NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA NHẬT BẢN<br />
Văn hoá Nhật Bản ngày nay là kết tinh thành quả lao động hàng ngàn năm của những cư dân<br />
trên quần đảo Nhật Bản, là sự kết hợp sáng tạo những giá trị văn hoá bản địa và các giá trị<br />
văn hoá nước ngoài, cũng do vậy, là nơi hội tụ của văn hoá phương Đông và phương Tây.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trước khi có tiếp xúc văn hoá đầu tiên với Trung Quốc trên quần đảo này đã tồn tại những<br />
cộng đồng người với những đặc trưng sinh hoạt văn hoá riêng. Những giá trị tinh thần thể<br />
hiện nhân sinh quan và thế giới quan độc đáo của những cư dân cổ xưa trên quần đảo này<br />
còn lưu lại khá rõ nét trong các vật phẩm chế tác, các truyền thuyết, nhất là trong những tín<br />
ngưỡng đa thần mà sau này được gọi chung là Thần đạo.<br />
Sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là chữ Hán, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo<br />
bắt đầu vào thế kỷ thứ IV sau công nguyên đã làm thay đổi to lớn diện mạo văn hoá Nhật<br />
Bản từ lối sống trong triều đình Thiên hoàng đến sinh hoạt ngoài dân chúng. Cùng với thời<br />
gian các giá trị văn hoá này đã dần dần biến đổi, kết hợp với các giá trị văn hoá bản địa, nhất<br />
là với Thần đạo để tồn tại, phát triển và tạo nên những nét đặc trưng riêng của văn hoá Nhật<br />
Bản.<br />
Khoảng giữa thế kỷ XVI đã xuất hiện những người phương Tây đầu tiên đến Nhật Bản đem<br />
theo sự ảnh hưởng của những tri thức khoa học phương Tây và Kitô giáo. Tuy nhiên phải<br />
đến cuộc cải cách Minh Trị (1868) thì tiếp xúc của Nhật Bản với văn hoá phương Tây mới<br />
trở nên đậm nét. Với đường lối mở cửa đất nước để học hỏi phương Tây, chỉ trong vài thập<br />
kỷ sau đó Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh với cơ sở kinh tế, thể chế chính trị<br />
và mô hình xã hội, văn hoá hiện đại- điều mà phương Tây đã phải mất hàng thế kỷ mới có<br />
được.<br />
Sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II, mặc dù là một nước bại trận với nền kinh tế kiệt<br />
quệ song nhờ tinh thần quyết tâm cao độ Nhật Bản đã tạo nên một kỳ tích trong phục hồi<br />
kinh tế. Đến giữa những năm 1960 Nhật Bản đã có đủ sức mạnh để cạnh tranh trên trường<br />
quốc tế. Theo đó, nền văn hoá hiện đại cũng nhanh chóng phát triển ngày một đa dạng trên<br />
cơ sở phát huy những giá trị truyền thống và tiếp thu những thành quả tiến bộ của văn hoá<br />
nước ngoài.<br />
Tuy là một nền văn hoá phát triển mang tính hỗn dung, song việc tiếp thu các thành quả văn<br />
hoá nước ngoài của Nhật Bản không phải là việc vay mượn, sao chép cứng nhắc, mà luôn<br />
luôn là quá trình tiếp thu có cải biến. Tư tưởng, tín ngưỡng, lối sống nước ngoài một khi<br />
được du nhập vào Nhật Bản đều buộc phải biến đổi để phù hợp với hệ giá trị văn hoá bản địa<br />
và tồn tại như là cái có tính độc đáo Nhật Bản. Chính nhờ vậy mà ngày nay Nhật Bản không<br />
chỉ là một cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế mà còn là đất nước có nền văn hoá phát<br />
triển đa dạng và giàu bản sắc<br />
Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hóa của cả phương Bắc lẫn<br />
phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn ngữ Altai<br />
của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam.<br />
Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn có nguồn<br />
gốc ở phía Nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường<br />
xuống hạ giới thì có nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất<br />
xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một<br />
quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.<br />
4. Đời sống văn hóa<br />
Sự kết hợp của nghệ thuật in khắc gỗ truyền thống với văn hóa phương Tây đã dẫn đến sự ra<br />
đời của Manga, một thể loại truyện tranh nổi tiếng cả trong và ngoài nước Nhật. Sự ảnh<br />
hưởng của Manga đến thể loại hoạt hình đã dẫn đến sự phát triển thể loại hoạt hình đặc trưng<br />
của Nhật có tên gọi là Anime, nhờ sự phát triển vũ bão của Manga và Anime mà các trò chơi<br />
game video của Nhật cũng phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1980.<br />
- Hội họa<br />
Từ lâu, tranh Nhật Bản vẫn được công nhận là có khả năng gợi vẻ đẹp thiên nhiên rất tinh tế,<br />
hoặc những bức tranh đạo thì cách thể hiện rất dễ cảm xúc lòng người. Khách sành điệu tại<br />
các phòng tranh thấy ngay những nét đặc trưng ấy và rất hâm mộ. Hoàn cảnh sáng tác tranh<br />
lại thường khó tìm được. Trong khi đó, nếu biết chúng, ta có thể phân biệt được sắc thái của<br />
những bức tranh chưa rõ xuất xứ.<br />
