intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở Trường TH Số 2 Hồng Thủy

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

33
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu trong công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao sự hình thành và phát triển về năng lực, phẩm chât và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để từ đó học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở Trường TH Số 2 Hồng Thủy

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:      Như chúng ta đã biết, Giáo viên chủ  nhiệm là linh hồn của lớp, bằng các  biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên  chủ  nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ  như  con  em mình trưởng thành theo từng năm tháng. Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái   với bạn bè như  anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể  vững mạnh.   Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên   chủ  nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Rất nhiều giáo viên cùng   giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những  ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ. Bên cạnh đó, Giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học có một vị trí vô cùng quan  trọng trong việc hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển  đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống   cơ  bản để  học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Ngoài việc tổ  chức, hướng   dẫn các hoạt động học tập của học sinh   xuyên suốt 10 buổi/ tuần, giáo viên   chủ  nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ  chơi,  trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,…và cả hoạt động học tập ở nhà của  học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ  nhiệm lớp ở Tiểu học là rất  nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp. Tôi từng rất ấn tượng với lời thơ của nhà thơ Phùng Ngọc Hưng “Trẻ em  hôm nay, thế giới ngày mai”. Đó là trách nhiệm, là niềm vinh quang, tự hào. Tôi  suy nghĩ phải làm gì đây để xây dựng và hình thành cho các em phẩm chất, trình  độ  tốt ngay từng giờ, từng ngày học và ý thức trách nhiệm của các em đối với  bản thân, với tập thể lớp, trường và cộng đồng xã hội. Các em học sinh Tiểu học ngây thơ, hồn nhiên trong trắng như  tờ  giấy   trắng. Tôi hết sức tự  hào khi mình là người đầu tiên được cầm bút viết lên tờ  giấy trắng đó. Niềm tự hào bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm đối với các em,   với giáo dục và xã hội.   Lương tâm của nhà sư phạm mách bảo tôi phải uốn nắn kịp dần cho các   em hình thành có ý thức nội quy, nề nếp đã được quy định. Quan tâm, động viên,  giúp các em từ việc nhỏ đến việc lớn, làm hành trang cho các em mang theo vào  cuộc sống sau này.  Hiểu rõ như  vậy, do đó tôi chọn đề  tài “Một số  biện pháp  nâng   cao   công   tác   chủ   nhiệm   ở   trường   Tiểu   học”   để   viết   sáng   kiến   kinh  nghiệm. II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI 
  2.  Tìm ra một số  biện pháp tích cực, tối  ưu trong công tác chủ  nhiệm lớp  góp phần nâng cao sự hình thành và phát triển về năng lực, phẩm chât và  giáo  dục kĩ năng sống cho học sinh để  từ  đó  học sinh ý thức được giá trị  của bản  thân trong mối quan hệ  xã hội,  hiểu biết về  thể  chất, tinh thần của bản thân   mình; có hành vi, thói quen  ứng xử  có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp  luật… và có đủ  khả năng tự  chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem  lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết  làm hành trang bước vào đời.  Giúp người giáo viên chủ  nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh,  hiểu học sinh hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn.   Học sinh không còn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ  nhiệm lớp, tạo điều kiện để  học sinh phát huy tối đa những khả  năng vốn có   của mình trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường.  Giúp giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh gần gũi, thân thiết hơn,  thấy rõ được vai trò của từng cá nhân trong việc giáo dục toàn diện cho các em. III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:  Với khả năng và trình độ cho phép, tôi xin chọn tập thể học sinh lớp  11 do  tôi chủ nhiệm. Xác định rõ quan điểm khoa học trong các phương pháp nhằm giúp HS  chóng tiến bộ, đạt kết quả cao. B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM  Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC :         2.2.Thực trạng công tác chủ nhiệm lớp           2.2.1.Ưu điểm:           Giáo viên chủ nhiệm có trình đào tạo trên chuẩn, tuổi đời còn trẻ, có tinh  thần trách nhiệm cao, nhiệt tình với học sinh, nhận thức được vai trò của người   thầy, có khả  năng nắm được mục tiêu, kiến thức, dạy tốt lớp phụ  trách, lập   được kế hoạch giáo viên chủ nhiệm lớp.            Đa số  học sinh ngoan, có ý thức học tập tốt, tích cực tham gia các hoạt  động của lớp, của nhà trường.             Ban Giám hiệu đã quan tâm đến công tác chủ  nhiệm lớp thông qua các   việc: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch chủ nhiệm, duyệt và góp ý cho giáo viên   về  kế  hoạch chủ  nhiệm đều đặn, giao chất lượng giáo dục học sinh cho giáo  viên, định ra các tiêu chí thi đua lớp tiên tiến, lớp xuất sắc cho tập thể học sinh,  
