intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

63
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học có những nội dung như sau: Nghiên cứu nắm vững nội dung môn Toán 1. Giúp học sinh lớp Một ham thích học môn Toán. Kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán lớp 1. Kinh nghiệm dạy giải bài toán có lời văn lớp 1.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

  1. PHÒNG GIÁO GIỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA ===== *** ===== BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM         Tên sáng kiến Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1       Tác giả sáng kiến: Lê Thị Tân       Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hoàng Hoa.       Số điện thoại: 0985493261. Email: letantrang1971@gmail.com 1
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN       Tên sáng kiến: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 2
  3. 1. Lời giới thiệu Trong thời kì công nghiệp hoá đất nước ngành giáo dục luôn được  Đảng và nhà nước quan tâm hàng đầu “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” Vì   đây là động lực thúc đẩy nó góp phần làm cho nền kinh tế  đất nước phát  triển không ngừng về  mọi mặt. Đặc biệt những năm gần đây ngành giáo  dục luôn được đổi mới về  mục tiêu, nôi dung và phương pháp cũng như  hình thức tổ chức dạy học tich cực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.   Đặc biệt với học sinh lớp Một  ở lứa tuổi 6 đến 7 tuổi khả  năng chú ý có  chủ định còn yếu, khả năng kiểu soát điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai   đoạn này tính chú ý không chủ  định chiếm  ưu thế  hơn chú ý có chủ  định,  Sự  tập trung chú ý của trẻ  chưa có ý hức và thiếu bền tính vững, dễ  bị  phân tán bởi những âm thanh, sự  kiện khác ngoài nội dung học tập. Một  mặt tri giác của trẻ còn mang tính đại thể, không ổn định ít đi vào chi tiết,  tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan nhưng trí tưởng tượng của các  em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững dễ thay đổi. Đặc biệt ở lứa tuổi này  tư  duy của trẻ  phát triển từ  trực quan cụ  thể  đến trừu tượng hoá nên các  em thường quan tâm chú ý đến các môn học, giờ học có đồ  dùng trực quan  sinh động, nhiều tranh  ảnh với nhiều màu sắc hấp dẫn. các em rất ham  chơi, thích làm việc theo ý mình, nhưng thích bắt chước người khác đặc  biệt là giáo viên, trẻ coi thầy giáo, cô giáo là thần tượng thích làm theo thầy  cô giáo. Như vậy trong quá trình giảng dạy chúng ta cần giúp học sinh phát  triển tư  duy và trí tưởng tượng bằng cách biến các kiến thức khô khan  thành những hình  ảnh có cảm xúc, bằng những câu hỏi mang tính gợi mở  3
  4. gần gũi với các em, thu hút các em tích cực hoạt động trong giờ  học tiếp  thu bài tốt giúp các em phát triển toàn diện. Đây cũng là điều mà đội ngũ  giáo viên chúng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi, trau dồi học hỏi và sàng   lọc lựa chọn những phương pháp, những hình thức dạy học phù hợp, nhằm   nâng cao chất lượng giảng dạy. Ở  bậc Tiểu học, lớp Một là một lớp hết sức quan trọng. Nó là  nền tảng vững chắc trang bị  cho các em những kiến thức, kỹ  năng cần   thiết giúp các em tiếp tục học các lớp kế  tiếp và là cầu nối tiếp tục học   bậc trung học cơ sở. Bước đầu hình thành cho các em kĩ năng tự  phục vụ  mọi họat động trong cuộc sống hàng ngày.  