intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

89
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay

  1. LỜI NÓI ĐẦU Sau 10 năm thực hiện đường lối Đổi mới c ủa Đảng, nền kinh tế nước ta đ ã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo đ ịnh hướng XHCN; các thành phần kinh tế được bình đ ẳng và tự do cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Cơ chế kinh tế mới đ ã có những tác đ ộng tích cực. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đ ã tăng nhanh cả số lượng lẫn chất lượng. Song do nền kinh tế nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn thấp, trừ một số doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đ ầu tư nước ngoài là có qui mô lớn, còn lại các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chiếm tỉ lệ trên 95% trong hệ thống các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt nam. Do qui mô nhỏ và các khó khăn của nền kinh tế cho nên các doanh nghiệp ở nước ta thường xuyên bị thiếu vốn đ ể hoạt đ ộng sản xuất kinh doanh, đ ặc biệt là năm 1996, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đ ều bị thiếu vốn trầm trọng trong khi đó đ ã xảy ra một nghịch lí là vốn ứ đ ọng ở các Ngân hàng thương mại tới hàng ngàn tỉ đ ồng. Rõ ràng doanh nghiệp thiếu vốn không phải do Ngân hàng thiếu v ốn mà là do doanh nghiệp chưa có các giải pháp khai thác các nguồn và huy đ ộng vốn một cách hợp lí. Thiếu vốn sản xuất kinh doanh đ ã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, sự thiệt hại và kìm hãm càng trở nên sâu s ắc hơn khi toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước bị thiếu vốn vì rằng doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đ ạo trong nền kinh tế, nó nắm giữ các ngành then chốt và phần lớn các nguồn lực của xã hội. Do đó, việc tìm ra các giải pháp huy đ ộng vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đ ã trở nên cấp thiết !
  2. Với mục đích vận dụng các kiến thức đ ã học vào giải quyết vấn đ ề vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, em chọn đ ề tài "Những hoạt đ ộng huy đ ộng vốn và các giải pháp huy đ ộng vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay". Đề án được chia thành ba phần: Phần I: Những vấn đề lí luận cơ sở về hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp. Phần II: Thực trạng việc huy động vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay. Phần III: Những giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Việc tìm ra giải pháp về vốn cho doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và phải tiến hành thườ ng xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp. Do thời gian và trình độ hạn chế nên em không thể tránh khỏi những vướ ng mắc và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp c ủa các thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này Hà nội tháng 9 năm 2001 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CHO SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP. Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầ u và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Căn c ứ vào nguồn hình thành vốn, ngườ i ta c ũng phân chia xí nghiệp theo nhiều loại khác nhau. Các nguồn hình thành vốn bao gồm: Vốn do nhà nước cấp (vốn NSNN) vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, vốn liên doanh và vốn huy động. Việc bảo toàn và phát triển vốn được thực hiện bằng các nguồn doanh thu bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ (khấu hao
  3. và hoàn vốn lưu động) và từ các nguồn huy động bổ sung khác. Nói chung, ở mỗi xí nghiệp, các nguồn vốn không đồng nhất, mà rất đa dạng và phong phú. Do đó khái niệm các loại xí nghiệp được hình thành căn cứ vào nguồn vốn chỉ có ý nghĩa tương đối. Vốn NSNN được cấp phát cho các xí nghiệp c ủa nhà nước. Trước đây nguồn vốn này rất lớn và chiế m phần quan trọng trong tổng số chi ngâ n sách của chính phủ. Với chính sách mở rộng hoạt động c ủa các thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc dân, nguồn vốn cấp phát c ủa NSNN cho đầu tư XDCB sẽ được thu hẹp về tỷ trọng và khối lượ ng. Nguồn vốn bổ sung hoặc hoàn bù của các xí nghiệp quốc doanh c ũng được huy động từ nền kinh tế mà cấp phát từ NSNN như trước đây. Thực tiễn hơn 11 năm đổi mới vừa qua cho thấy, vấn đề bức xúc c ủa doanh nghiệp nước ta thiếu vốn để trang bị và đổi mới những công nghệ hiện đạ i. Mặt khác, hiệu quả sử dụng đồng vốn c ũng chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp. Trong nhiều năm trước đây do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chi phối, nên quá trình tích tụ và tập trung vốn trong công nghiệp không được quan tâm đẩy mạnh. Điều đó do một số nguyên nhân: - Tỷ lệ giữa tiêu dùng và đầ u tư ở các xí nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp đã không dưạ vào yêu cầu phát triển c ủa lực lượ ng sản xuất, cũng không dựa vào hiệu quả kinh tế mà chỉ dựa vào các chỉ thị kế hoạch khô c ứng, vì thế quá trình tích tụ, tập trung vốn đã không được đẩy mạnh. - Việc tái đầ u tư đôi khi chưa được tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế, quá trình tập trung vốn nhiều khi mang nặng tính chất hình thức. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cho phép chúng ta tập trung vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả để xây dựng các công trình trọng điểm quy mô lớn. Thực ra, ngay từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò c ủa vốn đối với sự phát triển kinh tế c ủa một quốc gia.
