong cây Tùng này. Ngày<br />
xưa người ta thường dựng cây Tùng vào ngày 13/12 là ngày bắt đầu các công việc<br />
chuẩn bị đón Tết. Còn gần đây là ngày 27 hoặc 28 nhưng người ta tránh không dựng<br />
cây Tùng vào ngày 29 và đêm giao thừa. Ngày 29 có số 9 trong tiếng Nhật cùng âm<br />
đọc với chữ “khổ”, còn trang trí cây vào đêm giao thừa được gọi là “Hitoyokazari”<br />
được hiểu là chỉ nghênh đón thần trong một đêm nên bị cho là thất lễ.<br />
Ngoài ra trên khung cửa của không ít gia đình Nhật còn trang trí các vật phẩm như đồ<br />
đan bằng lá màu trắng, quả quýt, thừng bện bằng cỏ, dải giấy trắng… Tùng tượng<br />
trưng cho trẻ mãi không già; quả quýt màu da cam, có âm đọc giống như "đời đời"<br />
trong tiếng Nhật, tượng trưng cho muôn đời thịnh vượng; thừng bện bằng cỏ được treo<br />
ở điện thờ hoặc nơi thờ cúng, kính dâng lên thần linh cầu tài lộc; lá cây màu trắng nói<br />
lên sự trinh bạch không tì vết; còn dải giấy trắng mang ý nghĩa tẩy sạch vết nhơ và<br />
xua đuổi tà ma. Ngoài ra, người Nhật thường lấy tôm hùm làm đồ trang sức vì nó có<br />
hình dạng giống như cụ già khom lưng, ví với cảnh giàu sang phú quý, cả nhà trường<br />
thọ Để đón Tết người Nhật cũng làm vệ sinh nhà cửa thật sạch sẽ vào những ngày<br />
cuối năm, tiếng Nhật gọi là “Osouji”. Lần vệ sinh này sẽ làm sạch tất cả mọi ngóc<br />
ngách nhỏ nhất trong nhà mà quanh năm không có thời gian để dọn dẹp. Trong khi đó,<br />
các bà mẹ cũng chuẩn bị những món ăn ngày Tết như làm bánh Tết và nấu món ăn<br />
tổng hợp. Bánh Tết tượng trưng cho sự may mắn, được làm vào ngày 28 hoặc 30 Tết.<br />
Làm bánh trong ngày 29 bị cho rằng ắt phải ăn bánh khổ, nghĩa là quanh năm phải<br />
nếm trải khổ đau. Món ăn quan trọng nhất của năm mới là “món Tết” và “đồ nấu tổng<br />
hợp”. Món Tết thực chất là món ăn ngọt, làm bằng các nguyên liệu thông thường như<br />
rễ cây ngưu bàng, trứng cá, cá sardin khô, tảo ăn, khoai lang, hạt dẻ… Người Nhật<br />
dùng những món ăn đơn giản nhưng giàu ý nghĩa tượng trưng này để ăn tết là xuất<br />
phát từ tâm lý cầu ước vạn sự tốt lành.<br />
Bánh tết thập cẩm và món ragu khoai sọ, cà rốt, rau xanh nấu lẫn trong một nồi càng<br />
giàu ý nghĩa tượng trưng hơn. Đây là những đồ cúng, đồng thời cũng là món ăn dành<br />
cho nhiều người, để nhiều người được hưởng lộc thần linh và niềm sung sướng.<br />
Những lát cà rốt tượng trưng cho mối quan hệ gắn bó hòa thuận của mọi thành viên<br />
trong gia đình. Còn những của khoai sọ tượng trưng cho sức mạnh tẩy trừ tà khí.<br />
Đêm 30 Tết, cả nhà quây quần ăn bữa tất niên, rồi cùng ngồi đón giao thừa. Đúng 12<br />
giờ đêm, tiếng chuông nhà chùa thông qua kênh truyền hình truyền đi khắp cả nước.<br />
Người Nhật tin rằng 108 tiếng chuông chùa sẽ xua đuổi 108 con quỷ sứ. Trong tiếng<br />
chuông ngân nga, mọi người chúc tụng nhau và cùng ngồi vào chỗ của mình. Chủ nhà<br />
ngồi trên cùng, rút quạt ra tuyên đọc lời chúc mừng năm mới, cả nhà đồng thanh chúc<br />
tụng, sau đó cùng ăn bánh tết, uống rượu thần.<br />
Người ta tin rằng vị thần Toshigamisama sẽ truyền cho gia chủ một nguồn sinh lực<br />
mới vào những chiếc bánh Tết nên sau khi cúng thần, những chiếc bánh này sẽ được<br />