  3. lao động tiên tiến, lao động xuất sắc cho giáo viên, khen thưởng cho giáo viên  đạt  thành tích lao động tiên tiến, lao động xuất sắc, lớp tiên tiến, lớp xuất sắc,   học sinh đạt các thành tích trong năm học. Đồng thời nhà trường luôn kết hợp  với các tổ  chức đoàn thể  trong nhà trường tổ  chức cho các em tham gia các  phong trào do các cấp, các ngành tổ  chức, cũng như  các hoạt động tập thể như  quyên góp ủng hộ, làm kế hoạch nhỏ,... Nhằm giúp các em dần có ý thức trong   việc tham gia các hoạt động tập thể, biết tham gia, biết chia sẻ cùng bạn bè và  cộng đồng.           Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi luôn hoàn thành xuất sắc  nhiệm vụ được giao. Liên tục  nhiều năm qua, lớp tôi chủ nhiệm luôn duy trì sĩ  số  100%, chất lượng về  năng lực học tập cũng như  phẩm chất của học sinh  luôn dẫn đầu trong khối và trong toàn trường.             2.2.2. Hạn chế:           Giáo viên nhận thức về công tác chủ  nhiệm còn hạn chế. Khi được phân  công chủ nhiệm lớp thì công việc tìm hiểu nhân cách, tâm lý, hoàn cảnh của học   sinh còn xem nhẹ, qua loa chiếu lệ. Công tác phối hợp với các lực lượng giáo  dục trong và ngoài nhà trường thiếu đồng bộ, không chặt chẽ. Giáo viên chưa  quan tâm  nhiều  đến việc giáo dục toàn diện học sinh. Hoạt  động giáo dục  NGLL, các tiết sinh hoạt tập thể, sinh hoạt 10 phút đầu giờ  chưa được chú   trọng đúng mức.            Ở  lứa tuổi  này các em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học,  chưa có nề nếp, cũng chưa có ý thức tự học ở nhà. Đến lớp chưa chú ý vào các   hoạt động học tập, còn thích chơi như ở lớp mẫu giáo, hay chọc ghẹo bạn, hay   nói leo, nói tự do trong giờ học. Một số em còn lười đi học, hay nghỉ  học  vô lí  do.            Đa số  phụ  huynh học sinh làm nghề  nông, buôn bán không có thời gian   quản lý, kiểm tra đôn đốc nhắc nhở  việc học hành cho con em. Một số  phụ  huynh học sinh còn mang tư  tưởng "khoán trắng" cho nhà trường. Họ  coi việc   giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, của các thầy các cô.           2.3.  Hiệu quả của thực trạng công tác chủ nhiệm lớp:            Thực tế  trong nhiều năm công tác tại trường. Những năm đầu chưa có  kinh nghiệm nên lớp do tôi chủ nhiệm ít khi được xếp loại tiên tiến xuất sắc.           Nhưng do quá trình làm chủ nhiệm tôi từng bước học tập, thử nghiệm và  dần dần giúp tôi có những kinh nghiệm tốt trong công tác chủ  nhiệm. Đến  những năm gần đây lớp do tôi chủ  nhiệm luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ  được giao, luôn được xếp loại là lớp xuất sắc, lớp tiên tiến. Sở  dĩ có được  những thành tích như vậy là do bản thân tôi luôn làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.  Bên cạnh đó có những lớp luôn trong tình trạng không được xếp loại hoặc   không được khen thưởng. Do tình trạng như vậy nên bản thân tôi muốn chia sẻ 
  4. cùng đồng nghiệp một số biện pháp giúp nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm   như sau: Giáo viên Tiểu học không chỉ  dạy các môn học theo quy   định của Bộ  GD&ĐT mà còn phải làm tốt công tác chủ  nhiệm lớp. Vì vậy, đòi hỏi người  giáo viên Tiểu học không chỉ có trình độ chuyên  môn mà còn phải biết tổ chức  quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là việc rất nặng nề và cũng  rất khó khăn đối với giáo viên.       Học sinh lớp 1 là lứa tuổi đang chơi mới bước vào môi trường học tập, nên  ngoài những thay đổi về thể chất, các em cũng thay đổi về  tâm lý tình cảm, dễ  bị tác động xấu bởi những vấn nạn của xã hội nếu các em không được giáo dục  tốt.        Học sinh trong lớp có em có hoàn cảnh khó khăn nên thiếu sự quan tâm sâu  sát của gia đình, có em sống với ông bà ngoại để  đi học vì bố mẹ đi làm ăn xa;   đặc biệt  có em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bố  mẹ  bỏ  nhau, bố  thần kinh  không bình thường, mẹ bị bệnh tâm thần khá nặng, nhà nghèo nên em  có tâm lí chán học, thường xuyên nghỉ học.           Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ  là bổn phận và trách nhiệm của   nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên.         Từ  thực tế trên, tôi tự  hứa với lòng mình phải cố  gắng thật nhiều để  làm  tốt công tác chủ nhiệm và phải đặc biệt quan tâm, gần gũi hơn với  học sinh. 1. Những thuận lợi, khó khăn trong công tác chủ nhiệm lớp: 1.1. Thuân l ̣ ợi:   Các ban ngành, đoàn thể luôn tạo điều kiện giúp đỡ  hỗ  trợ nhiệt tình về  mọi mặt. Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học, việc giáo  dục đạo đức rèn phẩm chất, năng lực cho HS. Cơ sở  vật chất của trường đảm  bảo cho việc dạy và học. Ngay từ  đầu năm học trường đã tổ  chức được cuộc   họp với phụ huynh để chấn chỉnh nế nếp học tập của các em.  Là giáo viên chủ nhiệm lớp 1. Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác, hết  lòng vì học sinh thân yêu. Lớp 1.1 do tôi làm chủ nhiệm, ngay từ  đầu năm học   tôi đã nắm bắt và hiểu khá rõ về tình hình, đặc điểm của lớp, của từng học sinh.   Các em đều là học sinh ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, chăm học, đoàn kết,   luôn yêu thương giúp đỡ nhau. Học sinh có đủ sách vở và đồ dùng học tập. Gia  đình học sinh đều ở gần trường đóng, thuận lợi cho việc đi lại của học sinh.  Trong gia đoạn hiện nay, với sự  bùng nổ  công nghệ  thông tin nên việc   nắm bắt chủ  trương đường lối của Đảng và nhà nước của mỗi giáo viên, của   phụ huynh rất kịp thời, Sự liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm – gia đình học sinh  – nhà trường khá kịp thời  1.2. Kho khăn ́
  5. *Những khó khăn do khách quan:        Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của   gia đình đối với các em chưa đúng mức, phụ  huynh còn quan niệm việc giảng  dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với  việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình  quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung   giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có   trường hợp phụ  huynh dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn   đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em.  