  4. Chẳng hạn, luận điểm: "Lao động là cha, đất đai là mẹ" c ủa mọi c ủa cải vật chất đã được nhà kinh tế học ngườ i Anh Uyliam Petty đưa ra từ thế kỷ XVI. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi đó ngườ i ta đã nhận thức rõ những yếu tố cơ bản để tạo ra mọi c ủa cải cho xã hội, đó là nguồn lực con ngườ i và đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những tư tưở ng c ủa các nhà kinh tế cổ điển, Mác đã trình bày quan điể m c ủa mình về vai trò c ủa vốn qua các học thuyết: Tích lũy, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đặc biệt là Mác đã chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của vốn tích lũy là lao động thặng dư do những ngườ i lao động đặt ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phát triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên c ứu nền sản xuất TBCN, Mác đã tìm thấy qui luật vận động c ủa tư bản (vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượ ng những biểu hiện c ụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức SLĐ TLSX T-H ...SX...H' - T' Công thức đó đã chỉ ra rằng, bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh c ũng đề u phải trải qua 3 giai đoạn: Mua - Sản xuất - Bán hàng. Và điều quan trọng đối với mỗi ngườ i sản xuất, mỗi doanh nghiệp chính là phải biết phân bổ một cách hợp lý các yếu tố c ủa tiền vốn, đầ u tư nhằm tạo ra nhiều c ủa c ải cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội. Công thức đó c ũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục c ủa dòng vốn đầ u tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục c ủa các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong trườ ng hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng chính nó chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Tích lũy vốn (tư bản) theo Mác là: "Sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...". Từ những phân tích khoa học chặt chẽ với những luận cứ xác đáng Mác đã chỉ
  5. ra bản chất c ủa quá trình tích lũy vốn trong các doanh nghiệp TBCN: "Một khi kết hợp được với sức lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầ u tiê n của c ủa cải, thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yế u tố tích lũy c ủa nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượ ng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượ ng c ủa những tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra quyết định". Yêu cầu khách quan c ủa tích lũy vốn đã được Mác khẳng định do những nguyên nhân sau "Cùng với s ự phát triển c ủa phương thức sản xuất TBCN thì qui mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều kiện bình thườ ng c ũng tăng lên. Vì vậy, những tư bản nhỏ hơn cứ đổ xô vào những lĩnh vực sản xuất mà nền công nghiệp lớn chỉ mới nắm một cách lẻ tẻ hay chưa nắm hoàn toàn. C ạnh tranh ở đây sôi s ục theo tỷ lệ thuận với số lượ ng những tư bản kình địch với nhau và theo tỷ lệ nghịch với đạ i lượ ng c ủa các tư bản đó...Ngoài điều đó ra, một lực lượ ng hoàn toàn mới đã phát triển lên cùng với nền sản xuất TBCN, đó là tín dụng. Từ đó, Mác khẳng định: "Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản c ủa mình thì phải là m cho tư bản ngày càng tăng thêm và hắn không thể naò tiếp tục là m cho tư bản đó ngày một tăng lên được, nế u không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm". Một số nhà kinh tế học khác c ũng bàn về vốn và tích lũy vốn trong nền kinh tế, mà tiêu biểu là cuốn "Kinh tế học" c ủa Paul A. Samuelson. Ông viết: "Hàng tư bản do bản thân hệ thống kinh tế sản xuất để được sử dụng làm đầ u vào c ủa sản xuất để làm ra hàng hoá dịch vụ. Các hàng tư bản lâ u bền này, vừa là đầ u ra, vừa là đầu vào, có thể tồn tại một thời gian dài hoặc một thời gian ngắn. Chúng có thể được cho thuê trên thị trườ ng có tính cạnh tranh như cho thuê những mẩu đất hoặc những giờ lao động. Tiền trả cho việc sử dụng tạm thời những hàng tư bản gọi là tiền cho thuê". Ông còn cho rằng thực chất c ủa tích lũy chính là chúng ta thườ ng chịu bỏ tiêu dùng