chia ra cho mọi người cùng thưởng thức để tiếp nhận nguồn sinh l ực. Nguồn sinh lực<br />
này được gọi là (toshidama) có nghĩa là sức mạnh của thần Toshigamisama. Đây cũng<br />
chính là nguồn gốc của (toshidama) có nghĩa là lì xì. Người ta thường cho quà, bánh<br />
hoặc tiền cho trẻ con khi chúng đến thăm và chúc Tết để cầu mong cho chúng được<br />
khỏe mạnh, gia tộc được an khang thịnh vượng.<br />
Xuất hành đầu năm, đi lễ chùa, cầu may cho cả năm cũng là một công việc trọng đại<br />
của người Nhật Bản. Tiếng Nhật gọi là (Hatsumoude). Mỗi năm sẽ có một hướng tốt<br />
khác nhau gọi là (ehou) nên mỗi năm người ta chỉ đi đền chùa ở hướng tốt của năm đó<br />
thôi. Khi viếng chùa, việc đầu tiên là rửa tay và súc miệng. Sau đó người đi lễ sẽ tiến<br />
đến tung vào hòm công đức trước điện thờ mấy đồng tiền, gọi là tiền hương hoa dâng<br />
lên thần phật, chắp tay lạy 2 lễ, vỗ tay 2 phát, chắp tay lại cầu nguyện và cuối cùng lạy<br />
1 lễ. Hành lễ xong, mọi người nộp tiền rút thẻ hoặc mua một mũi tên thần, cầu mong<br />
thần linh che chở cho mình được sống một năm yên ổn. Kể từ mồng 1 trở đi, cấp dưới<br />
đi chúc Tết cấp trên, bạn bè thân thích và bà con phường xóm cùng chúc tết lẫn nhau,<br />
người đi kẻ lại vô cùng tấp nập. Người Nhật coi đây là cuộc thăm viếng đầu Xuân, và<br />
gọi 3 ngày đầu tháng giêng là “ba ngày chúc tụng”. Tháng giêng trở thành tháng hòa<br />
thuận. Nhà nhà đều để sổ ký tên và bút chì trước cổng, khách đi chúc Tết sẽ để lại địa<br />
chỉ hoặc gài danh thiếp vào trong cuốn sổ, ý nói đã đến nhà. Cũng có người khi đi<br />
chúc Tết mang theo nhiều chiếc khăn tay nhỏ có đề tên mình, tặng cho mỗi nhà một<br />
chiếc.<br />
Tặng nhau thiếp mừng năm mới cũng là nét đặc sắc trong phong tục đón mừng năm<br />
mới của người Nhật. Nhật Bản là nước phát hành thiếp chúc mừng năm mới nhiều<br />
nhất trên thế giới. Phương pháp đưa thiếp mừng của bưu điện Nhật rất đặc biệt. Trước<br />
hết tập trung toàn bộ các thiếp chúc mừng năm mới rồi đem gửi đến nhà người nhận<br />
vào đúng ngày mồng 1 Tết. Ngày này, mọi người ngồi ngắm những tấm thiếp chúc tết<br />
muôn hình muôn vẻ từ mọi nơi gửi đến, ôn lại quá khứ, chờ đón tương lai. Đây quả<br />
thực là sự hưởng thụ đặc biệt. Thiếp chúc mừng năm mới khởi nguồn từ Trung Quốc,<br />
nhưng người Nhật Bản đã sáng tạo thêm tục lệ mà Trung Quốc không có, đó là nếu<br />
năm ấy trong nhà có người qua đời, họ sẽ không được nhận hay gửi thiệp năm mới<br />
cho bất kỳ ai. Tập tục này ra đời từ Phật giáo. Phật giáo chủ trương, trong thời kỳ để<br />
tang không đến những nơi vui chơi giải trí, không ồn ào ầm ĩ hoặc chè chén linh đình,<br />
mà cầu nguyện cho người chết vào chốn vĩnh hằng bằng sự tĩnh tâm và việc làm thầm<br />
lặng của mình.<br />
Đến ngày mồng 4 tháng giêng, các cơ quan, xí nghiệp bắt đầu làm việc. Ngày này, các<br />
công sở, công ty đều chuẩn bị bữa tiệc đơn giản để các đồng sự nâng cốc chúc nhau.<br />
Sau đó, mọi người lại trở về với những công việc thường ngày<br />
- Phong tục để bảng tên trước nhà ngôi nhà Nhật Bản<br />
Những tấm bảng tên hình chữ nhật với những chữ Hán (kanji) đậm đề tên chủ nhà.<br />
Một số bảng còn ghi cả địa chỉ. Bảng tên được gắn bên ngoài cửa nhà hay trên cột<br />