Trong đó, môn Toán đóng vai trò quan trọng bởi nó cung cấp cho  học sinh những kiến thức cơ bản, đơn giản nhất về số, những phép tính,  đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó môn Toán còn  góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ,  trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em óc tò mò ham tìm hiểu khám phá và  hình thành nhân cách cho các em giúp các em phát triển toàn diện. Thực tế  giảng dạy nhiều năm  ở  tiểu học tôi thấy kỹ  năng tính  nhẩm, làm các phép tính với số tự nhiên như làm tính cộng, trừ số có nhiều  chữ số và phép chia đối với số có 2 hoăc 3 chữ số. Đặc biệt dạng toán giải   bài toán có lời văn các em ngại làm, làm rất chậm, làm đại cho xong, đặt  lời giải sai, viết   phép tính sáo trộn, viết đơn vị  đi kèm sai, nhầm lẫn từ  dạng này sang dạng kia. Trình bày bài làm chưa khoa học, chưa lo gíc theo  trình tự dẫn đến kết quả học tập chưa cao.           Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên là do ngay từ  lớp Một   các em chưa hình thành được kĩ năng tìm hiểu đề  toán và cách giải loại   toán này. Vì  ở  lứa tuổi học sinh lớp Một các em rất hồn nhiên ngây thơ,   ham chơi, chưa biết chữ, bởi vậy vốn kiến thức ngôn ngữ, nói, viết còn  hạn chế. Chính vì thế nên đôi khi các em ghi được phép tính nhưng không  4
  5. nêu được câu lời giải. Mặt khác các em chưa quen nề  nếp học tập. chưa   biết xác định đúng về nhiệm vụ và tầm quan trọng của việc học tập, chưa   có hứng thú học tập cao dẫn đến chưa xác định được các dạng toán giải có  liên quan đến lời văn.  Qua thực tiễn năm học 2018 – 2019 tôi trực tiếp được giảng dạy   lớp Một và tôi thấy phần giải bài toán có lời văn là mạch kiến thức mà giáo   viên gặp nhiều khó khăn, vất vả  nhất trong 4 mạch kiến thức của môn  Toán lớp 1. Do đó tôi luôn tham khảo kỹ  sách hướng dẫn, sách giáo khoa,  sách tham khảo, cũng như  các tài liệu khác có liên quan đến việc giảng   dạy, thường xuyên học hỏi đồng nghiệp trau dồi kinh nghiệm, tìm tòi và rút  ra một vài kinh nghiệm về  cách  hướng hẫn giải toán có lời văn cho học   sinh lớp 1. để  giúp các em tiếp thu bài tại lớp, nắm kiến thức môn Toán  một cách vững chắc, có hệ  thống, có kỹ  năng tính toán và giải toán có lời  văn nhanh và chính xác đạt hiệu quả  cao. Góp phần nâng cao chất lượng   giáo dục phù hợp với nhà trường và địa phương. 2. Tên sáng kiến: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Lê Thị Tân ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Hoàng Hoa ­ xã Hoàng Hoa ­ Số điện thoại: 098549326. Email: letantrang1971@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Tân ­ Giáo viên Trường Tiểu học   Hoàng Hoa. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: “Nghiên cứu các giải phap giup hoc sinh ́ ́ ̣   ̀ ́ ̣ ̀ ̣ lam tôt dang bai tâp "Giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 1”  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng  01/01/2019. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 5
  6. 7.1. Về nội dung sáng kiến Giải pháp 1: Nghiên cứu nắm vững nội dung môn Toán 1. Toàn bộ chương trình gồm 140 tiết , 4tiết / tuần (134 bài và 6 tiết  kiểm tra) được sắp xếp theo 4 chương.   Chương I: Các số đến 10. Hình vuông, hình tam giác, hình tròn. Gồm 24  bài (trong đó có 9 bài luyện tập)  Chương II: Phép cộng, phép trừ  trong phạm vi 10.Gồm 41 bài ( trong đó  có 22 bài luyện tập). Chương III: Các số  trong phạm vi 100. Đo độ  dài. Giải bài toán.Gồm 43  bài (trong đó có 18 bài luyện tập ). Chương IV: Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 100.