
Những mối quan hệchủ
thểvớiđối tượng trong
nghiên cứu văn học sử
hông nên dừng lạiởphương pháp luận nghiên cứu văn học chung,
mà phải tiếnđến lí thuyết vềnhững phân môn chính của nó, tức là phương
pháp luận lí luận văn học, phương pháp luận phê bình văn học và phương
pháp luận văn học sử. Phương pháp luận văn học sửhiển nhiên cũng bao
hàm nhiều nội dung, nhưng có lẽtrước hết phải giải quyết những mối quan
hệcơbản giữa chủthểvà đối tượng trong nghiên cứu.
Văn học sử, hay lịch sửvăn học thật ra có hai tầng nghĩa. Xét vềmặt
khách thể, văn học sửlà sựvậnđộng của văn học nhưnó đã diễn ra trong
thực tế, và đây hiển nhiên là nền tảng. Nhưng văn học sửthông thường

mang nghĩa là sựkhái quát đúc kết của ngườiđời sau đối với thực tếdiễn
biến của văn học trong quá khứtrướcđó. Chủthểcủa lịch sửvăn học như
đã diễn ra trong thực tếchính là những nhà văn và bạnđọc trong quá khứ,
nhưng nó sẽbiến thành đối tượng cho một loại chủthểkhác là những nhà
nghiên cứuđời sau. Nhưthếvăn học sửnhưtồn tại khách quan thì là duy
nhất, nhưng các công trình văn học sửkhông thểchỉcó một. Trước hết
công trình văn học sửkhông phải là một tập hợp tưliệu sửcó tính chất biên
niên, mà là một sựnhận thức lí thuyết nhằmđúc kết bản chất và quy luật
của nó. Chủthểcủa các công trình này lại là của một thờiđại nhấtđịnh,
không thểkhông mang ý thức thờiđại của mình vào sựnhận thức lí thuyết
đó. Hơn nữa, và điều này không phải là không quan trọng: những chủthể
này khi viết những công trình văn học sửkhông thểtựloại bỏra ngoài thiên
hướng và tài năng cá nhân. Đây là những vấnđề phảiđề cậpđến, để rút ra
những hướng giải quyết thỏađáng.
I. Lịch sửvăn học và sựnhận thức lí thuyết
ở đây (xét trên bình diện chung nhất) có vấnđề kết hợp giữa nguyên
tắc lịch sửvà nguyên tắc lôgic, (mặc dù) vẫn biết rằng những nguyên tắc
này là khác nhau tùy theo thờiđại và cá nhân. Sựkết hợp này tuy có thể ở
những mứcđộ khác nhau, nhưng là tất yếu, không thểtách rời, song tạm
thời có thểphân biệtđể luận bàn. Nguyên tắc lịch sử đòi hỏi nhà viết văn
học sửphải nắm bắt toàn diệnđến mức tốiđa có thể được những hiện
tượng văn học trong lịch sửcùng những nguyên nhân và trình tựcủa nó.
Nhưng muốn từ đấy tiến lên rút ra bản chất và quy luật phát triển của văn
học, phải vận dụng nguyên tắc lôgic của tưduy lí thuyết. Phải dùng sựphán
đoán suy lí với những khái niệm, phạm trù hoặc mệnh đề để rút ra những
kết luận có ý nghĩa khái quát. Tất nhiên lịch sử được phản ánh theo tưduy
lôgic, không hoàn toàn giống với bản thân lịch sửvốn có. Bởi vì trong thực
tế, lịch sửphát triển thiên biến vạn hóa, bao gồm nhiều ngẫu nhiên, quanh
co, đột biến, trong lúc tưduy lôgic buộc phải tước bỏnhững tiểu tiết vụn
vặt, thứyếu, cảm tính, chỉdồn sức vào cái cốt lõi với những hình thức “dồn

nén”, “tinh chất” nhất. Angghen đã từng nói: “Lịch sửthường diễn biến
quanh co, nhảy cóc. Nếu cứphải bất cứ đâuđâu cũng chạy theo nó, thì tất
yếu không những phải chú ý đến nhiều tưliệu không quan trọng, mà còn
thường thường làm gián đoạn tiến trình tưduy... Cho nên, phương thức
nghiên cứu lôgic là duy nhất thích dụng. Nhưng trên thực tế,đây không thể
không là phương thức nghiên cứu lịch sử, chẳng qua là nó thoát khỏi tính
ngẫu nhiên gây nhiễu trong hình thức của lịch sửmà thôi” (Mac,
Anghen tuyển tập, II, 122). Lôgic cũng chính là một cách diễn dịch khác của
chính lịch sửmà thôi. Lôgic với lịch sửkhông thểtách rời nhau là nhưvậy.