  6. hiện nay để tăng tiêu dùng cho tương lai. Như vậy xã hội đầ u tư, hay nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được lợi tức do đầu tư đó tạo ra. Một nhà nghiên cứu kinh tế ngườ i Hàn Quốc tên là Sang Sung Part từ thực tế kinh tế c ủa Hàn Quốc cùng một số tài liệu nghiên c ứu c ủa các nước đang chậm phát triển, ông đã so sánh với nhiều nước phát triển và đi đế n kết luận được nhiều ngườ i chấp nhận là "Các nước đang phát triển có rất ít khả năng sản xuất tư liệu sản xuất, đặc biệt là máy móc thiết bị, nhất là trong giai đoạn đầ u c ủa thời kỳ phát triển một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tiết kiệ m bằng tiền c ủa ngườ i tiêu dùng sẽ là quá ít ỏi để có thể đầ u tư ở những nơ i còn chưa có khả năng sản xuất ra tư liệu sản xuất". Từ nhận định trên Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn và tổng số vốn như sau: "Dướ i dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, là phần thu nhập thườ ng có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, vốn được chia thành hai phần: vốn cố định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất bằng hiện vật được sản xuất trong khu vực sản xuất hay được nhập khẩu". Và "Tổng số vốn tích lũy còn được gọi là tài sản quốc gia, được tích lũy từ lượ ng sản phẩm vật chất hiện có và được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại, không kể tài nguyên thiên nhiên như đất đai và hầ m mỏ vì nó không được tạo ra các hoạt động đầ u tư. Cơ sở hạ tầng được gọi là vốn sản xuất không thể thiếu đối với việc nâng cao tổng lượ ng sản phẩ m vật chất". Qua đó chúng ta rút ra một số nhận xét theo quan niệ m về vốn c ủa Sang Sung Part: Một là: Vốn không chỉ biểu hiện bằng hiện vật hoặc dướ i dạng tiền tệ. Hai là: Trong nền kinh tế thị trườ ng, vốn không chỉ là những lượ ng tiề n mặt nhất định trực tiếp đầ u tư sinh lợi nhuận mà còn là giá trị c ủa những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất. Ba là: Tiền chỉ là vốn nếu nó được tích lũy có mục đích đầu tư sinh lợi và cũng chỉ trở thành vốn đầ u tư để phát triển kinh tế nếu như trong nền kinh tế đó có đủ khả năng để sản xuất ra tư liệu sản xuất, có đủ khả năng chuyể n
  7. đổi các khoản tiền tiết kiệ m thành những tư liệu sản xuất trên thị trườ ng trong nước và quốc tế. Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất, nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất công nghiệp một cách có hiệu quả. Mặc dù mỗi trườ ng phái, mỗi nhà kinh tế học, ở mỗi thời kỳ lịch s ử có những quan niệ m, phân tích, kết luận về vốn riêng, song chúng ta có thể rút ra khái niệm về vốn trên cơ sở kế thừa một số các học thuyết kinh tế cuả các nhà kinh tế học từ xưa đế n nay như sau: - Phạm trù vốn phải được hiểu theo nghĩa rộng gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn các tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, tài nguyên, đất đai... mà còn bao gồm giá trị c ủa những tài sản cấu hình như vị trí c ủa đất đai, các thành tựu khoa học và công nghệ... - Vốn hiểu theo nghĩa trực tiếp là phần giá trị tài sản quốc gia được tích lũy dướ i dạng tiền và giá trị c ủa tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh lợi, được chuyển đổi thông qua các hoạt động đầ u tư thành những tư liệu sản xuất và các phương tiện sản xuất c ần thiết khác để sử dụng vào quá trình đầ u tư cho nền kinh tế. - Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩ m thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia. Như vậy, cùng với quan niệm về vốn c ủa kinh tế chính trị Mác xít, các nhà kinh tế học hiện đạ i mà tiêu biểu là Paut A. Samuelson c ũng đã nghiên cứu về vốn dướ i các góc độ khác nhau, nhưng tất cả những sự nghiên cứu đó chỉ làm rõ thê m bức tranh toàn cảnh về vốn mà Mác đã phát triển từ lâu. Để đạt được mục tiêu tích lũy vốn cao thì vấn đề tiếp theo là phải xác định được mức tích lũy vốn trong GDP cần hướ ng tới trong từng giai đoạn phát triển c ủa nền công nghiệp. Ứng với mỗi mục tiêu khác nhau thì mức tích lũy vốn trong nước thườ ng khác nhau, vấn đề là phải xác định được mức