Tranh Nhật xuất hiện đầu tiên dưới sự bảo trợ của các tông phái Phật giáo và giới quý tộc<br />
triều đình. Sau đó, các vị tướng quân lãnh đạo và giới thương nhân là những nhà bảo trợ rất<br />
ham chuộng tranh. Họa sĩ đa số là chuyên nghiệp, dù Phật giáo có khuyến khích vẽ tranh làm<br />
phương tiện định tâm. Đặc biệt thời kỳ Edo (1615-1868), một số dân trí thức Nhật Bản bắt<br />
chước giới Nho gia Trung Hoa vẽ tranh, xem đó là một trong những sinh hoạt không thể<br />
thiếu của tầng lớp thượng lưu văn hóa cao.<br />
Phật giáo là yếu tố xúc tác sớm nhất, quan trọng nhất đối với sự phát triển ngành họa Nhật<br />
Bản. Bắt đầu từ thế kỷ VII, và nhiều thế kỷ sau, khi thăng khi trầm, một số lớn kiểu tranh<br />
Phật giáo đã thịnh hành ở lục địa Á châu được người Nhật hấp thu và đồng hóa. Phật giáo<br />
khi du nhập vào đất Nhật phân chia thành nhiều tông phái. Mỗi tông phái đề cao một số khía<br />
cạnh nào đó trong hệ thống giáo lý tổng quát. Cho nên sự khác biệt về quan điểm và pháp<br />
môn tu tập khiến nội dung và chức năng của tranh cũng khác. Dù thuộc trường phái nào, với<br />
chỉ một bức tranh hay cả bộ tranh, họa sĩ cũng cố gắng tạo một cảnh trí, hoặc gây những<br />
khoảnh khắc tác động mạnh mẽ vào tâm người xem, khiến lòng tin họ được vững mạnh,<br />
hoặc tăng trưởng thêm niềm tin sẵn có, và chuyển hóa cuộc sống thường ngày thành an lạc,<br />
giải thoát.<br />
Vào thế kỷ XIII, trong cuộc biến động xã hội rộng lớn lật đổ quyền cai trị của vương triều<br />
Nhật Bản, các phong trào Phật giáo mới của giới bình dân không chấp nhận lối tu Phật theo<br />
kiểu huyền bí và độc quyền đẳng cấp dưới sự bảo hộ của vương triều. Họ chủ trương theo<br />
những đường lối trực tiếp, thẳng tắt và quân bình hơn để tiến đến giác ngộ giải thoát. Tông<br />
phái lớn nhất của họ, tông Tịnh Độ, lấy tên theo một cõi Phật huy hoàng, an lạc, là cõi tái<br />
sanh của những kẻ chỉ cần nhất tâm tu theo niềm tin đơn giản nhưng chắc thật nhất.<br />
Phật tử Tịnh độ hâm mộ những bức tranh vẽ các vị Bồ tát hiền hòa, đầy lòng từ và dễ thân<br />
cận, thường hóa hiện vào đời, cứu nhân độ thế. Thể loại tranh “raigozu” thường vẽ Đức Phật<br />
Di Đà, vị Phật giáo chủ của tông đồ phái Tịnh Độ, và chư Bồ tát hiện xuống trần rước thần<br />
thức người mới chết. Loại tranh này treo ở nơi người hấp hối dễ thấy, cho tâm được an ổn.<br />
Vương triều Nhật Bản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định nội dung và chức<br />
năng của ngành hội họa, vì phần nhiều các thi hào cổ đại xuất thân từ hoàng tộc. Thơ họ cho<br />
thấy các vấn đề của nhân loại và của tâm mỗi người phản ánh nơi thiên nhiên. Giáo lý nhà<br />
Phật nói về tính vô thường, tạm bợ của vạn pháp làm đậm nét thêm những bài học từ thiên<br />
nhiên của các thi hào ấy. Do đó, chủ đề chính yếu của ngành hội họa Nhật Bản vẫn là các<br />
dáng vẻ của thiên nhiên trời đất qua bốn mùa. Tranh thuật sự, kể chuyện, nói lên phong cách<br />
vương giả, những tập tục lối sống của vua quan triều đình, cũng là nguồn đề tài phong phú<br />
khác. Thời kỳ Edo, những thay đổi xã hội nâng cao quyền hạn của giới thương nhân cho<br />
phép họ hấp thu khiếu thẩm mỹ và tập tục của giới quý tộc. Cho nên một thương nhân buôn<br />
rượu sa kê giàu có đã đặt họa sĩ Ikeda Koson (1806-1866) vẽ bộ tranh đẹp miêu tả những<br />
nghi lễ của hoàng tộc.<br />
Tranh Nhật Bản tại các phòng trưng bày phần lớn được họa vừa có mục đích giáo dục, vừa<br />
để thưởng lãm. Tuy nhiên, hai mục đích này thường không hẳn có ranh giới rõ rệt. Tranh tại<br />
các phòng trưng bày được xếp loại theo chủ đề, có thể là cùng giai đoạn lịch sử, hoặc cùng<br />
đề tài, hay đánh dấu một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển nét họa riêng của mỗi<br />
họa sĩ. Truy tìm bối cảnh sáng tác và lưu hành của tất cả các bức tranh trong một nhà bảo<br />
tàng là công việc rất nản lòng, nếu không muốn nói là không thể thực hiện nổi. Tuy nhiên,<br />
mỗi khi người ta có thể tạo lập lại gốc tích, ý nghĩa của một bức tranh, ta càng có cơ hội thấy<br />
rõ được những giao xen phức tạp giữa các vai trò xã hội và mỹ học của bức tranh ấy.<br />
- Hoạt động điện ảnh<br />
Điện ảnh Nhật Bản được xem là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Nhật Bản.<br />
Trong suốt hơn 100 năm qua kể từ ngày ra đời (20/6/1899), điện ảnh Nhật Bản đã trải qua<br />
nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn luôn có những tác phẩm đặc sắc và những thế mạnh<br />
riêng, trong đó phải kể tới các bộ phim hoạt hình Nhật Bản, hay anime.<br />
Hai bộ phim đầu tiên được làm tại Nhật Bản là Bake Jizo và Shinin no sosei, đều được thực<br />
hiện năm 1898. Bộ phim tài liệu đầu tiên, Geisha no teodori được làm tháng 6 năm 1899.<br />