Mặt trái của sự bùng nổ  về công nghệ  thông tin đã mang đến những tiêu  cực, các trò chơi ngày càng nhiều đặc biệt các trò choi trên mạng Internet…..thu   hút học sinh tham gia. Đời sống kinh tế phát triển dễ làm cho các em rơi vào lối   sống thiên về  vật chất, do đó càng khó khăn hơn trong việc giáo dục tư  tưởng  cho các em có lối sống hồn nhiên có lý tưởng. * Khó khăn từ phía giáo viên và học sinh:  ­ Công tác quan hệ phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên. ­ Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. ­ Nhà ở vùng thấp, lũ lụt hay bị ngập nước nên việc thực hiện nội quy trường,  lớp vào mùa mưa gió của các em học sinh còn hạn chế. ­ Một số học sinh do thiếu thốn tình cảm gia đình (như  chỉ  ở  với mẹ hoặc bố,   cha mẹ làm ăn xa) nên các em ít được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn   cùng trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự  ti, không dám hòa  mình trong mọi hoạt động chung của lớp. ­ Sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường học tập thay đổi   một cách cơ  bản: trẻ  phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ  30 – 35   phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ  hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết,  hứng thú khám phá. Trẻ  bắt đầu kiềm chế  dần tính hiếu động, bột phát để  chuyển thành tính kỷ  luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Tinh nhạy và   sức bền vững, tinh khéo léo của các thao tác của đôi bàn tay để  tập viết được  phát triển nhanh. Tất cả những điều đó đều là thử  thách đối với trẻ, muốn trẻ  vượt qua được tốt những thử thách đó thì phải cần có sự  quan tâm giúp đỡ  của  gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học. Ở đầu   tuổi tiểu học hành vi mà trẻ  thực hiện còn phụ  thuộc nhiều vào yêu cầu của  người lớn (học để  được bố cho đi ăn kem, học để  được cô giáo khen, quét nhà  để  được ông cho tiền,…) Khi đó, sự  điều chỉnh ý chí đối với việc thực hiện  hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng   mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
  6. ­ Việc triển khai thực Thông tư  22 của BGDĐT và tiếp cận các  phương pháp  dạy học hiện đại, mô hình dạy học VNEN mới bắt đầu, cả  GV và phụ  huynh  đều bắt đầu làm quen  nên còn nhiều lúng túng. 2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:           Hiện tượng trẻ  em chưa linh hoạt  khi phải xử  lí những tình huống của   cuộc sống thực, thiếu tự  tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn,  thiếu sáng kiến và dễ  nản chí ngày càng nhiều. Nhiều vấn đề  của xã hội hiện  đại tác động đến trẻ  chưa được cập nhật, bổ  sung vào chương trình giáo dục   nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị  là nguyên nhân gây ra những hiện  tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết   suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán,  không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề  thực trong cuộc sống hiện   đại… Qua nhiều năm thực tế giảng dạy  ở trường, bản thân tôi nhận thấy  học   sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:     Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.        Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi  chưa thật sâu sát.     Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.     Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiên giáo d ̣ ục đạo đức cho các em   chưa nhiều.      Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo   dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực   tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống. II. MÔT S ̣ Ố  BIÊN PHÁP NÂNG CAO ̣  CÔNG   TÁC   CHỦ   NHIỆM  LỚP   Ở  TRƯỜNG TIỂU HỌC  1. Biện pháp 1: GVCN phải có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò vô   cùng   quan   trọng   của   mình   đối   với   sự   phát   triển   của   học   sinh   lớp   chủ   nhiệm: GVCN là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng,  hội đồng nhà trường và phụ huynh học sinh  quản lý, tổ  chức học tập rèn luyện   đạt mục tiêu đào tạo.  GVCN vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa  đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho  quyền lợi của tập thể lớp. Đối với HS và tập thể  lớp, GVCN vừa là nhà giáo dục và là người lãnh  đạo gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ  chức, điều hành, kiểm tra toàn diện các  hoạt động giáo dục, hoạt động tập thể  và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng  về  công tác giáo dục đạo đức, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình 
  7. được quy định trong chương trình GDPT tại QĐ số 16/ QQD­ BGD ĐT ngày 5/5/  2006 của BGD và ĐT. GVCN là người chủ  chốt của nhà trường làm công tác   giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm.  Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,   GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh; là cầu   nối giữa lớp với gia đình, nhà trường và xã hội. 2. Biện pháp 2: Tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tình hình của lớp chủ nhiệm  để   có biện pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự  tiến bộ   của từng học sinh và của cả lớp.      Ngay sau khi nhận lớp chủ  nhiệm, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt thông tin về  đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau như điều tra  qua học bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu   điều tra các thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh… Sự phân loại và các thông tin trên là căn cứ để lựa chọn học sinh có năng  lực, nhiệt tình vào Ban cán sự  lớp, Hội đồng tự  quản; đồng thời cũng là cơ  sở  để đưa ra những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. 3. Biện pháp 3: Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản của lớp, hoàn thiện tổ   chức lớp học, xây dựng nề nếp lớp học:          Xây dựng một đội ngũ Hội đồng tự quản giỏi là việc rất quan trọng người   giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện. Hơn nữa, để đội   ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề  nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.   Trước hết, những học sinh được chọn vào Hội đồng tự quản bao giờ cũng  phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt   động, đối xử với bạn bè....  Hội đồng tự  quản của lớp tôi gồm: 1 Chủ  tịch HĐTQ, 2 Phó chủ  tịch  HĐTQ và gồm 6 ban với các chức trách và nhiệm vụ như sau:   * Chủ tịch Hội đồng tự quản:  Điều hành công việc chung * Phó chủ tịch Hội đồng tự quản: Điều hành các ban theo sự phân công của chủ  tịch Hội đồng. * Ban văn nghệ : Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học  và cuối tiết học. Có thể lồng ghép chơi trò chơi để ôn lại kiến thức cũ.  * Ban học tập: Có nhiệm vụ phát đồ dùng và mời các nhóm trưởng lên nhận tài   liệu và đồ dùng học tập. Kiểm tra bài cũ, bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo  với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải   quan sát bao quát lớp để  cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập  của   lớp.