  8. tích lũy vốn chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong GDP sẽ quyết định quá trình tích tụ và tập trung c ủa các doanh nghiệp. Kinh nghiệm c ủa nhiều quốc gia cho thấy muốn đẩ y nhanh tốc độ phát triển kinh tế thì tỷ lệ tích lũy vốn trong nước thườ ng phải chiếm 3% trong GDP. PHẦN II: THỰC TRẠNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯ ỚC-YÊU CẦU BỨC THIẾT CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯ ỚC HIỆN NAY Theo kết quả đợ t kiểm trra đánh giá lại tài sản và vốn c ủa doanh nghiệp Nhà nước tiến hành ngày 1/1/1996 thì tổng số vốn kinh doanh c ủa 5775 doanh nghiệp Nhà nước đơn vị bàn giao là 68539 tỷ đồng (không kể giá tr ị diện tích đất trong sử dụng.). Trong đó, doanh nghiệp TƯ 50761,8 tỷ, doanh nghiệp địa phương 17778 tỷ đồng. Nếu trừ đI số vốn không hoạt động, bao gồm giá trị tài sản chờ thanh lí, không cần sử dụng, nợ khó đòi, nợ phải thu được khoanh lại thì số vốn thực sự hoạt động kinh doanh c ủa doanh nghiệp Nhà nước là 60459 tỷ đồng, bằng 88,2% số vốn hiện có. Nếu loại trừ giá trị tài sản bị mất mát, số tiền lỗ của doanh nghiệp còn treo trê n sổ sách thì số vốn thực sự hoạt động c ủa doanh nghiệp còn ít hơn nữa. - Trong số vốn thực sự hoạt động, vốn cố định là 53186 tỷ đồng, chiế m 88%; vốn lưu động là 7273 tỷ đồng, chiếm 12%. Ta thấy cơ cấu vốn như thế là không hợp lí. Vốn lưu động chiế m tỉ lệ quá nhỏ so với tổng số vốn của doanh nghiệp. Vốn lưu động do Nhà nước cấp chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, trong đó, vốn lưu động thức sự hoạt động mới chỉ đáp ứng được 10%. Như vậy, tình trạng thiếu vốn trong doanh nghiệp là phổ biến và rất nghiê m trọng. Nếu xem xét kĩ hơn về tài sản cố định ta thấy: trang thiết bị c ủa doanh nghiệp Nhà nước rất lạc hậu, chắp vá từ nhiều nguồn, nhiều nước khác nhau. Theo điều tra c ủa Tổng c ục thống kê thì tình trạng kĩ thuật của đa số
  9. máy móc thiết bị trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ, có lĩnh vực như đườ ng sắt, cơ khí, công nghiệp đóng tàu... lạc hậ u 4-5 thế hệ. Các doanh nghiệp Nhà nước địa phương chiế m tỉ lệ lớn nhưng có trình độ công nghệ lạc hậu hơn so với doanh nghiệp Nhà nước TƯ. Trong số các doanh nghiệp Nhà nước TƯ có 54,3% số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 41% ở trình độ cơ khí, chỉ có 3,7% ở trình độ tự động hoá. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có tới 94% số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 2,4% ở trình độ cơ khí và chỉ có 2% ở trình độ tự động hoá. Trình độ trang thiết bị công nghệ lạc hậu và quá yếu kém dẫn tới năng suất lao động c ủa doanh nghiệp Nhà nước c òn thấp, gây ảnh hưở ng đế n khả năng cạnh tranh c ủa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp khác và các doanh nghiệp nước ngoài. Do dó, để doanh nghiệp Nhà nước có khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động cần phải có vốn (trung và dài hạn) để đổi mới các dây chuyền công nghệ - qui mô vốn c ủa một doanh nghiệp Nhà nước của nước ta còn rất nhỏ. Vốn bình quân thực sự hoạt động c ủa một doanh nghiệp là 10,468 tỷ đồng(các doanh nghiệp cỡ nhỏ c ủa các nước trong khu vực đều có vốn trên dướ i 1 triệu USD). 68% Doanh nghiệp Nhà nước có vốn dướ i 1 tỷ đồng trong đó có 50% doanh nghiệp Nhà nước có vốn dướ i 500 triệu, thậm chí có doanh nghiệp chỉ có vốn vài chục triệu đồng. Một số ngành có vốn kinh doanh tương đối lớn (Điện lực: 19298 tỷ, Nông nghiệp:7738 tỷ, Ngân hàng tín dụng 2783 tỷ đồng...), tỷ trọng vốn từng ngành so với tổng số vốn thườ ng không lớn, chẳng hạn, xây dựng 4,6%; chế biến khoáng sản 3,6%; vận tải bộ 5,1%. Như vậy, ta thấy rằng, qui mô vốn c ủa từng doanh nghiệp và c ủa ngành rất nhỏ, nguyên nhân chính là do doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay còn quá nhiều về số lượ ng, vốn c ủa doanh nghiệp khi thành lập đươc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước nhưng do Ngân sách Nhà nước eo hẹp nên vốn cấp phát khi thành lập c ũng rất nhỏ.