Điểm khác biệt của các bộ phim câm Nhật Bản so với các nền điện ảnh khác là bên cạnh đội<br />
ngũ tạo âm thanh và nhạc phim tại rạp chiếu, còn có sự xuất hiện của các benshi, những<br />
người dẫn chuyện có nhiệm vụ đọc lời thoại và các đoạn tường thuật cần thiết. Ngôi sao điện<br />
ảnh Nhật Bản đầu tiên là một diễn viên kịch kabuki tên là Onoe Matsunosuke, ông này đã<br />
tham gia đóng hơn 1000 bộ phim (chủ yếu là phim ngắn) trong khoảng thời gian từ 1909 đến<br />
1926. Onoe và đạo diễn Makino Shozo là những người có công phổ biến thể loại jidaigeki<br />
(những bộ phim lịch sử lấy bối cảnh Nhật Bản thời Edo) với công chúng Nhật. Nữ diễn viên<br />
điện ảnh chuyên nghiệp đầu tiên của công nghiệp điện ảnh nước này là Takagi Tokuko<br />
Nagai, bà đã xuất hiện trong 4 bộ phim của hãng phim do Hoa Kỳ đầu tư Thanhouser<br />
Company thực hiện từ năm 1911 đến năm 1914[. Trong giai đoạn này, có một số bộ phim<br />
câm đáng chú ý được sản xuất, đặc biệt là những tác phẩm của đạo diễn Mizoguchi Kenji,<br />
tuy vậy đa số đã bị phá hủy trong Trận động đất Kantō năm 1923 và sau đó là trong những<br />
cuộc không kích suốt Thế chiến thứ hai của quân đội Đồng Minh xuống Nhật Bản.<br />
Trong thập niên 1930, trong khi các bộ phim câm tiếp tục được sản xuất với số lượng lớn thì<br />
các bộ phim có tiếng cũng bắt đầu xuất hiện. Các bộ phim có tiếng đáng chú ý thời kì này là<br />
ba tác phẩm của Kenji Mizoguchi, Gion no shimai (1936), Naniwa erejii (1936) và Zangiku<br />
monogatari (1939). Ngoài ra còn có thể kể đến Ninjo kami fusen (1937) của đạo diễn<br />
Yamanaka Sadao hay Tsuma Yo Bara No Yoni (1935) của Naruse Mikio, bộ phim Nhật đầu<br />
tiên được phát hành rộng rãi tại Mỹ.<br />
Cuối những năm 1930, sự kiểm soát của chính quyền đối với công nghiệp điện ảnh càng bị<br />
siết chặt, các bộ phim bị kiểm duyệt kĩ lưỡng đặc biệt là các tác phẩm có xu hướng thiên tả<br />
như phim của Daisuke Ito. Và Khi Thế chiến thứ hai nổ ra thì ngành điện ảnh Nhật Bản lâm<br />
vào tình trạng hoạt động cầm chừng. Tuy vậy đây lại là giai đoạn chứng kiến sự xuất hiện<br />
của một trong những nghệ sĩ điện ảnh vĩ đại nhất của Nhật Bản, đạo diễn huyền thoại<br />
Kurosawa Akira, ông thực hiện bộ phim đầu tay, Sanshiro Sugata vào năm 1943.<br />
Thập niên 1950 chứng kiến giai đoạn phát triển đỉnh cao của điện ảnh Nhật Bản với ba tác<br />
phẩm vào hàng kinh điển của điện ảnh thế giới, đó là Rashomon (1950), Bảy Samurai<br />
(1954), cả hai đều do Kurosawa thực hiện, và bộ phim của đạo diễn Ozu Yasujiro, Tokyo<br />
monogatari (1953). Riêng Rashomon của Kurosawa Akira đã mang về cho Nhật Bản Giải<br />
Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất đầu tiên và đem lại cho ngôi sao điện ảnh lớn của Nhật<br />
sau này là Mifune Toshiro vai diễn đột phá. Trong thập niên này điện ảnh Nhật Bản còn có<br />
hai giải Oscar phim nói tiếng nước ngoài khác, đó là Jigokumon (1954) của đạo diễn<br />
Kinugasa Teinosuke và Miyamoto Musashi (1955) của đạo diễn Inagaki Hiroshi.<br />
Năm 1954, đạo diễn Honda Ishirō giới thiệu bộ phim khoa học viễn tưởng Gojira, một tác<br />
phẩm có nội dung chống chiến tranh thông qua câu chuyện của một con thú biến thành quái<br />
vật do vũ khí hạt nhân. Godzilla đã nhanh chóng phổ biến ở các nước phương Tây và trở<br />
thành một biểu tượng quốc tế của Nhật Bản, nó cũng mở đầu cho dòng phim rất đặc trưng<br />
của điện ảnh nước này, dòng phim kaiju (phim quái vật).<br />
Điện ảnh Nhật Bản tiếp tục có những bộ phim xuất sắc trong thập niên 1960, trong đó phải<br />
kể tới tác phẩm kinh điển Yojimbo (1961) của Kurosawa Akira. Năm 1967 đạo diễn Suzuki<br />
Seijun thực hiện bộ phim siêu thực về yakuza (các tổ chức tội phạm có tổ chức ở Nhật) có<br />
tên Koroshi no rakuin , tuy không được đánh giá cao ở thời điểm ra đời nhưng về sau đây<br />
được coi là bộ phim hình sự kinh điển, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn nổi<br />
tiếng như Ngô Vũ Sâm, Park Chan-wook hay Quentin Tarantino.<br />
Bên cạnh các bộ phim có đề tài quen thuộc, các đạo diễn thuộc thế hệ Làn sóng mới Nhật<br />
Bản như Nagisa Oshima, Kaneto Shindo, Susumu Hani và Shohei Imamura cũng cho ra đời<br />
các bộ phim có tính sáng tạo cao như Seishun Zankoku Monogatari (1960), Nihon no yoru to<br />
kiri (1960) hay Koshikei (1968).<br />
Năm 1964 đạo diễn Teshigahara Hiroshi cho ra đời bộ phim đáng nhớ Suna no onna tác<br />
phẩm này đã giành giải thưởng đặc biệt của ban giám khảo (Prix du Jury) trong Liên hoan<br />
phim Cannes và giúp Teshigahara trở thành người châu Á đầu tiên được đề cử giải Đạo diễn<br />