  8. Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo viên có  thể  để  ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa thảo   luận xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường mời   ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em. * Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi buổi  học phải phân công vệ  sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra nhóm nào chưa  thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học cũng phải kiểm tra lại  xem nhóm nào thực hiện vệ  sinh chưa tốt để  kịp thời nhắc nhở  các bạn thực  hiện   tốt. * Ban thể dục: Có nhiệm vụ theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học   thể dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt. * Ban sức khỏe: Theo dõi về sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề về sức  khỏe thì đưa bạn lên phòng y tế của trường hoặc báo với cô y tế. * Ban thư viện: Cho các bạn mượn truyện đọc, thu truyện và sắp xếp thư viện  gọn gàng ngăn nắp. * Ban ngoại giao: Có nhiệm vụ nếu lớp có khách đến thăm thì ra mời khách vào   và biết  giới thiệu về trường, lớp các góc học tập, cô giáo, các bạn. …           Nhiệm vụ của mỗi em, mỗi ban được ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau   đó phát cho các em. Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ  một cách   khoa học, cụ  thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ  làm đúng các nhiệm vụ  của mình. Hội  đồng tự quản và các ban phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công   việc chung.          Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, dưới sự điều hành của   Chủ  tịch HĐTQ, đại diện các ban báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ  vào báo cáo của từng ban, GVCN nắm được khả  năng quản lí lớp của từng  thành viên. Và cứ  cuối mỗi tháng, GVCN tổ  chức họp HĐTQ một lần để  tổng  kết các mặt làm được của lớp, động viên khen ngợi những việc các em đã làm  tốt, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót và hướng dẫn các em cách  khắc phục.  4. Biện pháp 4: Xây dựng kế hoạch phù hợp và chỉ đạo các em thực hiện tốt   theo kế hoạch.                Từ  thực tế  nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế  hoạch  chủ  nhiệm.  Kế  hoạch  này  ngoài  việc   căn  cứ   vào  kế  hoạch  của  nhà  trường, phải dựa vào tình hình thực tế của lớp, xây dựng kế hoạch cả năm, kế  hoạch học kỳ, tháng, tuần, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với  hoàn cảnh và điều kiện thực tế  nhằm thúc đẩy sự  tiến bộ  của cả  lớp và của  từng em; Có được kế  hoạch thì tôi đi vào chỉ  đạo học sinh thực hiện theo kế  hoạch đã định. Phát huy vai trò của hội đồng tự quản và các ban, đội ngũ này sẽ  giúp giáo viên động viên, đôn đốc, kịp thời uốn nắn, kiểm tra đối tượng học  sinh. Sau mỗi tuần giáo viên tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học  
  9. kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục và đưa ra   hướng hoạt động  cho tuần tiếp theo. Những vấn đề trong hướng dẫn lớp hoạt   động, giáo viên ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở  học sinh.   Từ đó đánh giá và giáo dục học sinh tốt hơn. 5. Biện pháp 5: Luôn quan tâm, tạo sự  gần gũi hòa đồng giữa GVCN   với HS, tập thói quen thực hiện nề nếp theo qui định. Từ khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ huynh học sinh, tôi đã hiểu được  phần nào  ở  mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế  hoạch:  Ở trước lớp tôi động   viên và khuyên nhủ  các em về  vệ  sinh lớp trước khi vào học, vệ  sinh cá nhân  sạch sẽ. Về  tác phong tư  tưởng, các em còn vụng dại, sợ  sệt không giám nói,  sinh hoạt còn mang nặng  ở nhà, ăn mặc còn bẩn. Vì thế  tôi đã gần gũi với các   em, hoà mình vào tập thể  lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quần   áo... cho các em. Tôi đã giành thời gian giữa giờ để  tập hát, kể  chuyện cho các  em một số câu chuyện bổ ích. Để tạo cho các em hứng thú trong học tập, sự hoà   đồng giữa giáo viên và học sinh, rút ngắn lại khoảng cách thầy, trò. Trước đây  các em xa lạ với tôi bao nhiêu thì các em càng gần gũi với tôi bấy nhiêu.  Trong  các giờ  lên lớp tôi luôn luôn xác định rằng khi học là phải có một nề  nếp. Tổ  chức cho HS cả  lớp cùng với HĐTQ xây dựng một nề  nếp và kiên quyết thực   hiện theo nề nếp đã qui định. ­ 15 phút đầu giờ tôi chữa bài tập, ôn lại bài cũ, tập hát cho các em... ­ Thực hiện dạy bài mới, ôn bài cũ qua từng giai đoạn, từng thời kì. Với  phương pháp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. ­ Khi ngồi học bàn ghế phải ngay ngắn, ngồi vuông góc, ngồi thẳng hàng,  bàn nào có em nói chuyện là mời em đó lên ngồi bàn trên. ­ Xếp chỗ  ngồi một em khá, một em yếu để  các em kèm cặp nhau trong  học tập, các nhóm trưởng phải theo dõi trong nhóm của mình ai nói chuyện  riêng, không làm bài tập, không học bài cũ, đi học muộn, nghỉ  học không có   phép...bạn nào hăng say phát biểu, xây dựng bài. ­ Các nhóm trưởng phải theo dõi các bạn trong nhóm của mình. Cuối tuần   thống kê tuyên dương những em có ý thức tốt, em nào mắc phải khuyết điểm tự  đứng dậy nhận lỗi trước lớp và giáo viên chủ nhiệm. Đây là một việc làm mang   tính giáo dục, các em tự  biết nhận lỗi, tự  nhận ra khuyết điểm của mình. Qua   những việc làm như vậy, tôi thấy các em tiến bộ rõ rệt. Theo tôi nghĩ, nhiều lúc  nghiêm túc quá sẽ  dẫn đến không khí căng thẳng trong giờ  học. Trong khi học   bài nếu học sinh phát biểu tôi luôn chú ý động viên dù trả  lời không đúng hoặc  đúng ít để tạo cho lớp mình có một phong trào học tập hằng say và sôi động. Do   đó tôi thấy rằng với những việc làm như thế, mỗi giờ  dạy của  tôi đối với lớp  có phần sôi động hẳn lên, tạo cho cả hai phía giáo viên và học sinh. Giáo viên thì 