cổng nhà. Đôi khi chúng biến mất, bởi vì có người dị đoan rằng đánh cắp bảng tên sẽ<br />
giúp thi đỗ.<br />
Bảng tên chủ nhà trở nên phổ biến vào hậu bán thế kỷ thứ 19. Mãi cho đến thời ấy chỉ<br />
có người thuộc giai cấp trên (võ sĩ đạo) mới được phép có tên họ gia đình. Sau khi<br />
“dân thường” được phép có tên họ, người ta bắt đầu có tập quán treo bảng tên ngoài<br />
cửa nhà. Tập quán này càng phổ biến khi dịch vụ bưu chính lan rộng ra khắp mọi<br />
miền đất nước. Vào thời ấy, đa số nhà cửa thường dân đều làm bằng gỗ cho nên cho<br />
nên bảng têngia đình cũng được làm bằng gỗ. Nhiều bảng thật thô sơ đơn giản - chỉ là<br />
một miếng gỗ nào đó còn lại sau khi làm nhà xong, mang tên gia đình chủ nhân.<br />
- Một số lễ hội tiêu biểu<br />
Mặc dầu là nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, nhưng những lễ hội hàng năm của<br />
Nhật Bản vẫn còn như nguyên vẹn. Mỗi mùa đều có những lễ hội khác nhau, mang<br />
đậm bản sắc văn hóa và tín ngưỡng của mỗi vùng. Tham gia vào những lễ hội này<br />
chúng ta sẽ có dịp hiểu thêm về lịch sử, văn hóa và con người tại đây, cũng như thêm<br />
yêu mến đất nước hoa anh đào.<br />
Ở Nhật Bản trong một năm có rất nhiều những ngày diễn ra các sự kiện sinh hoạt văn<br />
hoá lễ nghi có tính định kỳ. Những ngày này được chia một cách tương đối làm hai<br />
loại: Lễ hội (Matsuri) và ngày lễ hàng năm (Nenchù gyòji). Lễ hội (Matsuri) là cái<br />
vốn có của Nhật Bản, bắt nguồn từ những tín ngưỡng Thần đạo, còn ngày lễ hàng năm<br />
(Nenchù gyòji) là khái niệm rộng hơn chỉ các sự kiện văn hoá diễn ra định kỳ theo<br />
mùa trong năm, rất nhiều trong số đó là những ngày lễ có nguồn gốc từ Phật giáo hay<br />
từ Trung Quốc. Ngày lễ hàng năm (Nenchù gyòji) được diễn ra gắn với từng mùa tạo<br />
thành một thứ lịch về các ngày lễ hàng năm. Có những lễ hội (Matsuri) cũng là những<br />
sự kiện trong lịch những ngày lễ hàng năm, nhiều sự kiện ngày lễ trong năm mang cả<br />
tính chất của lễ hội. Sau đây là một vài trong số những lễ hội và ngày lễ hàng năm<br />
điển hình.<br />
Lễ hội búp bê (Hina matsuri) được tổ chức vào ngày mồng 3 tháng Ba. Các gia đình<br />
có con gái bày một bộ búp bê Hina (gồm có búp bê hình Thiên hoàng, Hoàng hậu,<br />
những người hầu và nhạc công trong bộ trang phục cung đình cổ xưa), tổ chức ăn<br />
bánh hishimochi và uống rượu shirosake (sake trắng) để mừng ngày hội.<br />
Ngày trẻ em (Kodomo no Hi) diễn ra vào mồng 5 tháng Năm. Ngày xưa gọi là tết<br />
Đoan ngọ và trở thành ngày nghỉ toàn quốc ở Nhật Bản từ năm 1948. Mặc dù gọi là<br />
ngày trẻ em nhưng thực ra đó là ngày lễ dành cho các bé trai. Các gia đình có con trai<br />
thường treo trên nóc nhà mình những dải cờ hình cá chép tượng trưng cho sức mạnh<br />
và trong nhà bày búp bê hình võ sĩ và áo giáp.<br />
Lễ Bon (Urabon, Obon) được tổ chức vào tháng Bảy (có vùng lại tổ chức vào tháng<br />
Tám) từ ngày 13 đến 15. Đây là dịp để người Nhật tưởng nhớ linh hồn tổ tiên đã<br />
khuất. Theo nghi lễ truyền thống, người ta chuẩn bị đón tổ tiên về nhà bằng cách lau<br />
chùi nấm mộ, dọn đường đi từ mộ về nhà và cúng những con ngựa và trâu bằng rơm<br />
bện như phương tiện đi lại rồi đốt lửa hay thắp đèn lồng từ mộ đến nhà để chỉ lối cho<br />