xuất sắc nhất tại Giải Oscar. Một bộ phim Nhật Bản khác cũng giành giải thưởng của ban<br />
giám khảo trong Liên hoan phim Cannes là Kaidan (1965) của đạo diễn Kobayashi Masaki.<br />
Một dòng điện ảnh mới, dòng phim pinku eiga (phim khiêu dâm loại nhẹ, vẫn được coi là<br />
phim điện ảnh) bắt đầu phát triển ở Nhật từ đầu thập niên 1970, đặc biệt là sau sự ra đời của<br />
bộ phim gây nhiều tranh cãi Ai no Korīda (1976), một tác phẩm nói về vụ án Sada Abe gây<br />
tiếng vang trong xã hội Nhật những năm trước chiến tranh. Bộ phim này tuy là được coi là<br />
phim điện ảnh nhưng đã vượt qua giới hạn kiểm duyệt thông thường khi quay trực tiếp<br />
những cảnh quan hệ tình dục thật của hai diễn viên, kết quả là phim phải thực hiện dưới danh<br />
nghĩa do một công ty điện ảnh Pháp đầu tư và sau khi ra đời nó cũng chưa bao giờ được<br />
chiếu bản đầy đủ ở chính Nhật Bản.<br />
Trong thập niên này, đạo diễn Fukasaku Kinji cũng hoàn thành loạt phim nổi tiếng về đề tài<br />
yakuza, Jingi naki tatakai, loạt phim này đã cực kì thành công về cả nghệ thuật và thương<br />
mại, chúng được coi là những phim tội phạm kinh điển của điện ảnh Nhật Bản, hay "Bố già"<br />
Nhật Bản.<br />
Vốn là đất nước hàng đầu thế giới về nghệ thuật truyện tranh, nhưng phải chờ đến thập niên<br />
1980 các bộ phim hoạt hình Nhật Bản (anime) mới bắt đầu gây tiếng vang ở thị trường điện<br />
ảnh trong nước và thế giới. Năm 1984, đạo diễn phim hoạt hình nổi tiếng Miyazaki Hayao<br />
thực hiện bộ phim Kaze no Tani no Naushika năm 1984 mở đầu cho loạt phim hoạt hình nổi<br />
tiếng của ông sau này. Thành công của Naushika được nối tiếp bằng bộ phim Akira (1988)<br />
của Otomo Katsuhiro, tác phẩm này đã đánh dấu bước tiến vượt bậc của phim hoạt hình<br />
Nhật cả về kĩ thuật thực hiện và đề tài khi phản ánh các vấn đề xã hội và thời sự đáng quan<br />
tâm lúc đó, Akira cho đến nay vẫn được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất thể<br />
loại phim hoạt hình của điện ảnh thế giới. Cùng năm này, đạo diễn Takahata Isao cũng cho<br />
ra đời bộ phim hoạt hình phản chiến nổi tiếng Mộ đom đóm, Mộ đom đóm được nhiều nhà<br />
phê bình phim nổi tiếng, trong đó coi Roger Ebert coi là một trong những bộ phim phản<br />
chiến hay nhất đã từng được thực hiện. Sự phát triển của phim hoạt hình cũng dẫn đến sự<br />
phát triển của các Seiyū, các diễn viên lồng tiếng cho nhân vật hoạt hình, nhiều người trong<br />
số này đã trở nên nổi tiếng hoặc trở thành diễn viên thực sự như Ōtsuka Chikao.<br />
Cũng trong những năm 1980, điện ảnh Nhật Bản đã tiếp tục truyền thống thắng lợi tại các<br />
giải thưởng điện ảnh uy tín với 2 giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes cho các phim<br />
Kagemusha (1980) của Kurosawa và Narayama bushiko (1983) của Imamura Shohei. Shohei<br />
sau này còn giành thêm một giải Cành cọ vàng khác cho bộ phim Unagi (1997) và là 1 trong<br />
số ít ỏi 4 đạo diễn từng có 2 phim chiến thắng tại hạng mục quan trọng nhất ở Liên hoan<br />
phim Cannes (cùng Francis Ford Coppola, Alf Sjöberg và Bille August).<br />
Thập niên 1990 và 2000 cũng là giai đoạn thành công nhất của hoạt hình Nhật Bản khi<br />
Miyazaki Hayao liên tục cho ra đời các tác phẩm thành công cả về mặt nghệ thuật và thương<br />
mại, trong đó đáng kể nhất là Công chúa Mononoke (1997) và Sen to Chihiro no<br />
Kamikakushi (2001), hai bộ phim hoạt hình đầu tiên phá kỉ lục doanh thu tại thị trường điện<br />
ảnh Nhật Bản. Sen to Chihiro cũng là bộ phim hoạt hình đầu tiên giành giải Phim hoạt hình<br />
hay nhất tại Giải Oscar. Bên cạnh Miyazaki còn phải kể tới một loạt đạo diễn anime thành<br />
công khác như Oshii Mamoru với Kōkaku Kidōtai (1995) hay Kon Satoshi với Perfect Blue<br />
(1997), Sennen Joyū (2001) và Tōkyō Goddofāzāzu (2003).<br />
Những năm cuối thế kỉ 20 cũn chứng kiến sự bùng nổ của cơn sốt phim kinh dị Nhật (J-<br />
Horror) trên toàn thế giới với những bộ phim nổi tiếng như Ringu (1998), Ju-on (1998),<br />
Kairo (2001) và Yogen (2002). Tất cả các bộ phim này đều đã được Hollywood hoặc điện<br />
ảnh Hàn Quốc làm lại, thậm chí đạo diễn phim kinh dị nổi tiếng Nakata Hideo còn được mời<br />
sang Mỹ để đích thân làm lại phiên bản Hollywood cho bộ phim của ông.<br />
- Đời sống âm nhạc, nghệ thuật<br />
Âm nhạc Nhật Bản đã mượn nhiều nhạc cụ và phong cách từ các quốc gia láng giềng và phát<br />
triển thêm các nét đặc trưng của Nhật, điển hình như đàn Koto được giới thiệu vào Nhật từ<br />
thế kỷ thứ 9 và 10, hay như thể loại kịch Nō từ thế kỷ 14 và âm nhạc dân gian đại chúng, với<br />
những cây đàn như shamisen, được truyền bá tới Nhật từ thế kỷ 16. Âm nhạc phương Tây,<br />