  10. hứng thú giảng dạy, còn học sinh thì hứng thú học tập và kết quả truyền thụ và   tiếp thu của các em khá cao.         Ngoài việc dạy kiến thức tôi luôn quan tâm đến việc ghi chép bài vở  của   học sinh, xem các em viết bài như thế nào. Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa  học, tôi đã hướng dẫn các em ghi chép đầy đủ và khoa học hơn. Hướng dẫn các  em cách cầm sách khi đọc bài, cách trả  lời các câu hỏi phải có đầu, đuôi. Luôn  quan tâm giúp đỡ  các em học yếu. Luôn nhắc nhở  và quan sát tư  thế  ngồi học  của các em, để kịp thời sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế. Khi giảng dạy tôi   luôn dùng những kí hiệu trên bảng để  điều khiển lớp, nhằm hạn chế  sự  làm   việc riêng của học sinh, giáo viên khỏi phải nói nhiều và thói quen trong học  tập.  Trong giờ học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi   không căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các  em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ  trong giờ  học toán tôi vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài  toán liên quan đến chương trình toán mà các em đang học. Khi đọc các bài toán  có trong câu chuyện các em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải  quyết, nó còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự  hưng phấn đó khoảng   cách giữa các em với cô giáo chủ  nhiệm được gần hơn, các em thực sự  mạnh   dạn trong học tập.  Trong các tiết học tôi luôn chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát  biểu. Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu  trả  lời của bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để  tạo cho các em thêm  mạnh dạn và nói lưu loát hơn trước đám đồng. Còn các em yếu kém tôi luôn chú  ý kèm cặp và dìu dắt kĩ hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các   em dù có những việc làm nhỏ. Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả  nâng cao.  * Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn:  Ở  lớp tôi chủ  nhiệm có em Trần Thị  Gia Hân có hoàn cảnh gia đình đặc  biệt khó khăn: Bố  bỏ  đi từ  lúc em chưa chào đời, mẹ  bị  bệnh tâm thần khá   nặng, nhà quá nghèo. Gia đình chỉ  có hai mẹ  con sống với nhau, thần kinh của  em không được bình thường như các bạn trong lớp. Vì vậy, việc chấp hành nội  qui của lớp, của trường nhiều lúc chưa thật nghiêm túc; em còn đi học không  thường xuyên và có nguy cơ bỏ học. Ngoài ra, một số học sinh có hoàn cảnh gia  đình khó khăn như em Nguyễn Nguyên Dũng, Nguyễn Văn Hợp, Trần Nữ Hồng  Phương (bố  mẹ  đi làm ăn xa, em  ở  với ông bà ngoại); em Phạm Thành Danh,  Nguyễn Nguyên Dũng (nhà nghèo, gia đình đông con), Trần Anh Bun (bố mẹ li  dị)….    Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trước hết phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình,  nguyên nhân dẫn đến hành vi của HS; gặp riêng HS cá biệt bằng tình cảm chân  
  11. thành của mình. Khi các em mắc lỗi, giáo viên cần bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị,  phân tích có lý, có tình mức độ  nguy hại của khuyết điểm, thức tỉnh HS bằng  những câu chuyện đạo đức để cảm phục các em.    Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của HS cá biệt.   Đây là việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi GVCN lớp phải thường xuyên giám   sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi HS đạt được thành tích dù là nhỏ nhất.   Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho HS   cá biệt tham gia; xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội  tự  thể  hiện mình. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề  ngoại  khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ.   Tổ  chức cho tập thể  lớp quan tâm tận tình giúp đỡ  dưới mọi hình thức   như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Ngoài ra bản thân tôi còn kêu gọi  các tổ  chức trong và ngoài nhà trường  ủng hộ, quyên góp về  vật chất để  giúp  các em có điều kiện đến trường. GVCN lớp có thể lấy tấm gương tốt trong tập   thể, hoặc của chính một HS cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá HS cá biệt.  Kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn vừa để  hiểu hơn về  HS vừa giúp các  em có những cố  gắng  ở  từng môn học. Đồng thời, kết hợp  chặt chẽ  với hội  CMHS, Đội TNTP để thống nhất biện pháp giáo dục HS cá biệt. Thực tiễn giáo dục HS cá biệt là rất khó khăn và không phải HS cá biệt   nào cũng giáo dục thành công. Công tác giáo dục HS cá biệt luôn là một thử  thách rất lớn đối với mỗi GVCN lớp, song làm tốt được điều này bạn mới thực   sự trở thành một nhà giáo dục theo đúng nghĩa. 6. Biện pháp 6: Tổ  chức tốt các hoạt động tập thể  và các trò chơi vui tươi   lành mạnh.           Thích sinh hoạt tập thể  và tham gia các trò chơi bổ  ích là nhu cầu, là sở  thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ  chức cho các em sinh  hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi,   chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng ở  mỗi em sẽ  được hình thành và rèn luyện   một cách nhẹ  nhàng, tự  nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em.  Ngoài ra, tổ  chức sinh hoạt tập thể  và vui chơi còn giúp các em phát triển và  hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc   tổ  chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em  lại với nhau.        Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi  có thể  tổ  chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả  các buổi sinh hoạt  ngoài giờ lên lớp.        * Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa          Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập thể,  biểu diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,...