  10. Từ việc phân tích thực trạng vốn c ủa doanh nghiệp Nhà nước, ta thấy rằng, nhu cầu vốn hiện nay cho doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn cả về vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đòi hỏi phải có biện pháp huy động vốn khẩn cấp cũng như phải có sự điều chỉnh lại cơ cấu vốn cho phù hợp thì mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh c ủa doanh nghiệp Nhà nước. * Thực trạng huy động vốn trong các Doanh nghiệp Nhà nước: 1. Huy đ ộng vốn trong DN Nhà nước thời kì trước khi đ ổi mới: Trong thời kì trước đổi mới, nền kinh tế nươcs ta mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, do đó, việc huy động và s ử dụng vốn mang đặc trưng là Nhà nước bao cấp vốn và bao cấp tín dụng. Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng trên cơ sở tính toán các nhu cầu vốn cần thiết để đả m bảo các chỉ tiêu pháp lệnh mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Hoạt động huy động vốn và lưu thông vốn qua đạ i diện Ngân hàng Nhà nước đảm nhận đã dẫn tới tiêu c ực, yếu kếm trong kinh doanh tiền tệ, không tạo lập được các thị trườ ng vốn, thị trườ ng chứng khoán, thị trườ ng hối đoái... Điều đó đã dẫn tới không huy động được vốn nhàn rỗi trong nhân dân, không đa dạng hoá được các hình thức lưu thông, cung ứng vốn do đó, không đáp ứng được kịp thời, linh hoạt, thích hợp và có hiệu quả các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Huy đ ộng vốn trong DNNN từ khi tiến hành đ ổi mới đ ến nay: Trong thời kì này, doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, Nhà nước chỉ giao v ốn ban đ ầu cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tự xác đ ịnh nhu cầu, khả năng đ ảm bảo và tự tiến hành huy đ ộng vốn cho doanh nghiệp. Để đánh giá thực trạng huy động vốn ở doanh nghiệp Nhà nước hiện nay ta xem xét các vấn đề sau: a) Các kết quả đ ạt được:
  11. Sau khi tiến hành đổi mới, vốn từ các nguồn khác nhau đã được huy động vào sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp với qui mô, tốc độ tăng nhanh qua các nă m.Tính đế n tháng1/1996, doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được 279 375 tỷ đồng (doanh nghiệp Nhà nước TƯ huy động được 254160 tỷ, doanh nghiệp Nhà nước địa phhương 25215 tỷ) gấp hơn 4,1 lầ n vốn kinh doanh c ủa doanh nghiệp. Như vậy thì c ứ có 1 đồng vốn thì doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta vay được trên 4,1 đồng; trong khi đó ở Nhật, các xí nghiệp có 1 đồng thì vay được 10 đồng. Nhiều quan sát viên phương Tây cho rằng tỉ lệ này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro không lành mạnh so với phương Tây. Thực tế cho thấy hiện nay ở Nhật bản đang bị khủng hoảng tài chính vì hàng loạt các công ty tài chính, Ngân hàng lớn bị s ụp đổ do không thu hồi được các khoản nợ. ở các nước phương Tây, ngân hàng chỉ cho vay: 1 đồng vốn riêng chỉ vay được từ 2 đén 5 đồng. ở sài gòn thời kì 1970- 1975 các xí nghiệp tư nhân có 1 đông fvốn chỉ vay được khoảng 3 đồng ở Ngân hàng đầu tư và 2 đồng ở Ngân hàng thương mại. Như vậy, tỉ lệ vốn riêng/vốn vay thấp nhất là 1,5. Như vậy, nếu so sánh với các chỉ tiêu này thì hiện nay, hiệu quả huy động vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước là khá cao. Để huy động được lượ ng vốn này, các doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: - Huy động từ các nguồn tín dụng: đây là nguồn vốn huy động quan trọng nhất c ủa các doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước luôn chiế m tỉ trọng lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước huy động được trên 50% tín dụng nội bộ và trên 70% tín dụng ngoại tệ từ các Ngân hàng thương mại. - Huy động từ nguồn Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước là nguồn vốn quan trọng thứ hai đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân
  12. sách Nhà nước cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước dướ i dạng đầ u tư XDCB, cấp vốn lưu động, bù lỗ, trợ giá... Mặc dù đang có số lượ ng giảm nhưng lượ ng vốn hàng nă m cho doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn. Nă m 1994 bằng 0,5% GDP. Để giải quyết nhu cầu vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, vừa qua Bộ Kế hoạch và Đầ u tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ duyệt cấp them vốn lưu động cho các doanh nghiệp thành viên c ủa một số Tôngr công ty. - Để giải quyết nhu cầu vốn trong thời gian qua các doanh nghiệp đã vay nợ nước ngoài dướ i hình thức nhập khẩu hàng hoá trả chậm (L/C trả chậm) từ 2 tháng đế n 2 năm. Trong năm 1996, lượ ng vốn huy động từ nguòn này khoảng trên 1 tỷ USD tương đương 11000 tỷ đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhà nước còn áp dụng một số biện pháp khác như mua trả góp, tạm ứng, kiên doanh, kiên kết... qui mô nguồn này không đáng kể so với các nguồn trên. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn, nghị định 59/Cp ngày 03/10/1996 cho phép doanh nghiệp Nhà nước được quyên fhuy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay vốn từ các tổ chức Tín dụng, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả CBCNV trong doanh nghiệp), nhận góp vốn liên kết với các hìh thức khác nhưng không là m thay đổi hình thức sở hữu c ủa doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, ta thấy từ khi tiến hành đổi mới đến nay, hiệu quả hoạt động huy động vốn cao hơn so với thời kì trước; thể hiện ở chỗ: lượ ng vốn huy động được nhiều hơn và các hình thức huy động vốn phong phú hơn. Thành tựu đó do các nguyên nhân chủ yếu sau: +Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trườ ng, doanh nghiệp được tự chủ sản xuất kinh doanh do đó tạo ra s ự năng động sáng tạo cho hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. + Việc thành công trong cải cách cà ổn định kinh tế đã tạo ra tốc độ tăng trưở ng nhanh và vững chắc, tích luỹ nội bộ của đất nước tăng nhanh. Do