Biểu hiện tách rời giữa hai nguyên tắc này trong các công trình văn học sử
có nhiều, nhưng có thểquy vào hai loại chính. Một là quá thiên vềnhững tư
liệu lịch sửtủn mủn, trình bày la liệt những hiện tượng vềtác gia tác phẩm,
mà không thấy quy luật diễn biến nội tạiở đâu cả, hoặc ngược lại nêu ra
nhiều quy luật, rút ra không ít kết luận, nhưng rất ít luận cứtừthực tếphong
phú của hiện tượng văn học.
Nhưthếcó thểthấy tưduy lôgic phải có cơsởlịch sử, hơn nữa phải
tương ứng với sựphong phú của lịch sử. Không được dựa vào lôgic để làm
nghèo nàn lịch sửtước bỏhết mọi hiện tượng mà mới xem qua thấy không
hợp quy luật, có vẻngẫu nhiên. ở đây phải phân biệt hai cấpđộ của ngẫu
nhiên. Có ngẫu nhiên ởcấpđộ chi tiết không có mấy ý nghĩa, nhưng có loại
ngẫu nhiên ởcấpđộ chỉnh thể.Đó thường là những hiện tượng văn học
hoàn chỉnh có ý nghĩa, chẳng qua là mới tiếp cậnởmột sốmặt nào đó,
không đủ để giải thích, đành phải cho nó là ngẫu nhiên mà thôi. Nó chính là
thường “xuất hiệnở điểm giao thoa của nhiều quá trình tất yếu”
(Plêkhanốp). Do đó, phải xem xét những hiện tượng nhưvậy từnhiều
nguồn gốc, và sẽphát hiện ngay tính tất yếu của chúng. Trong lịch sửvăn
học Trung Quốc, trong mấy trăm nămđằng đẵng thời Chiến quốc, thành
tựu thơvăn là có, nhưng không phát triển dồn dập, bỗng đâu chỉcó trên
dưới 10 năm lại xuất hiện Sởtừvới ngọn cờKhuất Nguyên, phải nói là đột
xuất, không khỏi gây cảm giác ngẫu nhiên. Nhưng nếu tiếp cận từtruyền
thống văn hóa chung của nước Sở, xem xét quá trình ảnh hưởng văn hóa

Trung nguyên, đặc biệt là khảo sát tình hình chính trị đương thời của nước
Sở, thì sẽthấy ngay tính tất yếu của cao trào này trong lịch sửvăn học
Trung Hoa.
Lôgic khi nào cũng mang dạng thái trừu tượng, và mặc dầu “những
trừu tượng khoa học... phảnảnh giới tựnhiên sâu sắc hơn”, nhưng “mỗi cái
trừu tượng chỉphảnảnh được một mặt trong bản chất và quy luật... Nó chỉ
là một giai đoạn trên con đường đi tới nhận thức cái cụthể”. Và do đó “Một
tổng sốvô hạn những khái niệm chung, những quy luật v.v..., mớiđem lại
cái cụthểtrong tính toàn thểcủa nó” (Bút ký triết học). Nhưthếbức tranh lí
thuyếtđược dựng nên bởi tưduy lôgic (bao gồm những khái niệm, phạm
trù và quy luật) phải thật phong phú mới tương ứng với những biểu hiệnđa
dạng của thực tếlịch sửcủa văn học. Trong đó tất yếu phải bao hàm cả
những hiện tượng văn học mới xem qua có vẻngẫu nhiên, nhưng nếu xem
xét kĩsẽthấy hàm chứa trong đấy những nhân tốcủa bản chất và quy luật
tất yếu, mà nếu bỏqua, thì cũng là một biểu hiện coi thường của lôgic đối
với lịch sử.