  12.          Trong các tiết TNXH, Đạo đức, tôi tổ  chức cho các em chơi các trò chơi   như: làm phóng viên; sắm vai xử  lí các tình huống phòng tránh bị  xâm hại, từ  chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và  đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này,   các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.          Tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với khả năng của   từng em, khuyến khích động viên các em tự  tin bộc lộ  năng khiếu của mình.  Nhờ vậy, các tiết học chính khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia.  Thông qua các hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như  trong cuộc sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ   năng sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả.        * Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động   ngoài giờ lên lớp          Ở Tiểu học, giáo dục ngoài giờ  lên lớp được qui định trong chương trình   chính khóa, không bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp.  Nhưng nếu các hoạt động này chỉ  diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì  sẽ mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ  chức không khéo  léo thì sẽ  làm  ảnh hưởng đến tiến trình giờ  học. Do vậy, đối với những hoạt   động chiếm nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ  chức cho học sinh tham   gia trái buổi, mỗi tuần 1 buổi.             ­ Tổ  chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung  chuông vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về  An toàn giao thông,... Nội dung  thi được tôi soạn bằng chương trình PowerPoint nên gây được sự  thích thú, hào   hứng cho học sinh mỗi lần tham gia.       ­ Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh   chào mừng các ngày lễ lớn.       ­ Tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng   đại của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ  niệm ngày Quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải   phóng miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu này, tôi lấy trên mạng Internet rồi   kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem.               ­ Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và  làm một số  đồ  chơi đơn giản để  trưng bày hoặc để  tặng người thân bạn bè.  Dựa trên hướng dẫn  ở  báo Chăm học, tôi tập chung cả  lớp lại và hướng dẫn  các em  làm việc theo nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc.         Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi   cho cả  lớp nên các em trở nên rất tự  tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan  trọng là tôi đã thực sự  xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học  
  13. sinh tích cực. Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh   ngày càng nâng cao. * Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần:  Là giáo viên chủ  nhiệm lớp thì giờ  sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan  trọng nhất, bởi tiết này không  đơn thuần chỉ  dừng lại  ở  việc nhận xét  ưu,  khuyết điểm của lớp trưởng về hoạt động của lớp tuần qua mà trong giờ  sinh   hoạt cuối tuần nhằm để  học sinh nhận thấy được các khuyết điểm của chính  bản thân mình, dù nhỏ hay lớn đều phải tự hứa trước lớp sẽ có biện pháp khắc  phục trong tuần tới. Đặc biệt trong giờ  sinh hoạt này, tôi lấy các tấm gương  điển hình về học tập, giúp đỡ bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao để  tuyên dương, khen ngợi phần này được nhấn mạnh hơn, phần tồn tại chỉ  nhắc   nhở không quá khắt khe có như vậy các em mới tự giác thực hiện tốt.     Ngoài những biện pháp nói trên, tôi còn thường xuyên quan tâm đến việc  phối hợp tốt với các GV bộ  môn, với Liên đội, với BGH nhà trường, với Phụ  huynh học sinh,… Nhờ  vậy mà việc giáo dục học sinh của lớp có nhiều hiệu   quả  hơn. Đặc biệt bản thân tôi luôn làm gương trong mọi mặt để  cho các em  noi theo. Bởi vì tôi luôn nghĩ, giáo viên chủ  nhiệm như  người mẹ hiền thứ hai  chăm sóc đàn con của mình, mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm  ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh.  Trong những năm làm công tác chủ  nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Người   giáo viên chủ nhiệm nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản   lý lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề  nếp hơn. Đúng là “Mẹ nào con đó,  tướng nào quân ấy”. Người giáo viên nào đứng lớp cũng cần chữ “ UY”. Nhưng  chữ  “UY” của giáo viên chủ  nhiệm đối với học sinh thì cần hơn. Chữ “UY” ở  đây là uy tín, là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm phục  lòng ngưỡng mộ của  trò đối với thầy... Thầy có chữ  “UY’’ thì thầy bảo, thầy nói, thầy dạy trò mới  vâng theo. Theo tôi, chữ  “UY” được hình thành từ  cái nhỏ  nhất. Đó là lời nói,  việc làm, hành động; là trang phục, tư thế tác phong, cách thức cư  xử  ... và sự  hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của giáo viên chủ  nhiệm. Bên cạnh chữ  “UY” thì phải nói tới chữ “TÂM” của giáo viên chủ  nhiệm. Chữ “TÂM” được   hiểu  ở  đây là lòng thương yêu trẻ  đích thực, là lòng tâm huyết với công việc  của mình. Người giáo viên chủ nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo dục học sinh  bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản thân tôi: Học sinh yêu quí thầy cô  nào thì thích học thích vâng nghe theo lời thầy cô ấy.          Tóm lại , người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt   quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động   sáng tạo không ngừng; Sự  sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong  soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập   thể  và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng 