  13. đó, các nguồn vốn huy động được c ủa doanh nghiệp đã tăng nhanh về số lượ ng và qui mô, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn c ủa doanh nghiệp. + Mặc dù các thành phần kinh tế được khẳng định là bình đẳ ng vớ i nhau nhưng thực tế thì doanh nghiệp Nhà nước còn được hưở ng một số lợ i thế so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: được vay nhắn hạn với tỉ lệ lãi suất thấp, được hưở ng tài trợ từ ngân sách, vay không cần phải thế chấp... b) Những tồn tại trong hoạt đ ộng huy đ ộng vốn của doanh nghiệp: Mặc dù sau 10 năm đổi mới hoạt động huy động vốn ở doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp Nhà nước còn một số vấn đề tồn tại sau: Thứ nhất, hình thức huy động vốn chủ yếu là đi vay đã dẫn tới các hậu quả sau: + Công nợ c ủa doanh nghiệp Nhà nước đã vượt xa mức bình thườ ng của hoạt động kinh doanh và có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Đối vớ i nhiều doanh nghiệp Nhà nước, theo báo cáo của Tổng c ục doanh nghiệp thì tổng số nợ phải thu c ủa doanh nghiệp Nhà nước tính đế n 31/12/1995 gấp 7 lần vốn lưu động c ủa doanh nghiệp và bằng 38,4% tổng doanh thu nă m 1995; nợ khó đòi và nợ khoanh lại (thực chất là nợ không có khả năng thu hồi) chiếm 46,1% vốn lưu động hiện có c ủa doanh nghiệp. Tỏng số nợ phả i trả c ủa doanh nghiệp là 279376 tỷ đồng gấp 3 lần số nợ phải thu và bằng 4,1 lần số vốn kinh doanh c ủa doanh nghiệp - số nợ này lớn hơn GDP năm 1996 (năm 1996, GDP của nước ta là 251000 tỷ đồng). Tổng số nợ c ủa doanh nghiệp TƯ là 259160 tỷ đồng, bằng 3,2 lần nợ phải thu và bằng 5 lầ n vốn kinh doanh. Doanh nghiệp địa phương có số nợ là 25215 tỷ đồng, bằng 2,2 lần nợ ơhải thu và 1,4 lần vốn kinh doanh. Do công nợ quá lớn, hàng năm, doanh nghiệp Nhà nước phải dành một tỉ lệ doanh thu khá lớn trả lã i và nợ cho Ngân hàng, do đó, làm hiệu quả sản xuất kinh doanh c ủa doanh
  14. nghiệp rất thấp. Năm 1995, tỷ lệ lợi nhuận/vốn là 19,3% trong khi đó lã i suất tín phiếu kho bạc Nhà nước là 21%. + Do chủ yếu vay vốn ở ngân hàng dẫn đế n việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp bị phụ thuộc vào ngân hàng. Biểu hiện ở chỗ ngân hàng có loại vốn nào thì vay được loại vốn đó; có vốn ngắn hạn thì vay được vốn ngắn hạn, có vốn dài hạn thì vay được vốn dà i hạn. Khi nào mà các điều kiện cho vay dễ dàng thì vay được nhiều, khi nào điều kiện cho vay khó khăn thì doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng vì không vay được vốn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu lí giải cho tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở các doanh nghiệp Nhà nước trong năm 1996. Do phụ thuộc vào ngân hàng nên doanh nghiệp không xây dựng được một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí vốn rẻ nhất mà phải chấp nhận mức lãi suất do ngân hàng đưa ra. Mức lãi suất này thườ ng khá cao. Thứ hai: Tốc độ gia tăng vốn huy động cho doanh nghiệp Nhà nước giảm dần do tốc độ gia tăng c ủa hai nguồn vốn chủ yếu là vốn tín dụng và vốn Ngân sách Nhà nước bị giảm mạnh. + Tốc độ gia tăng c ủa tín dụng nội tệ giảm từ 36,48% năm 1992 xuống còn 18,2% năm 1994. + Tốc độ gia tăng c ủa vốn tín dụng nội tệ giả m từ 116,12% năm 1992 xuống còn 34,07% năm 1994. Đối với nguòn vốn từ Ngân sách Nhà nướ c cấp cho doanh nghiệp Nhà nước bị giả m từ 8,5% GDP năm 1988 đến năm 1994 là 0,5% GDP. Ta thấy một vấn đề rất mâu thuẫn là trong khi tốc độ tăng trưở ng c ủa nền kinh tế nước ta tăng với tốc độ cao, thì hoạt động sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp c ũng tăng nhanh, do đó nhu cầu vốn c ủa doanh nghiệp cũng tăng nhanh để bảo đả m yêu cầu tăng trưở ng, mở rộng sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp thì tốc độ gia tăng lượ ng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp lại bị giả m. Qua đó, ta thấ y