được giới thiệu vào Nhật cuối thế kỷ 19, giờ đã trở thành một phần nội tại quan trọng trong<br />
văn hóa Nhật Bản. Nước Nhật thời hậu chiến tranh thế giới thứ hai bị ảnh hưởng nặng nề bởi<br />
âm nhạc Mỹ và âm nhạc hiện đại châu Âu, điều này đã dẫn đến sự phát triển của dòng âm<br />
nhạc gọi là J-pop.<br />
Ở Nhật, Karaoke được xem là hoạt động văn hóa phổ biến nhất ở Nhật. Từ tháng 11 năm<br />
1993, cơ quan các hoạt động văn hóa đã tiến hành một cuộc thăm dò, kết luận rằng có nhiều<br />
người Nhật hát Karaoke hơn là tham gia vào các hoạt động văn hóa truyền thống như triết<br />
hoa hay trà đạo.<br />
Nghệ thuật Geisha<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhật Bản còn nổi tiếng với nghệ thuật Geisha, hay còn gọi là nghệ giả theo tiếng Nhật là<br />
những người sống bằng nghệ thuật. Họ có nhiều kĩ năng như đàn hát, múa, kể chuyện, pha<br />
trà…, được đào luyện kĩ và sống trong một khuôn khổ nhất định. Các Geisha ngày nay hầu<br />
hết phải tốt nghiệp Trung học hoặc có khi phải tốt nghiệp Đại học, công việc của họ là biểu<br />
diễn những kỹ năng nghệ thuật và trò chuyện với khách hàng. Xuất hiện vào khoảng thế kỉ<br />
17, đến nay Geisha đã có một truyền thống lâu đời, với nhiều kĩ năng độc đáo, và là một nét<br />
đặc trưng rất độc đáo của người Nhật. Hiện nay, số lượng Nghệ giả ở Nhật Bản không còn<br />
nhiều như trước nữa, tuy nhiên vẫn còn một số khu vực tại Nhật Bản có số lượng Geisha khá<br />
đáng kể như Gion và Pontocho, và một số “khu phố hoa” khá nổi tiếng tại Tokyo.<br />
Yosakoi - Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Loại hình nghệ thuật cũng được biết đến tại Nhật đó là Yosakoi. Đây là một loại hình nghệ<br />
thuật hiện đại đặc trưng của Nhật Bản, được xem là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.<br />
Nó là một biến thể của điệu múa mùa hè truyền thống Awa Odori, được khai sinh từ tỉnh<br />
Kochi vào năm 1954. ‘Yosakoi’ là phương ngữ của Kochi, nghĩa là “Đêm nay mời bạn đến”.<br />
Câu nói này đã trở thành tên gọi của điệu múa trong dịp lễ hội của tỉnh Kochi, và từ đó<br />
Yosakoi cũng trở thành tên của lễ hội này.<br />
Là sự kết hợp giữa các động tác múa truyền thống Nhật Bản và âm nhạc hiện đại nên<br />
Yosakoi rất sôi động và mạnh mẽ. Các điệu múa thường được dàn dựng cho những đội múa<br />
đông người. Ai cũng có thể tham gia múa Yosakoi, bất kể tuổi tác hay giới tính. Đây cũng là<br />
sự kiện nổi bật trong các kỳ lễ hội thể thao thường được các trường cấp một, cấp hai và cấp<br />
ba ở Nhật tổ chức. Điệu múa đi kèm với các bài dân ca của Kochi với cái tên Yosakoi-Buchi,<br />
tức giai điệu Yosakoi.<br />
Bunraku - Nghệ thuật kịch rối độc đáo<br />
Bunraku là nghệ thuật kịch rối chuyên nghiệp của Nhật Bản. Giống như kịch kabuki,<br />
bunraku là một hình thức nghệ thuật lâu đời, do tầng lớp thị dân phát triển trong thời kỳ Edo<br />
(1603-1867). Từ bunraku có nguồn gốc tương đối mới. Trong số nhiều nhà hát rối của thời<br />
kỳ Edo, duy nhất chỉ có Bunraku-za, do Banrakuken Uemura lập nên vào đầu thế kỷ 19 ở<br />
Osaka, hoạt động hiệu quả về mặt thương mại trong xã hội Nhật hiện đại, và bunraku trở nên<br />
có nghĩa là “kịch rối chuyên nghiệp”.<br />
Biểu diễn bunraku bao gồm 4 yếu tố: các con rối bằng một nửa hoặc 2/3 kích thước người<br />
thật; chuyển động của các con rối do những người điều khiển đảm trách; tiếng nói của các<br />
nhân vật do một người kể chuyện gọi là tayu phụ trách; và âm nhạc do một người chơi loại<br />
đàn 3 dây gọi là shamisen. Để tăng tính phức tạp, mỗi con rối trong vai các nhân vật chính<br />
do 3 người điều khiển.<br />
Rối bunraku không phải được điều khiển bằng dây. Người điều khiển chính dùng tay và bàn<br />
tay trái đỡ con rối, đồng thời điều khiển cơ cấu kiểm soát chuyển động của mí mắt, nhãn cầu,<br />
lông mày và miệng; còn dùng tay phải điều khiển tay phải của con rối. Người trợ lý thứ nhất<br />
chỉ phụ trách điều khiển tay trái con rối trong khi người trợ lý thứ 2 điều khiển 2 chân của<br />
con rối.Những người điều khiển các con rối thường mặc quần áo đen, chỉ người điều khiển<br />
chính để hở mặt còn các trợ lý thậm chí chụp kín đầu để trở nên “vô hình” trong mắt khán<br />
giả. Một người tayu phải lồng tiếng cho tất cả các con rối trên sân khấu, bao gồm cả nhân vật<br />
đàn ông, phụ nữ lẫn trẻ em, nên giọng nói phải có âm vực rộng.<br />
Một đặc điểm nổi bật về âm thanh trong bunraku là tiếng nhạc trầm du dương của đàn<br />
shamisen, trái ngược với âm thanh cao của đàn shamisen tenor trong kịch kabuki. Trong kịch<br />
kabuki có thể sử dụng giàn nhạc gồm 10 đàn shamisen trở lên nhưng trong bunraku thông<br />
thường chỉ có một nhạc công mà thôi. Trong bunraku, chuyển động của các con rối phải<br />