  14. sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự  tâm huyết với nghề,   thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố  gắng làm tốt công tác  chủ nhiệm, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư  xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp.           Việc nâng cao công tác chủ nhiệm cho giáo viên Tiểu học là điều hết sức  cần. Để  đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng   bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.  III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:               Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kể từ đầu năm học 2018­2019 đến  nay, bản thân tôi thật sự vui mừng vì các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em đều  có ý thức kỉ  luật, tinh thần tự  giác và có tinh thần tự học . Giờ  truy bài thực sự  hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả. Các em   mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Hội đồng tự  quản làm việc có bài bản, thực sự  năng động hơn.  Việc sinh hoạt hằng ngày  trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân  thiện vào thực tế, những lời chào, cảm  ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề  nghị  lịch sự,... đã trở  thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất  hăng hái phát biểu trong tiết học. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi   trước sự tiến bộ trưởng thành của con em mình, với những kết quả tốt đẹp của  tập thể lớp 1.1.            Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi  ở  tất cả  các lớp trong khối 3 nói  riêng và học sinh toàn trường nói chung, được các đồng nghiệp đồng tình  ủng  hộ. Học sinh trong khối ngoan hơn, tự  giác chủ  động, mạnh dạn hơn, đã thể  hiện được cách xử  lí trong  ứng xử  khá phù hợp. Trong học kì 1 vừa qua không  có em nào bị kỉ luật. Đa số các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.           Nhìn lại kết quả trên cho thấy, học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm về năng   lực và phẩm chất đều đạt. Về kiến thức kĩ năng các em đều hoàn thành và hoàn  thành thành tốt. Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng  sáng kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Các giáo  viên trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của mình,   học sinh đa số đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự  giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe,  môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc   vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện   thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được   phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”
  15.    Với việc áp dụng những biện pháp nói trên, kết quả  các lớp mà tôi chủ  nhiệm  đạt được cụ thể sau: *  Năm học 2017 – 2018:  a/ Kết quả giáo dục của lớp 2.1: ­ Học sinh hoàn thành chương trình lớp học và được lên lớp: 24/24 (100%) ­ Học sinh được khen thưởng cuối năm học: 20/24 em (83,3%), trong đó: Học sinh được khen xuất sắc toàn diện: 11/24 em (45,8%) Học sinh được khen từng mặt: 9/24 em (37,5%) b/ Kết quả các phong trào thi đua và mũi nhọn của lớp: ­ Phong trào Vở sạch chữ đẹp: 24/24 em đạt (100 %). Lớp xếp thứ 3/10. ­ Phong trào xây dựng Lớp học thân thiện: xếp thứ 3, đạt giải Nhì ­ Tham gia đầy đủ  và đạt giải cao trong các hội thi cấp trường. Tổng sắp các  hội thi của lớp xếp thứ 3/10. Cụ thể:         + Ngày hội Học sinh Tiểu học: Lớp đạt giải Nhì, xếp thứ 3/10; trong đó:  Phần thi Viết chữ đẹp có 2 giải Nhất, 4 giải Ba, 2 giải Khuyến khích; Lớp đạt  giải Nhì, xếp thứ 3/10. Phần thi Trạng nguyên nhỏ tuổi có 5 giải Thám hoa, lớp  xếp thứ 5/10 đạt giải Khuyến khích.        + Hội khoẻ PĐ cấp trường: 1 Giải nhất, 1 giải nhì Cờ vua lứa tuổi nhi đồng.      + Đêm hội Trung thu: xếp thứ 3/10, đạt giải Nhì.      + Ngày hội đọc sách: đạt giải Ba, trong đó giải Nhì phần thi Trưng bày sách,  giải Khuyến khích phần thi Cảm nghĩ của em. c/ Danh hiệu thi đua cuối năm học của lớp 21:  ­ 5/6 Sao đạt Sao cháu ngoan Bác Hồ. 20/24 em đạt Cháu ngoan Bác Hồ.   ­ Lớp đạt danh hiệu Tiên tiến xuất sắc, được Hiệu trưởng tặng Giấy khen. d/ Cá nhân Giáo viên:  * Cấp trường: ­ Đạt Giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi    ­ Đạt Giáo viên dạy giỏi   ­ Đạt Danh hiệu Lao động Tiên Tiến. * Cấp huyện: ­ Đạt Giáo viên dạy giỏi năm 2016­2017. * Học kì 1 ­ Năm học 2018­2019 (Lớp 1.1):  a/ Kết quả giáo dục  Các môn học và HĐGD Môn Tổng  Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành HS SL % SL % SL % TV 26 15 57.7 11 42.3 0 0
  16. Toán 26 17 65.4 9 34.6 0 0 Đạo đức 26 12 46.2 14 53.8 0 0 TNXH 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Âm nhạc 26 7 26.9 19 73.1 0 0 Mĩ Thuật 26 7 26.9 19 73.1 0 0 Thể dục 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Thủ công 26 7 26.9 19 73.1 0 0 Tiếng Anh 26 14 53.8 12 46.2 0 0 Năng lực Đạt tốt Đạt Cần cố gắng Tự phục vụ, tự quản 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Hợp tác 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Tự học, GQVĐ 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Phẩm chất Đạt tốt Đạt Cần cố gắng Chăm học, chăm làm 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Tự tin, trách nhiệm 26 12 46.2 14 53.8 0 0 Trung thực, kỉ luật 26 12 46.2 14 53.9 0 0 Đoàn   kết,   yêu  26 12 46.2 14 53.8 0 0 thương b/ Kết quả các phong trào thi đua và mũi nhọn:  ­  Phong trào Vở  sạch chữ  đẹp cuối HKI: 26/26 em đạt (100 %). Lớp xếp thứ  2/11. ­ Phong trào xây dựng Lớp học thân thiện: xếp thứ 1/11, đạt giải Nhất ­ Tham gia đầy đủ các hội thi cấp trường, đạt giải cao. Cụ thể:  + Hội thi Dân vũ chào mừng 20/11: đạt giải Nhất  + Hội thi Văn nghệ chào mừng 22/12: Xếp thứ 2/11 ­ Giải Nhì.  + Ngày hội Học sinh Tiểu học: Lớp đạt giải Nhì, xếp thứ 3/11; trong đó:  Phần thi Viết chữ đẹp đạt 2 giải Nhì, 3 giải Ba, 4 giải KK; Lớp đạt giải Nhì. + Ngày hội thiếu nhi vui khỏe: xếp thứ 3/11, đạt giải Nhì c/ Kết quả cá nhân Giáo viên: ­ Đạt Giáo viên dạy giỏi cấp huyện (năm 2016­2017) ­ Đạt Giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp trường. ­ Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. C. PHẦN KẾT LUẬN