  15. rằng hiệu quả huy động vốn ngày càng giảm, doanh nghiệp ngày càng thiế u vốn trầm trọng. Thứ ba, trong cơ cấu c ủa vốn huy động được thì chủ yếu là vốn ngắ n hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước. Nguyên nhân: các hình thức huy động vốn dài hạn như thuê tài chính, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... chưa được áp dụng rộng rãi ở nước ta. Doanh nghiệp phải huy động vốn bằng cách vay ngân hàng nhưng ngân hàng dư thừa vốn ngắn hạn nhưng thiếu vốn dài hạn. Tóm lại: trong 10 nă m thực hiện đổi mới, hoạt động huy động vốn c ủa các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề tồn tại như các hình thức huy động vốn chưa được đa dạng hoá, chủ yếu vốn để kinh doanh, chưa xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, chi phí vốn cao, mới đáp ứng được một phần nhu cầu vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng đượ c nhu cầu vốn dài hạn... Những nguyên nhân đó dẫn đế n tình trạng doanh nghiệp n bị thiếu vốn trầ m trọng trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là phải khắc phục được những tồn tạ i này để thúc đẩ y doanh nghiệp Nhà nước phát triển, xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. PHẦN III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯ ỚC Ở NƯ ỚC TA HIỆN NAY I. Những trở lực đối với hoạt động huy động vốn ở các DN Nhà nước. 1. Những vướng mắc trong việc đa dạng hóa hình thức huy đ ộng vốn. Hình thức huy động vốn bằng cách vay ngân hàng đã thể hiện rất nhiều nhược điểm đòi hỏi doanh nghiệp Nhà nước phải đa dạng hóa hình thức huy động vốn. Tuy nhiên để đa dạng hoá hình thức huy động vốn thì
  16. trước hết phải có các nguồn vốn và cơ chế pháp lý để điều chế hướ ng dẫ n hoạt động vốn từ các nguồn này. Hiện nay việc huy động vốn từ các nguồn ngoài nguồn tín dụng ngân hàng đang gặp phải những khó khăn: - Huy động vốn từ nguồn chủ sở hữu: Nguồn vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bao gồm nguồn từ ngân sách Nhà nước và nguồn từ lợi nhuận để lại. Nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) hiện nay chủ yếu s ử dụng để thành lập mới các doanh nghiệp và bổ xung vốn lưu động cho một số doanh nghiệp trọng điể m. Ngân sách Nhà nước cấp cho các DNNN đang có xu hướ ng giảm dần. Do vốn ít, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém lợi nhuận phỉa trích để nộp khoản thu sử dụng vốn cho NSNN do đó lợi nhuận để lại dùng việc phát triển sản xuất kinh doanh c ủa doanh nghiệp Nhà nước sản xuất nhỏ. Vì vậy, việc huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước từ các nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn. - Huy động vốn từ thị trườ ng chứng khoán: DNNN huy động vốn t ừ thị trườ ng chứng khoán chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Nghị định 120 /CP ngày 17/9/1994 cho phép các DNNN phát hành trá i phiếu để huy động vốn nhưng đế n nay chưa có DNNN nào phát hành trá i phiếu để huy động vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do nước ta chưa thành lập được thị trườ ng chứng khoán để thúc đẩ y việc mua bán trái phiếu, các văn bản pháp lý hướ ng dẫn được phát hành trái phiếu công ty còn thiếu và chưa hoàn thiện, hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các DNNN kém do đó ngườ i mua trái phiếu rất thận trọng lo ngại công ty bị phá sản. - Huy động vốn từ nguồn tín dụng thuê mua: Hiện nay chúng ta đã có một số công ty cho thuê tài chính ra đờ i như: Công ty thuê mua và đầ u tư c ủa VietCombank, công ty tín dụng thuê mua c ủa Vietindebank, công ty thuê mua và tư vấn c ủa ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty thuê tài chính Kexin, công ty liên doanh và thuê tài chính Việt Nam (Vinalease). Hình thức tín dụng thu mua còn mang tính
  17. chất thử nghiệm ở nước ta, cả nước mới chỉ có Vietnamairline sử dụng để thuê máy bay. Nguyên nhân do các hình thức này còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh c ủa các công ty còn chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệ m về loại hình dịch vụ này, môi trườ ng pháp lý còn sơ sài chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho việc triển khai hoạt động c ủa các công ty cho thuê tài chính. - Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà nước còn có thể huy động vốn bằng cách huy động từ các nguồn tín dụng nhà cung cấp, tạm ứng c ủa khách hàng,... nhưng các hình thức này c ũng gặp phải một số khó khăn do qui mô vốn c ủa các doanh nghiệp ở nước ta nhỏ lại luôn ở trong tình trạng thiế u vốn. 2. Những trở lực về tín dụng đ ối với doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với DNNN. Hiệ n nay việc huy động vốn từ nguồn này đang gặp phải những trở lực sau. Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tà i sản hoặc được bảo lãnh c ủa ngườ i thứ ba đủ thẩ m quyền ngườ i được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho ngườ i bảo lãnh. Điều này là m cho nhiều DNNN khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dà i hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía DNNN mà cả c ủa một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trườ ng hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp. Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượ ng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phâ n phổ hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đề u xây dựng cho một thời gian dài (thườ ng là 1 năm) do vậy dù DNNN có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì c ũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng. Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh
  18. tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến động c ủa giá cả. Hiện nay lã i suất ngắn hạn là 1,5%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,55%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều DNNN với mức lãi suất đó không mấy DNNN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầ u ra c ủa ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn c ủa DNNN, trong khi đó các DNNN luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. M ột nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ cacs khoả n tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp hỏi mua mà không có. Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn c ủa một số cán bộ tín dụng trong các NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nề n kinh tế nhất là các NHTM ở quận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườ m rà đối với khách hàng và thườ ng chậ m chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh. 3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DNNN đã được đổi mới rất nhiều nhưng vẫn còn một số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của DNNN. Cụ thể là: - Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản, quyền sở hữu c ủa doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở DNNN còn phức tạp rườ m rà không tại ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động vốn đặc biệt là sử dụng tài sản để thế chấp. - Việc Nhà nước qui định DNNN chỉ được huy động vốn với tổng mức dư nợ không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này
  19. chưa phù hợp vì hiện nay việc huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu c ủa DNNN là rất khó khăn do NSNN eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngâ n hàng mà hiện nay nợ c ủa DNNN đã vượt xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ thì rất ít DNNN có khả năng huy động được vốn. Đây c ũng là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DNNN bị thiếu vốn trầm trọng, ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng. 4. Là những trở lực từ phía doanh nghiệp Nhà nước. - Qui mốn và và doanh nghiệp nhỏ công nợ lớn. Tài sản thế chấp của doanh nghiệp có giá trị nhỏ, công nghệ lạc hậu so với thế giới nếu có rủi ro xảy ra thì việc phát mại c ủa ngân hàng rất khó khăn. Ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay một số lượ ng vốn bằng với vốn tự có c ủa doanh nghiệp nếu vượt quá vốn tự có thì nếu có rủi ro xảy ra thì ngân hàng là ngườ i phải gánh chịu các rủi ro mất mát. Do đó DNNN rất khó có thể vay một lượ ng vốn lớn, để có thể tăng lượng vốn vay thì mấu chốt vấn đề là phải tăng được vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. - Hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN hiện nay là rất thấp tình trạng lãng phí thất thoát vốn sảy ra còn phổ biến dẫn đế n thua lỗ, mất khả năng thanh toán c ủa doanh nghiệp. Điều này làm giám đốc các NHTM e ngại khi đặc bút ký cho các DNNN vay vốn. - Công tác kế hoạch hóa tài chính trong các DNNN còn rất yếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính chất buôn chuyến do đó rất khó xác định được nhu cầu vốn cho một thời kỳ dài hạn làm cho hoạt động huy động vốn thườ ng xuyên bị động do đó nhiều khi để huy động được vốn doanh nghiệp phải chấp nhận được chi phí vốn lớn. - Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính c ủa doanh nghiệp còn rất yếu về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy động vốn mới như là tín dụng thuê mua, phát hành trái phiếu.
  20. II. Những giải pháp huy động vốn cho DN Nhà nước ở nước ta hiện nay. 1. Các giải pháp và tầm vĩ mô. 1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý tài chính ở doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: - Nghiên c ứu ban hành các chính sách khuyến khích DNNN chủ động huy động và tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh. + Mở rộng các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp như phát hành trái phiếu, đa dạng hóa hình thức phát hành trái phiếu ... Đồng thời có có qui chế giám sát chặt chẽ để bảo vệ lợi ích cho các nhà đầ u tư. + Cải tiến hệ thống thuế, hệ thống tín dụng, cơ chế lãi suất tạo điề u kiện cho DNNN tham gia vào thị trườ ng vốn với tư cách là chủ thể c ủa thị trườ ng này, cụ thể: Đối với hệ thống thuế: Nghiên cứu bãi bỏ tiền thu sử dụng vốn vì các DNNN chủ sở hữu là Nhà nước vốn là vốn c ủa Nhà nước như vậy đứng trên góc độ chủ sở hữu không ai lại thu tiền sử dụng vốn vào ngay vốn c ủa mình bỏ ra. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay phần lớn các DNNN đang bị thiếu vốn kinh doanh trầ m trọng, khả năng tích luỹ chưa cho lợi nhuậ n sau thuế còn ít nhu cầu bổ sung vốn còn lớn do vậy không nên thu khoản thu này. Trong thực tế hiện nay tổng số tiền thu vào sử dụng vốn và NSNN hàng nă m là không đáng kể, bỏ khoản thu này DNNN sẽ có thêm điều kiện tích luỹ phát triển sản xuất. Đối với hệ thống tín dụng: Đặc biệt chú ý đến hình thức tín dụng thuê mua. Nghị định 64/CP mới là phác thảo ban đầ u cần phải hoàn thiệ n và bổ sung, nâng cao tính chất pháp lý c ủa văn bản nếu cần có thể ban hành Luật thuê tài chính bên cạnh Luật ngân hàng. Cần phải có các biện pháp để khuyến khích cả hai bên đi thuê và cho thuê. + Cho phép các Tổng công ty thành lập các công ty tài chính để chủ động thu hút vốn từ bên ngoài và để thuận lợi cho việc điều hòa vốn giữa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0