khớp với câu chuyện kể của tayu và âm thanh đàn shamisen. Nhạc công chơi shamisen thông<br />
thường là người quyết định tốc độ kể chuyện và thời gian đối với hành động của con rối.<br />
Về lịch sử của nghệ thuật rối Nhật Bản, những sách đầu tiên có ghi lại là vào thế kỷ 11.<br />
Người ta cho rằng thậm chí trước đó, những thợ săn lang thang đã kiếm tiền thêm bằng cách<br />
dùng các con rối nhỏ diễn kịch mua vui tại các thị trấn. Về sau nhiều người định cư tại Sanjo<br />
trên đảo Awaji, nơi sinh ra ngành kịch rối chuyên nghiệp.<br />
Trong thế kỷ 15 và 16, những người mù hát rong kể chuyện lịch sử thường dùng biwa, một<br />
loại đàn có nguồn gốc từ Ba Tư, gần giống với đàn tì bà của Việt Nam. Rồi cách kể chuyện<br />
thay đổi đáng kể vào thế kỷ 16 với sự phát triển của hình thức kể chuyện gọi là joruri. Cũng<br />
trong khoảng thời gian đó, đàn shamisen được đưa từ Okinawa đến Nhật Bản và được những<br />
người kể chuyện joruri ưa chuộng hơn đàn biwa. Trong khi đó, những người chơi shamisen<br />
sáng tác ra các khúc nhạc mới, có ảnh hưởng đến cách kể chuyện joruri. Sự phối hợp này là<br />
khởi nguồn của bunraku, tạo sự hấp dẫn cho tầng lớp thị dân, những người ở thang bậc thấp<br />
trong xã hội nhưng dần dần chi phối về kinh tế, nghệ thuật và văn hóa trong thời đại mới.<br />
Vào giữa thế kỷ 17, nhà hát rối phát triển mạnh mẽ ở Osaka và Kyoto, nơi những người biểu<br />
diễn rối và người kể chuyện joruri có nhiều sáng tạo mới về nghệ thuật. Trong thời kỳ này,<br />
sự phối hợp giữa nghệ sĩ kể chuyện tài ba Takemoto Gidayu I ở Osaka và nhà viết kịch vĩ đại<br />
nhất thời kỳ Edo, ông Chikamatsu Monzaemon, đã góp phần chuyển bunraku từ một hình<br />
thức giải trí quần chúng thành nhà hát nghệ thuật. Vào thế kỷ 18, nhiều kỹ thuật như chuyển<br />
động mí mắt và miệng được phát minh và hiện vẫn sử dụng trong bunraku ngày nay.<br />
Có thể nói kịch kabuki và kịch rối bunraku có những mối liên hệ qua lại. Các diễn viên<br />
kabuki chịu ảnh hưởng bởi phong cách của những người kể chuyện trong bunraku và thậm<br />
chí bắt chước những điệu bộ được cách điệu hóa của các con rối. Ngược lại, nếu một sáng<br />
tạo nhất định trong kabuki làm khán giả vui thích, những người trong ngành bunraku sẽ đưa<br />
vào các tác phẩm của họ. Do bị kịch kabuki dần dần lấn át, bunraku trở nên suy sút từ nửa<br />
sau thế kỷ 18, tuy các nghệ sĩ biểu diễn đã đạt những đỉnh cao mới về nghệ thuật và kỹ thuật.<br />
Rồi trong bối cảnh người Nhật quay sang các hình thức nghệ thuật sân khấu phương Tây và<br />
phát triển nhà hát hiện đại riêng, bunraku không thể cạnh tranh thu hút khán giả. Sau thế<br />
chiến 2, bunraku bị lu mờ vì nhiều người Nhật xa rời những khía cạnh truyền thống trong<br />
văn hóa, và vào đầu thập niên 60, môn nghệ thuật này gần như trở nên không có giá trị<br />
thương mại.<br />
Bunraku tồn tại được chủ yếu là nhờ sự hỗ trợ của chính phủ cũng như việc thành lập Nhà<br />
hát quốc gia ở Tokyo và Nhà hát bunraku quốc gia ở Osaka. Bunraku hồi sinh như hiện nay<br />
là nhờ một xu hướng mới tôn trọng truyền thống trong thanh niên Nhật.<br />
- Đời sống văn học<br />
Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế<br />
giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật<br />
Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được thành lập. Chúng ta không biết ngọn nguồn<br />
của văn học thành văn Nhật Bản khởi điểm chính xác từ khi nào, chỉ có thể ước định qua<br />
những tác phẩm khởi nguyên của văn học Nhật Bản vẫn được đánh giá là kiệt tác cổ điển<br />
như Vạn diệp tập thế kỷ thứ 8, thi tuyển tập hợp 3 thế kỷ thi ca trước đó của Nhật Bản và các<br />
cuốn sử Cổ sự ký và Nhật Bản thư ký văn bản hóa các truyền thuyết, huyền thoại lập quốc<br />
Nhật Bản.<br />
Theo một số học giả có lẽ do ảnh hưởng của Âu châu luận, lịch sử văn học Nhật Bản có thể<br />
được chia ra 3 thời kỳ chính: Cổ đại, Trung cổ và Hiện đại, tương đương với cách phân kỳ<br />
lịch sử kinh điển thường gặp trong văn học phương Tây. Tuy nhiên, trong cuốn Nhật Bản<br />
văn học toàn sử do Tokyo Kodanshā xuất bản, văn học Nhật Bản được chia làm 6 thời kỳ<br />
ứng với 6 tập của cuốn sách: Thượng đại, Trung cổ, Trung thế, Cận thế, Cận đại và Hiện đại.<br />
Các tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật Bản bao gồm hai cuốn sách lịch sử Kojiki và Nihon<br />
Shoki cũng như tập thơ từ thế kỷ thứ 8 Man'yōshū, tất cả đều được viết bằng Hán tự. Vào<br />
giai đoạn đầu của thời kỳ Heian, hệ thống kí tự kana (Hiragana và Katakana) ra đời. Cuốn<br />
tiểu thuyết The Tale of the Bamboo Cutter được coi là tác phẩm kí sự lâu đời nhất của Nhật.<br />