Đo thời gian. Gồm   26 bài (trong đó có 11 bài luyện tập và 5 bài ôn tập cuối năm). Chương này được sắp xếp những tiết luyện tập xen kẽ với những   bài ôn tập kiến thức các em đã học. Đây cũng là điều kiện thuận lợi giúp  giáo viên củng cố hệ thống hóa lại những kiến thực cho các  em theo từng   bài, từng chương một cách vững chắc. Giải pháp 2:  Giúp học sinh lớp Một ham thích học môn Toán Chúng ta đều biết khi làm việc gì thì phải có hứng thú, có niềm đam  mê thì mới đạt kết quả  khả  quan. Căn cứ  vào tình hình thực tế  của lớp,   ngay từ  đầu năm tôi thấy đa số  học sinh năm nay các em nhút nhát, chậm  chạp, lười học nên tôi phải thể hiện cả 3 vai trò thân thiện đối với các em  “Vừa là cô giáo, vừa là người mẹ hiền, vừa là người bạn thân của các em,   luôn gần gũi trò chuyện tâm sự với các em, giúp các em mạnh dạn và tự tin  trong học tập theo khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, thực  hiện tốt cuộc vận động “ xây dựng trường học thân thiện ­ Học sinh tích   cực học tập”, kết hợp theo sát nắm vững hoàn cảnh và trình độ tiếp thu bài  của từng em. Từ đó tôi đã sắp xếp vị  trí chỗ  ngồi cho các em theo hướng  6
  7. khá kèm yếu phân đôi bạn cùng tiến để  các em dò bài và tự  kiểm tra cho   nhau về việc học bài và chuẩn bị bài ở nhà. Đặc biệt trong mỗi tiết dạy tôi  luôn cho các em nghỉ  giải lao 5 phút giữa tiết và tổ  chức các trò chơi kết  hợp vài động tác đơn giản, tạo không khí vui nhộn để giảm sự căng thẳng   mệt mỏi và gây hứng thú học tập cho các em. Tôi luôn tổ  chức sinh hoạt chủ  nhiệm vào cuối tuần cho các em tự  nhận xét những  ưu điểm, khuyết điểm của mình trong học tập, để  động   viên khen ngợi kịp thời những em học tập có tiến bộ  trong tuần, đưa ra  những biện pháp khắc phục nề nếp học tập nâng dần từ  dễ đến khó, dần   dần uốn nắn các em vào nề  nếp học tập, đồng thời lồng ghép kể  chuyện  nêu gương điển hình về  học tập như: vượt khó học tập, con ngoan, trò  giỏi…cho các em nghe từ đó xây dựng cho các em thái độ học tập tốt.  Xây dựng cho các em nề nếp học tập hình thành thói quen thi đua giữ  trật tự trong giờ học và thường xuyên chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng học tập   như: bút chì, thước kẻ, bút màu, bộ  đồ  dùng học toán,… thực hiện khẩu   hiệu “ Vào lớp thuộc bài” “Ra lớp hiểu  bài” thi đua học tập. Hằng ngày  ngày tôi thường kiểm tra sự chuẩn bị bài của các em bằng nhiều hình thức.  Theo tổ, theo nhóm, cá nhân kết hợp tuuyên dương, động viên kịp thời để  các em có hứng thú trong các tiết học.            Giải pháp 3: Kinh nghiệm về  việc sử  dụng đồ  dùng dạy học  môn Toán lớp1 a) Sử dụng tranh ảnh minh hoạ SGK Toán 1 Tất cả  chúng ta đã biết tư  duy của học sinh tiểu học luôn từ  trực   quan cụ  thể  đến trìu tượng hoá, “ Trăm nghe không bằng một thấy, trăm   thấy không bằng một sờ”. Đặc biệt là học sinh lớp Một  các em rất thích  được quan sát tranh các đồ dùng minh hoạ cụ thể trong tiết dạy thì các em   dễ  tiếp thu bài, nhớ  lâu mà không nhàm chán tạo không khí lớp học thoải  mái không mang tính áp đặt. Như vậy người giáo viên phải luôn nghiên cứu  7
  8. bài đầu tư làm và sưu tầm đồ dùng dạy học để phục vụ trong mỗi tiết dạy.   Nhưng cũng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật làm và sử dụng đồ  dùng dạy học và biết khai thác triệt để  tác dụng của đồ  dùng và tiết dạy  đạt hiệu quả cao.               Ví dụ 1: Dạy bài  Phép trừ trong phạm vi 7 Bài tập 4: Viết phép tính thích hợp:   (SGK Toán 1 ­ trang 69). Tranh minh hoạ 1 (SGK) 8