Sựkết hợp giữa lịch sửvà lôgic (luận lí) nhưthếlà tất yếu trong công
tác văn học sử. Giới văn học sửTrung Quốc cũng đều thống nhất nêu cao
khẩu hiệu “sửluận kết hợp”. Nhưng kết hợp ra sao, theo tỉlệmỗi bên như
thếnào, thì ý kiến lại khác nhau. Sau đây là những bình luận vềhàng loạt ý
kiến vốn cũng đã cô đúc thành công thức. Tất nhiên quan trọng hơn là việc
làm (vì nói và làm không phải lúc nào cũng trùng khớp). ở đây chỉthiên về
mặt bình luận ngữnghĩa của những công thứcấy mà thôi.
1) “Luận cao ưsử” (Lí luận cao hơn lịch sử). Công thức này mặc dù
có nhân tốhợp lí, là sựphảnứng chính đáng đối với những công trình văn
học sửchỉmô tảkểlể, yêu cầu phải có những phân tích sâu sắc giàu chất lí
luận. Tuy nhiên, đây là lí luận trong văn học sử, cho nên lí luận càng sâu
sắc thì càng phải hòa quyện với thực tếlịch sửvăn học, chứkhông thểnói

cao hơn, vì dễnảy sinh khuynh hướng chưng diện lí luận tưbiện hoặc gán
ghép.
2) “Dĩluậnđại sử” (Lấy lí luận thay thếcho lịch sử). Rõ ràng công
thức này hoàn toàn sai. Chỉcần nói rằng ngay bộmôn lí luận văn học cũng
vẫn phải dựa vào cơsởthực tếcủa lịch sửvăn học. Trởlên là hai khuynh
hướng tuy mứcđộ có khác nhau, nhưng đều cựcđoan.
3) “Ngụluậnưsử” (Gửi gắm lí luận vào lịch sử). Công thức này đúng
mựcởchỗkhông quá phóng đại vịthếcủa lí luận, xem trọng cơsởlịch sử.
Tuy nhiên còn có chỗbất cập, chưa toát lên được vai trò của lí luận. Vấnđề
không phải là chỉgửi gắm, mà là gửi gắmđể làm gì?
4) “Luận tòng sửxuất” (Lí luận toát ra từlịch sử). Công thức này có
chỗchính xác mà sâu sắcởchỗchất lí luận cuối cùng trong công trình văn
học sửdù có sâu sắc bao nhiêu, cũng phảiđượcđúc kết từthực tếtưliệu
của lịch sửvăn học, chứkhông phải là khiên cưỡng, gán ghép. Tuy nhiên
đây là nói cái kết quả, nhưng khi bắt tay vào nghiên cứu, nhà văn học sử đã
phải sửdụng lí luận rồi.
5) “Dĩluậnđái sử” (Lấy lí luậnđể dẫn dắt lịch sử). Công thức nếu hiểu
quá theo nghĩađen của mặt chữthì sẽbao hàm một nguy cơlà cắt xén,
nhào nặn lịch sửcho vừa những khung lí luận nào đó. Nhưng nếu hiểu theo
nghĩa lí luận là chìa khóa, là công cụ để khám phá lịch sử, thì rất hợp lí, có
tính chất bổsung cho điểm 4) nói trên. Điềuđó cũng có nghĩa là công thức
này mới nêu tầm quan trọng của lí luận với tưcách là công cụ, chứchưađề
cậpđến lí luận với tưcách là kết quả, là một thành phần của thành phẩm.
Tóm lại công thức toàn diện phải là sựtổng hợp củađiểm 4) và 5). Cụ
thểlà Dĩluậnđái sử, luận tòng sửxuất. Diễn giải cho rõ ràng hơn là khi bắt