Một hồi ký về cuộc đời trong cung cấm được ghi trong cuốn The Pillow Book, viết bởi Sei<br />
Shōnagon, trong khi Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu thường được coi là tiểu thuyết<br />
đầu tiên trên thế giới. Trong thời kỳ Edo, văn học không thực sự phát triển trong giới<br />
Samurai như trong tầng lớp người chōnin. Yomihon, là một ví dụ, đã trở nên nổi tiếng và tiết<br />
lộ sự thay đổi sâu kín này trong giới độc giả cũng như tác giả thời kỳ này. Thời kỳ Minh Trị<br />
chứng kiến một giai đoạn đi xuống trong các thể loại văn học truyền thống của Nhật, trong<br />
thời kỳ này thì văn học Nhật chịu nhiều ảnh hưởng từ văn học phương Tây. Natsume Sōseki<br />
và Mori Ōgai được coi là những văn hào tiểu thuyết "hiện đại" đầu tiên của Nhật, tiếp đó có<br />
thể kể đến Akutagawa Ryūnosuke, Tanizaki Jun'ichirō, Yasunari Kawabata, Yukio Mishima<br />
và gần đây hơn là Haruki Murakami. Nhật Bản có hai nhà văn từng đoạt giải Nobel là<br />
Yasunari Kawabata(1968) và Kenzaburo Oe (1994).<br />
Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng được biết đến thông qua các loại truyện tranh và tranh biếm<br />
họa, hay còn gọi là Manga. Manga được xem là từ đặc biệt để chỉ riêng truyện tranh xuất<br />
phát từ Nhật Bản. Đa số người Nhật xem Manga là một món ăn tinh thần không thể thiếu.<br />
Ngày nay, Manga không chỉ rất phổ biến ở Nhật mà còn ở nhiều quốc gia tên thế giới, thu<br />
hút được sự quan tâm của rất nhiều người thích truyện tranh.<br />
- Thưởng thứ trà đạo Nhật Bản<br />
Đối với người Nhật, uống trà là cả một nghệ thuật, một nghi lễ. Theo ý nghĩa thông thường,<br />
nghệ thuật là cái hay, cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó ngưỡng mộ<br />
bởi trình độ, tài năng, kỹ năng, kỹ xảo cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến hoặc khi<br />
một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở mức độ hoàn hảo với trình độ điêu luyện. Tại đây<br />
có sự tổng hợp của tính sáng tạo nghệ thuật, tính cảm thụ tự nhiên, tư tưởng tôn giáo và sự<br />
xã giao.<br />
Trà đạo ở Nhật được thế giới biết đến như một lối sống truyền thống của người Nhật chính -<br />
là nghệ thuật dùng trà ở mức độ hoàn hảo, tuân theo những quy định chặt chẽ. Sở dĩ như vậy<br />
bởi lẽ trà đạo đưa con người đạt tới tinh thần “hoà kính tịch mịch”.<br />
Phong tục uống trà xuất hiện ở Nhật Bản khoảng đầu thế kỷ thứ VIII cùng với sự ảnh hưởng<br />
của Phật giáo. Khoảng từ thế kỷ XII, khi các thiền sư Nhật Bản từ Trung Quốc trở về mang<br />
theo lối uống trà mới kiểu Tống với một loại trà xanh được tán mịn gọi là mạt trà (matcha)<br />
thì tục uống trà trở thành phổ biến. Suốt thời Trung thế, việc uống trà đã lan rộng từ các thiền<br />
viện tới nơi dân chúng với những phong cách mang tính thẩm mỹ khác nhau. Các hội uống<br />
trà và thi hương vị trà đã thu hút chú ý của cả Thiên hoàng và các tướng quân, các nhà buôn<br />
giàu có. Mặc dù việc uống trà không phải dành riêng cho các thiền viện, nhưng trà lễ (Sarei)<br />
với tư cách là các quy tắc và nghi thức tỉ mỉ cho việc pha và uống trà là do các thiền sư tạo<br />
ra. Sarei mang nhiều đặc tính của Thiền, trong đó sự thanh tịnh, tính giản dị và mộc mạc đã<br />
trở thành những đặc trưng thẩm mỹ và uống trà, do đó, dần dần trở thành một nghi lễ có tính<br />
nghệ thuật. Trà đạo với những đặc tính thẩm mỹ mà chúng ta được biết đến ngày nay đã đạt<br />
được sự phát triển đầy đủ từ thế kỷ thứ XVI.<br />
Trà đạo xuất hiện từ cùng lúc với nghi lễ cắm hoa và uống rượu sakê. Uống trà phải kết hợp<br />
nhiều đặc tính: Sự hài hoà giữa các đồ uống, tôn trọng ấm chén và khách, thể xác và tâm hồn<br />
phải trong sạch, phải đạt được sự tĩnh tâm theo tinh thần thần đạo. Vì vậy phòng trà phải hẹp,<br />
thể hiện sự khiêm tốn, nguyên liệu xây dựng và các đường nét phải giản dị, trang trọng, phải<br />
sử dụng các công cụ bằng tre hoặc các vật liệu bình thường khác, tránh khoe giàu sang. Trà<br />
đạo thể hiện lòng tin, tìm ý nghĩa sâu sắc, vẻ đẹp trong phong cách đơn giản.<br />
Trà đạo vừa là một thú vui thanh tao đồng thời vừa thể hiện một nét đẹp trong văn hoá lối<br />
sống truyền thống của người Nhật. Ở trà đạo, ta tìm thấy mối quan hệ đồng hoà khí giữa con<br />
người với nhau như là tình bạn hữu, tìm thấy sự tôn trọng, lòng tin. Sự bình đẳng xã hội<br />
trong trà đạo phải chăng chính là ước muốn lý tưởng về một xã hội thực tế. Khi lạc vào nghệ<br />
thuật uống trà đạo khiến cho con người ta có cảm tưởng rằng đó gần như trạng thái của cõi<br />
niết bàn của Phật giáo- trạng thái vắng lặng, tịch diệt, sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha…<br />