  9. Tranh minh hoạ 2 (SGK) + Bạn có tất cả  bao nhiêu bóng bay? Giáo viên vừa hỏi vừa dùng  thước chỉ vào tất cả những quả bóng bay trong tranh.           + Bị đứt dây bay đi mấy quả? Giáo viên vừa hỏi vừa dùng thước chỉ  vào những quả bóng bay bị đứt dây. +   Còn   lại   mấy   quả?   Giáo   viên   vừa   hỏi   vừa   dùng   thước   chỉ   vào   những quả bóng bay còn lại.  ­ Sau đó giáo viên cho một số  em nhắc lại bài ­ cả  lớp nhắc lại bài  toán.     Với cách hướng dẫn rõ ràng tỉ  mỉ  và cụ  thể  từng chi tiết thể  hiện ở hình vẽ nêu trên sẽ giúp các em hình dung ngay được phép tính cần   viết vào ô trống là phép trừ, các em không bị nhầm lẫn với phép cộng. b) Sử dụng hình ảnh minh hoạ Toán 1 trình chiếu trên bài giảng   điện tử Trong những năm gần đây tôi thấy việc đổi mới phương pháp dạy  học nói chung, còn yêu cầu làm và sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên   trong mỗi tiết dạy. Đây là một yêu cầu vô cùng quan trọng và cần thiết  ở  bậc tiểu học. Đặc biệt môn Toán lớp Một yêu cầu sử  dụng đồ  dùng dạy   học 100% trong các tiết dạy bài mới. Qua thực tiễn dạy học rõ ràng việc sử  dụng hợp lí các đồ dùng dạy học như: que tính, các bông hoa, các hình học   (chữ nhật, vuông, tròn, tam giác), các con vật để gài trên bảng phụ,…Ngày   nay chúng ta còn  ứng dụng CNTT vào giảng dạy, sử  dụng hình  ảnh động   rất phong phú đa dạng nhiều màu sắc trên màn hình trong bài giảng điện tử  nhằm giúp học sinh hình thành bài mới một cách dễ  dàng và nhớ  lâu hơn.  Đây là một yếu tố  có tác dụng thiết thực. Thế  nhưng sử  dụng những đồ  dùng dạy học này như thế nào cho hợp lí để khai thác triệt để hiệu quả của  9
  10. đồ dùng dạy học đạt hiệu quả tiết dạy tối ưu thì còn phụ thuộc vào người  giáo viên khi sử dụng.  Ví dụ 2: Dạy bài: Giải bài Toán có lời văn  GV thể  hiện trên màn hình cho HS đọc nội dung bài toán   quan sát  hình  ảnh minh hoạ, nêu tóm tắt   kết hợp với phương pháp hỏi đáp, thực  hành để  hình thành kiến thức mới, HS sẽ  thấy lôi cuốn với những con gà   được phóng to trên bảng, các em sẽ dễ dàng đếm được số gà cần tìm. t: Bµi to¸ n: Nhµ An cã 5 con gµ, mÑ mua thª m 4 con gµ. Há i nhµ An cã tÊt c¶ mÊy con gµ? Hình ảnh 1 : Màn hình xuất hiện nội dung bài toán.         Bµi to¸ n: Nhµ An cã 5 con gµ, mÑ mua thª m 4 con gµ. Há i nhµ An cã tÊt c¶ mÊy con gµ? Hình ảnh 2: màn hình xuất hiện thêm 5 con gà bên trái và 4 con gà bên phải. 10
  11. Bµi to¸ n: Nhµ An cã 5 con gµ, mÑ mua thª m 4 con gµ. Hái nhµ An cã tÊt c¶ mÊy con gµ? Tã m t¾t: Cã : 5 con gµ Thª m : 4 con gµ Cã tÊt c¶ : ... con gµ? Hình ảnh 3 : Màn hình xuất hiện thêm phần tóm tắt của bài toán. Bµi to¸ n: Nhµ An cã 5 con gµ, mÑ mua thª m 4 con gµ. Hái nhµ An cã tÊt c¶ mÊy con gµ? Tãm t¾t: Cã : 5 con gµ Thª m : 4 con gµ Cã tÊt c¶ ... con gµ? Bµi gi¶i: Nhµ An cã tÊt c¶ lµ: 5 + 4 = 9 (con) § ¸ p sè: 9 con gµ Hình 4: Màn hình xuất hiện thêm phần bài giải sau khi HS đã thực hiện  xong   phép tính.        GV thể hiện trên màn hình cho HS đọc nội dung bài toán  quan sát hình   ảnh minh hoạ, nêu tóm tắt  kết hợp với phương pháp hỏi đáp, thực hành để  hình thành kiến thức mới, HS sẽ  thấy lôi cuốn với những con gà được  phóng to trên bảng, các em sẽ dễ dàng đếm được số gà cần tìm. Như  vậy thông thường, GV phải viết bài tập lên bảng (khoảng 5  phút), hoặc đính bài tập đã viết sẵn ở bảng phụ (khoảng 3 phút), nhưng sử  dụng bài giảng điện tử, chỉ  cần một thao tác nhỏ  là Enter hoặc Click vào   chuột máy vi tính thì nội dung bài tập sẽ xuất hiện trên màn hình và HS sẽ  nắm bắt được nội dung bài tập cần làm. GV có thể lựa chọn hình thức dạy   11