linh hồn tổ tiên và người thân đã chết biết lối đi về, làm cỗ cúng gia tiên tại nhà và cử<br />
hành điệu nhảy Bon đặc biệt có tên là odori quanh khu vực cư dân. Bon là một dịp lễ<br />
quan trọng trong năm, các thành viên trong gia tộc dù có sống xa nhau bao nhiêu thì<br />
ngày này cũng cố trở về tụ họp bên nhau để làm lễ cúng tổ tiên ông bà.<br />
Lễ Vu Lan (hay còn gọi là Lễ xá tội vong nhân) vào dịp rằm tháng bảy âm lịch hằng<br />
năm là một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Nhật Bản cũng có<br />
một lễ hội mang ý nghĩa tương tự, Thường gọi là Obon diễn ra vào tháng 8 dương<br />
lịch. Tại lễ hội, các gia đình Nhật Bản thường quây quần lại với nhau trong một đợt<br />
nghỉ khá dài, gọi là kỳ nghỉ Obon. Kỳ nghỉ này thực sự là những ngày gia đình đối với<br />
những người Nhật Bản. Trong dịp này, hầu hết những người đang ở xa đều về thăm<br />
cha mẹ, ông bà của mình, hoặc đi viếng mộ những người thân trong gia đình. Đây còn<br />
là lễ hội của toàn nước Nhật, mang sắc màu linh thiêng và một chút huyền bí được tổ<br />
chức tại cố đô Kyoto thơ mộng.<br />
Lễ hội Obon mang ý nghĩa là linh hồn của những người đã khuất sẽ quay trở lại nơi<br />
trần thế, nó cũng giống như ngày rằm tháng bảy là ngày Xá tội vong nhân (hay còn<br />
gọi là Lễ Vu lan) ở nước ta. Việt Nam ta có tục đốt vàng mã để dâng đến Tổ tiên, ông<br />
bà và những người đã khuất, thì ở Nhật Bảnphong tục này cũng gần như vậy. Đồ cúng<br />
của các gia đìnhNhật Bản là những chiếc bánh khảo, làm từ bột gạo nhiều màu sắc<br />
cùng với những giỏ hoa quả gồm nhiều chủng loại được trình bày rất đẹp mắt. Trong<br />
dịp lễ Obon, một số lễ hội pháo hoa lớn cũng được tổ chức ở các nơi trên đất nước<br />
Nhật Bản.<br />
Nhiều hoạt động tín ngưỡng được người Nhật Bản tổ chức để kỷ niệm Lễ hộiObon<br />
này. Đặc biệt nhất là Lễ dâng lửa để soi đường cho linh hồn của những người đã khuất<br />
quay trở về trời (sau khi ghé về thăm trần thế trong dịp Obon) vào đêm 16 tháng 8. Lễ<br />
hội này thu hút rất nhiều người Nhật Bản cũng như du khách từ khắp các nơi trên thế<br />
giới đến chiêm ngưỡng. Trong Lễ dâng lửa linh thiêng này, 5 đám lửa lớn sẽ được đốt<br />
lên lần lượt ở trên 5 ngọn núi xung quanh Kyoto trong khoảng một giờ đồng hồ. Đây<br />
chính là hình ảnh tuyệt vời giữa đêm mùa hè của Cố đô Nhật Bản. Các đám lửa được<br />
sắp xếp theo hình dạng của các chữ Hán ở năm ngọn núi, bắt đầu bằng ngọn núi chữ<br />
Đại (Daimonji), Diệu (Myo), Pháp (Ho), Thuyền (Funagata), chữ Đại nhỏ ở đỉnh núi<br />
nhỏ hơn gọi là Hidari-Daimonji, gần với Chùa Vàng, và kết thúc bằng đám lửa có<br />
hình Torii, có nghĩa là Cổng lên trời. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn<br />
gốc Lễ dâng lửa này, nhưng đa số cho rằng, phong tục này bắt đầu vào thời<br />
Muromachi (1336-1573). Trong khi dâng lửa, cả những người tham gia đốt lửa và<br />
những người đi xem đều gửi những lời cầu nguyện đến tổ tiên qua ánh sáng của ngọn<br />
lửa. Sau khi các đám lửa đã cháy hết, các điệu múa của Lễ hộiObon sẽ được tổ chức ở<br />
chùa Yusen-ji dưới chân các ngọn núi. Các điệu múa truyền thống thường diễn ra<br />
trong khoảng một tiếng đồng hồ.<br />