  17. I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: Công tác chủ  nhiệm lớp quả  thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên  phải vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi,   trọng tài phân minh… Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng,  kính yêu, tin tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn   đạt được điều đó, GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Thầy cô phải luôn là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin,   dễ nghe theo lời dạy bảo của thầy cô.  Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế  trường lớp  mình, khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề  ra những biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất   cứ giáo viên nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ.  Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hoàn cảnh sống của học sinh, nhất  là học sinh có hoàn cảnh đặc biệt.  Bên cạnh đó, liên hệ  chặt chẽ  với phụ  huynh, ban đại diện cha mẹ  học  sinh của trường, của lớp, vận động cha mẹ  học sinh có những hành động thiết  thực hỗ trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn.  Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ  lớp làm nòng cốt, là “cánh tay   phải” của mình. Muốn vậy cần phải có một sự  chọn lựa dựa trên cơ  sở  định  hướng của giáo viên và khả  năng tín nhiệm của học sinh. Để  giúp cho các em  hoạt động có hiệu quả, tích cực, chính xác, người giáo viên cần xây dựng kế  hoạch chủ nhiệm sát hợp với tình hình của lớp, thiết kế  hệ thống sổ sách theo   dõi phù hợp và thường xuyên kiểm tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp.  Ngoài ra, sự  liên hệ  chặt chẽ thường xuyên với các GVCN khác, với các  giáo viên bộ môn cũng góp phần quan trọng cho GVCN trong thực hiện công tác  của mình. Sống, học tập, lao động là những vấn đề  thiết yếu mà bản thân luôn cố  gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương  lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ Quốc,  là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi  dưỡng trẻ  em trở  thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng  quan trọng mà mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm. II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT * Đối với nhà trường:  ­ Thường xuyên tổ  chức hội thảo chuyên đề  về  công tác chủ  nhiệm lớp nhằm   không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên nói chung, GVCN nói 
  18. riêng giúp cho đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ  nhiệm lớp góp phần nâng  cao chất lượng giáo dục trong nhà trường ­ Hằng năm tổ  chức bình bầu danh hiệu GVCN lớp giỏi cấp trường một cách  công bằng, chính xác để tạo sự phấn đấu thi đua trong mỗi giáo viên. Động viên  khen thưởng kịp thời cho những GVCN làm tốt công tác của mình, khen thưởng   lớp đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện.       Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong công tác   chủ  nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp 1. Kính mong   nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến   được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao.         Tôi xin chân thành cảm ơn !        MỤC LỤC A PHẦN MỞ ĐẦU Tran g 1. Lý do chọn đề tài   1 2. Điểm mới 1 3. Phạm vi áp dụng 2 B PHẦN NỘI DUNG 2 I Thực trạng công tác chủ nhiệm lớp ở trường tiểu học 2 II Biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp ở trường tiểu học 6 1. Biện pháp 1: Giáo viên nâng cao nhận thức 6 2. Biện pháp 2: Tìm hiểu, nắm bắt đặc điểm tình hình lớp 6 3. Biện pháp 3: Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản lớp 6 4. Biện pháp 4: Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện 8 5. Biện pháp 5: Quan tâm, tạo mối quan hệ giữa GVCN với học   8 sinh 6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt các hoạt động tập thể và các trò chơi   10 vui tươi lành mạnh. III. Hiệu quả áp dụng của đề tài 13
  19. C PHẦN KẾT LUẬN I Ý nghĩa của đề tài 15 II Kiến ngh CỘịNG HÒA XàH  đề xuất ỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 16    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ­­­­­­­­­­  ­­­­­­­­ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ  CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP  Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC  Họ và tên: Phạm Thị Châu Chức vụ: Giáo viên chủ nhiệm lớp 1.1 Đơn vị: Trường TH số 2 Hồng Thủy Lệ Thủy, tháng 5 năm 2019
  20. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ­­­­­­­­­­  ­­­­­­­­ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC  CHỦ NHIỆM LỚP  Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC Họ và tên: Phạm Thị Châu Chức vụ:      Giáo viên Đơn vị: Trường TH Số 2 Hồng Thủy Lệ Thủy, tháng 5 năm 2019
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1