  12. học cho phù hợp (nhóm, cá nhân, trò chơi, bảng con, thi đua,…) cho phù  hợp với tình hình của từng lớp. Sau đó GV cho kiểm tra và đối chiếu lại   kết quả của HS làm được bằng cách đưa lên kết quả lên màn hình  để HS   có thể sửa sai,… Như   vậy  quá   trình   nhận   thức   của   HS   lớp   1   rất   cần   đến   những  phương tiện trực quan sinh động, mà sử  dụng các phương tiện trực quan   để  dạy học một cách thông thường thì sẽ tốn rất nhiều thời gian, công sức  vì vậy thông qua CNTT để  dạy toán cho HS lớp 1 là hết sức cần thiết.  Tóm lại việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn toán lớp 1 đóng vai  vô cùng quan trọng giúp học sinh giáo viên truyền thụ  bài giảng một cách  logíc khoa học tạo không khí lớp học nhẹ nhàng, giúp học sinh nắm được  kiến thức toán học một cách chắc chắn và rèn kĩ năng giải toán có lời văn   thành thạo, nhanh kết quả chính xác. Đây là một việc hết sức cần thiết mà   GV lớp 1 cần thực ngay từ đầu năm học. Do đó khi giáo viên sử  dụng đồ  dùng và phương tiện dạy học còn phụ  thuộc vào mục tiêu từng bài dạy,   từng hoạt động trong bài dạy, tình hình thực tế  của lớp mình mà thiết kế  bài giảng cho phù hợp có thể  sử  dụng tranh vẽ  để  minh hoạ, có thể  sử  dụng tranh  ảnh trên màn hình thông qua trình chiếu trên bài giảng điện tử  mà còn đòi hỏi nghệ thuật của giáo viên trong giảng dạy cũng như  khi sử  dụng dồ dùng dạy học phải mang tính khoa học, lời nói ngắn gọn dễ hiểu,   cần mềm dẻo không cứng ngắc rập khuân, thì tiết dạy mới mang lại hiệu   quả cao.  Lưu ý: Khi hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ  giáo viên nên chỉ   cụ  thể  bên trái, bên phải, bên trên hay bên dưới hoặc dấu hiệu thể  hiện   trên hình vẽ ( người; con vật) đang đứng hay đang đi đến, đang đậu, đang   bay đi hay bay đến,…để các em không nhầm lẫn khi viết phép tính) Giải pháp 4:  Kinh nghiệm dạy giải bài toán có lời văn lớp 1 12
  13.          Trong thực tế giảng dạy môn Toán ở lớp Một, tôi thấy giải bài toán  có lời văn là một dạng mới so với trước đây, dạng toán này các em được   học ở tuần 22 trong học kì II. Khi dạy các em đặt lời giải trình bày bài toán   còn vất vả hơn dạy trẻ lựa chọn các phép tính và làm các phép tính ấy để  tìm ra đáp số, bắt buộc lời giải phải có quan hệ  chặt chẽ  lo gíc với phép  tính thể  hiện được điều cần tìm. Đối với học sinh lớp Một đa số  các em   đọc rất chậm còn phải đánh vần nên khi các em đọc bài toán không nhớ  được nghĩa của cụm từ  vừa đọc dẫn đến chưa hiểu rõ ý đồ  của bài toán  nên không nhận biết những cái đã cho (dữ  kiện) và cái phải tìm (Câu hỏi)  các em hay lầm tưởng lẫn lộn giữa cái đã cho và cái phải tìm nên các em  đặt lời giải chưa chính xác, viết phép tính cộng thành trừ, trừ  thành cộng  dẫn đến kết quả  sai và không biết trình bày bài toán. Vì thế  tôi đã nghiên  cứu kĩ Sách giáo khoa và và nhận thấy mặc dù đến tuần 22 học sinh mới   được chính thức học cách giải “ Bài toán có lời văn” song chúng ta đã có ý  ngầm chuẩn bị từ xa ở học kỳ I ngay từ bài “ Phép cộng trong phạm vi 3” ở  tuần 7 đến tuần 16 hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ  trong phạm  vi   (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “ Nhìn tranh viết phép tính  vào dãy 5 ô trống”.  a) Dạng bài điền khuyết: Quan sát hình vẽ  rồi viết phép tính thích  hợp vào ô trống. Ví dụ: Dạy bài : Luyện tập trang 45          Bài 5 a):  SGK (trang 46 Toán 1) 13
  14. Hình minh hoạ SGK          Sau khi quan sát tranh vẽ giáo viên hướng dẫn học sinh tập nêu bằng  lời:  “Có 1 quả  bóng trắng và 2 quả  bóng xanh. Hỏi có tất cả  mấy quả   bóng”, rồi tập cho các em nêu miệng câu trả  lời: “Có tất cả 3 quả bóng”.  Như vậy các em đã được làm quen với bài toán ở dạng quan sát hình minh   hoạ  rồi viết phép tính thích hợp vào ô trống. Dạng bài này là bước khởi  đầu của dạng bài toán có lời văn các em sẽ  được học  ở  tuần 21 nên tôi  hướng dẫn các em quan sát hình vẽ minh hoạ rất kĩ và nêu câu hỏi gợi mở  giúp các em miệng 3 ­ 5 lần để hình thành bài toán, từ đó đã bồi dưỡng cho  các em vốn ngôn ngữ. Bước đầu giúp các em biết diễn đạt bài toán bằng   lời văn. Sau đó viết phép tính vào ô trống: 1 + 2 = 3 ­  Ở  dạng này Giáo viên cần hướng dẫn các em thực hiện theo các  bước cụ thể: Xem tranh vẽ ­ Nêu bài toán bằng lời – Nêu câu trả  lời – Và   viết phép tính thích hợp với tình huống trong tranh. b) Dạng bài: Đọc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời   Từ tuần 7 các em được làm dạng bài điền khuyết quan sát tranh viết   phép tính vào ô trống thì giáo viên đã hướng dẫn cho các em nêu bài toán   bằng lời văn rồi mới viết phép tính vào ô trống.  Ở  dạng bài này yêu cầu  cao hơn, không có tranh minh hoạ  mà phải đọc tóm tắt rồi viết phép tính  thích hợp vào ô trống.  Ví dụ: Dạy bài Luyện tập chung (SGK trang 89) Bài 5: Viết  phép  tính  thích  hợp a)      Có                 :  5  quả                       b)     Có              :   7 viên bi          Thêm            :  3  quả                                Bớt             :  3 viên bi          Có tất cả       : … quả                                Còn            : … viên bi           14
  15.                  Dựa vào tóm tắt bài toán thì rất khô khan khó hiểu, các em không thể  tưởng tượng được bài toán nên giáo viên phải đặt câu hỏi gợi mở  cho các   em. Giáo viên có thể liên hệ thực tế:  có thể đây là mẹ có, hoặc bà có, hay   chị có;…; còn quả ở đây có thể là quả cam, hay táo, hay lê,… qua đó hướng  dẫn các em nêu thành bài toán như sau:    Mẹ có 5 quả cam, mẹ mua thêm 3 quả nữa. Hỏi có tất cả  mấy quả  cam?   Hoặc   Bà có 5 quả táo, bà mua thêm 3 quả nữa. Hỏi bà có tất cả  mấy quả  táo?    Ở  dạng này giáo viên phải hướng các em dựa vào tóm tắt nêu đề  toán sau đó mới viết phép tính thích hợp vào ô trống theo từng bước cụ thể  sau: Bước 1: Yêu cầu vài em nêu tóm tắt bài toán.  Bước 2: Hướng dẫn học sinh nêu đề toán. Bước 3: Hướng dẫn các em nêu phép tính thích hợp Bước 4: Hướng dẫn học sinh viết phép tính vào ô trống. Qua đó các em đã được làm quen dần và cũng là cầu nối với dạng bài  toán có lời văn  ở  tuần 21. Có bài được cài sẵn “cốt câu” hỏi, lời giải vào   tóm tắt để các em có thể dựa vào đó mà viết câu lời giải.  Ví dụ: Dạy bài: Bài toán có lời văn (trang 115) gồm 4 bài toán có yêu cầu  khác nhau. c)  Dạng bài toán còn thiếu số  và câu hỏi   (cái đã cho, cái phải   tìm)   * Bài toán còn thiếu số (Cái đã cho) 15
  16.   Bài 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.     Bài toán 1: Có …bạn, có thêm… bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu  bạn?     Bài toán 2: Có … con, có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả  bao nhiêu con thỏ?  * Bài toán còn thiếu câu hỏi (cái cần tìm) Bài 3:  Viết tiếp câu hỏi để có bài toán. Bài toán 3: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi ……………………………........?   * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi (cái đã cho và cái cần tìm) Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay đến. Hỏi  ……………………………………………............................................?    ­ Dạy dạng toán này giáo viên phải xác định làm thế nào giúp các em điền   đủ  được các dữ  kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và   bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu  là cái đã cho và đâu là cái cần tìm.          Để đạt được yêu cầu này trước hết GV nêu yêu cầu bài toán, cho vài  ba học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán. Sau đó giáo viên hướng dẫn các em  quan sát hình vẽ minh hoạ (SGK)                                    Bước 1:  GV đặt câu hỏi ­ HS trả lời và điền số  còn thiếu vào chỗ  chấm   để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số  còn thiếu vào bài  toán mẫu trên bảng lớp. + Có mấy bạn ở bên trái ?  (HS trả lời, nhận xét).                 +  Có mấy bạn ở bên phải đang đi tới ? (HS trả lời, nhận xét).                 ­ Cho vài em nhắc lại. ­ Cho HS viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.                 ­ Cho các em đọc lại bài toán. (đọc cá nhân, đồng thanh). 16
  17. Bước 2:  Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và  yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất  cả) của bài toán.    Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác   định bài 1&2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã   cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời   văn phải có đủ dữ kiện. Với cách hướng dẫn cụ thể tỉ mỉ logíc khoa học từ  dễ đến khó như  trên giúp các em hiểu và   nắm được bài toán lời văn đầy đủ  phải có dữ  kiện (cái đã cho biết và cái cần phải đi tìm). Đây cũng là bước HS hiểu bài  toán có lời văn giúp các em giải tốt bài toán có lời văn. Ví dụ: Dạy bài: Giải bài toán có lời văn Bài toán: Nhà An có 7 con thỏ, mẹ mua thêm 2 con thỏ. Hỏi nhà An có tất   cả mấy con thỏ? ­ Sau khi học sinh quan sát tranh minh hoạ  (SGK) rồi đọc bài toán,  cần giúp học sinh xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm. Giáo viên đặt câu  hỏi để tìm dữ kiện bài toán:                + Bài toán cho biết gì?  (Nhà An có 7 con thỏ)                 + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Mẹ mua thêm 2 con thỏ)                 + Bài toán yêu cầu tìm gì? (Nhà An có tất cả mấy con thỏ)  (Học sinh trả lời giáo viên dùng phấn màu gạch chân dữ kiện bài toán) ­ Sau khi đã tìm được dữ kiện bài toán giáo viên có thể hướng dẫn các em   viết câu lời giải theo 4 cách sau:  Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi)và cuối (mấy  con gà?) để có câu lời giải: “Nhà An có tất cả:” hoặc thêm từ   là để có câu  lời giải: “ Nhà An có tất cả là:” 17
  18. Cách 2: Đưa từ “con thỏ” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và  thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có “ Số con thỏ nhà An có tất cả  là:” Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từ  khoá” của  câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. Vídụ: Từ  dòng cuối của tóm tắt “Có tất  cả…con thỏ?”. Học sinh viết câu lời giải: “Nhà An có tất cả:”. Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi nhà An có tất cả mấy con thỏ?”   để học sinh trả lời miệng: “Nhà An có tất cả 9 con thỏ” rồi chèn phép tính  vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):                                          Nhà An có tất cả là:                                            7 + 2 = 9 (con thỏ) Sau khi học sinh tính xong: 7 + 2 = 9 (con thỏ). Giáo viên chỉ vào 9 rồi   hỏi: “ 9 con thỏ  ở đây là của nhà ai? ” (là số thỏ nhà An có tất cả). Từ câu  trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số thỏ nhà  An có tất cả là”…Qua ví dụ trên ta thấy có nhiều cách hướng dẫn giúp các   em viết câu lời giải, tuỳ vào trình độ tiếp thu bài của học sinh giáo viên lựa   chọn cách hướng dẫn phù hợp nhất không nên bắt buộc nhất thiết phải  theo một kiểu. Sau khi học sinh đã nêu được câu lời giải tiếp tục hướng   dẫn các em viết phép tính như sau:  ­ Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà ta làm  tính gì? (tính cộng); Mấy cộng với mấy? (7 + 2), 7cộng 2 bằng m ấy? (7+2   = 9); hoặc “Muốn biết nhà An có tất cả  mấy con thỏ  em tính thế  nào?  (7+2= 9); Hoặc “ Nhà An có tất cả  mấy con thỏ? (7+2= 9). Tới đây giáo   viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “ 9 này là 9 con thỏ" nên ta viết “con thỏ”  vào dấu ngoặc đơn sau phép tính: 7 + 2 = 9 (con thỏ).  Để  bài toán đầy đủ  các bước giáo viên hướng dẫn các em viết đáp   số. 18
  19.       ­ Đây là tiết đầu tiên các em thực hiện làm toán có lời văn nên các em   không biết trình bày bài toán và sợ  sai.Vì vậy giáo viên rất vất vả  phải  hướng dẫn thật tỉ mỉ  từng bước của bài toán sau đó hướng dẫn cách trình   bày vào vở. Giáo viên vừa hướng dẫn vửa trình bày bài toán mẫu (không  viết kết quả) trên bảng khoảng 1 tuần  để các em viết vào vở ô li cho quen   dần. Như vậy sau này các em mới có kĩ năng trình bày bài toán có lời văn.    Chẳng hạn:                                     Bài giải                                  Nhà An có tất cả là:                                          5 + 4 = …… ( con gà)                                                   Đáp số : ….. con gà                         Với cách hướng dẫn tỉ mỉ và lo gíc như trên tôi thấy các em tiếp thu  bài rất nhanh và nhớ  lâu qua việc cho các em nhắc lại bài toán nhiều lần   sau khi đã điền đủ  các dữ  kiện  hoặc viết câu hỏi, giúp các em hiểu được   bài toán có lời văn là phải có đủ  cái đã cho và cái phải đi tìm (dữ kiện và  yêu cầu bài toán). Khi giáo viên gợi ý để  các em xác định và viết được câu  hỏi bài toán thì các em sẽ dễ dàng đặt lời giải bài toán một cách chính xác.   Do đó đối với những bài toán đã có đầy đủ  dữ  kiện và yêu cầu tôi luôn   khuyến khích các em đọc kĩ bài toán sau đó đặt câu hỏi gợi ý để các em tìm  và dùng bút chì gạch chân cái đã cho và cái phải tìm, tóm tắt bài toán và xác  định đúng đơn vị đi kèm rồi suy nghĩ tìm cách đặt lời giải và giải. Tôi luôn   khuyến khích các em đặt lời giải khác nhau phong phú và đa dạng nhưng  nội dung chính xác phù hợp với bài toán. Ví dụ:  Dạy bài Phép cộng trong phạm vi 100 (cộng không nhớ) Bài toán 3: Lớp 1A trồng được 35 cây, lớp 2A trồng được 50 cây. Hỏi hai  lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ? (SGK trang 155) ­ Cho 3 em đọc bài toán, lớp đọc thầm và gạch chân cái đã cho và cái cần   tìm. ­ Hướng dẫn HS tóm tắt bài toán. Có 2 cách tóm tắt sau 19
  20. * Cách 1  (Tóm tắt bằng  lời văn)                                                               Lớp 1A :   35 cây                                                   Lớp 2 A :  50 cây                             Cả hai lớp ….cây ? * Cách 2 (Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng) 35 cây Lớp 1A ? cây 50 cây   Lớp 2 A:                             Hoặc               35 cây                                             50 cây ? cây Sau khi các em đã tóm tắt xong, Gv đặt câu hỏi gợi ý để  các em đặt  lời giải và giải theo hướng sau:                                          Bài giải                                  Cả hai lớp trồng:                                                                              35 + 50  = 85 (cây)                                            Đáp số: 85 cây Hoặc gợi ý để các em có thể đặt lời giải nhiều kiểu như sau: ­ Hai lớp trồng là:                                         35 + 50  = 85 (cây) ­ Lớp 1A và lớp 2A trồng:                           35 + 50  = 85 (cây)  ­ Tất cả trồng là :                                           35 + 50  = 85 (cây) ­ Số cây hai lớp trồng:                                   35 + 50  = 85 (cây) ­ Số cây tất cả trồng là:                                  35 + 50  = 85 (cây)  ­ Số cây Lớp 1A và lớp 2A trồng trồng :     35 + 50  = 85 (cây) ­ Số cây trồng tất cả là :                                  35 + 50  = 85 (cây) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2