Có thể nói rằng trà đạo là một nét đẹp trong văn hoá lối sống truyền thống của người Nhật.<br />
Trà đạo thể hiện nét đẹp nội tâm của con người Nhật. Đằng sau cuộc sống náo nhiệt, sôi<br />
động của cường quốc có nền kinh tế phát triển, trà đạo đã tìm được chỗ đứng vững chắc của<br />
mình gần 7 thế kỷ trong lịch sử văn hoá Nhật. Nó thể hiện những giá trị tinh thần đầy chất<br />
nhân văn. Và trong xã hội ngày càng hiện đại như Nhật Bản thì trà đạo là một giá trị văn hoá<br />
lịch sử truyền thống được củng cố, đề cao và mở rộng.<br />
- Độc đáo nghệ thuật cắm hoa (Ikebana).<br />
Cắm hoa nghệ thuật (Ikebana) ở Nhật Bản còn được gọi là Hoa đạo (Kadò), có nguồn gốc từ<br />
nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ thứ VI, rồi dần dần phát triển thành một nghệ<br />
thuật vào khoảng thế kỷ thứ XV với nhiều nghi thức và trường phái khác nhau. Hoa đạo khác<br />
với cắm hoa thông thường ở chỗ nó đem lại sự nhận thức về mối liên quan giữa không gian<br />
xung quanh với hoa và cành lá, cách bố cục cành lá, việc lựa chọn hoa cũng như cây được sử<br />
dụng làm vật liệu.<br />
Một phong cách cắm hoa cổ điển và phức tạp có từ xưa, gọi là rikka (hoa đứng). Phong cách<br />
này tìm tòi sự thể hiện vẻ tráng lệ của thiên nhiên, quy ước rằng hoa phải được cắm theo<br />
hình núi Sumeru, một ngọn núi huyền thoại của thế giới nhà Phật tượng trưng cho toàn vũ<br />
trụ. Các vật liệu được sử dụng cho lối cắm hoa này đều có tính tượng trưng. Phong cách này<br />
đạt tới độ hoàng kim vào thế kỷ XVII, nay không còn phổ biến nữa.<br />
Từ thế kỷ thứ XV xuất hiện lối cắm hoa tự nhiên. Các ngôi nhà dù nhỏ đều có Kotonoma-<br />
một không gian nhỏ thụt vào của căn phòng để đặt các đồ mỹ nghệ hay để cắm hoa. Các luật<br />
lệ cắm hoa theo đó trở nên giản đơn để mọi người đều có thể thưởng thức được. Cuối thể kỷ<br />
XVI có lối cắm hoa tự nhiên gọi là nageire (quăng vào) như là một phần của nghi lễ trà đạo.<br />
Hoa được sử dụng trong trà đạo được gọi là chabana (trà hoa), chỉ cần một bông hoa trong<br />
một bình hoa tạo nên cảm giác giản dị, thuần khiết, thanh tao. Cắm hoa hiện đại mang ảnh<br />
hưởng nhiều của văn hoá phương Tây. Phong cách cắm hoa moribana (một rừng hoa) đã mở<br />
đường tự do cho nghệ thuật cắm hoa, tìm cách thu nhỏ một phong cảnh hay một mảnh vườn.<br />
Đó là phong cách cắm hoa có thể thưởng thức được ở bất cứ đâu và thích hợp với mọi khung<br />
cảnh.<br />
Ngày nay ở Nhật Bản có khoảng 3000 trường phái ikebana, trong số đó 3 trường phái có<br />
tiếng nhất là Ikenobò, Ohara và Sògetsu, với những quy luật có thể khác nhau về quan niệm,<br />
về ý tưởng, về phương pháp,. Mặc dù vậy, những trường phái nàyđều tựu trung lại một điểm<br />
là tình yêu thiên nhiên được nâng lên thành nghệ thuật.<br />
- Nét văn hóa trong Sumo<br />
Nhật Bản là nơi duy nhất môn Sumo được luyện tập, biểu diễn và thi đấu một cách chuyên<br />
nghiệp. Các võ sĩ Sumo (rikishi) thường được huấn luyện từ nhỏ và ở cùng nhau trong các<br />
trung tâm huấn luyện. Họ phải tuân theo những nguyên tắc, truyền thống nghiêm ngặt (quy<br />
định bởi Hiệp hội Sumo) chi phối mọi mặt từ thực đơn ăn uống hằng ngày cho đến trang<br />
phục, hành vi .v.v.<br />
Sumo xuất hiện khoảng 1500 năm trước và bắt nguồn từ tôn giáo, một nghi thức đi kèm với<br />
các điệu múa linh thiêng dâng lên các vị thần đạo Shinto để cầu nguyện cho mùa màng bội<br />
thu. Rất nhiều các nghi lễ mang đậm tính tôn giáo vẫn được giữ mãi cho đến ngày nay. Vào<br />
thời Nara, Sumo được giới thiệu đến giai cấp vua chúa tại Nhật và một giải đấu bắt đầu được<br />
tổ chức hằng năm. Các quy luật và kỹ thuật thi đấu bắt đầu được hình thành. Khoảng năm<br />
1192, chiến tranh bắt đầu nổ ra và Sumo được đưa vào huấn luyện trong quân đội. Sau khi<br />
tướng Tokugawa thống nhất Nhật Bản và bắt đầu thời kỳ Edo thịnh vượng, các nhóm võ sĩ<br />
Sumo chuyên nghiệp hình thành (chính là các Samurai hoặc Ronin cần kiếm thêm thu nhập)<br />
và Sumo trở thành môn thể thao chính thống của Nhật Bản. Hiệp hôi Sumo Nhật Bản ngày<br />
nay chính là bắt nguồn từ những nhóm võ sĩ Sumo thời kỳ Edo.<br />
Trận đấu Sumo diễn ra trên sàn đấu bằng đất sét với 1 lớp cát rải lên trên. Các phần khác<br />
nhau của sàn đấu được đánh dấu bằng các bao rơm. Võ sĩ sẽ thi đấu trong một vòng tròn<br />
đường kính 4,55 met gọi là Dohyo. Phía trên vòng Dohyo là một cái trần được treo bằng dây<br />
cáp mô phỏng đền thờ đạo Shinto gọi là Tsuriyane. Một trận đấu thường diễn ra rất nhanh,<br />
chỉ vài giây đến 1 phút, và tất cả các hình thức như đấm, đá, giật tóc .v.v. đều bị nghiêm<br />
cấm. Người thắng trận là người đẩy được đối thủ của mình ra khỏi vòng Dohyo hoặc vật ngã<br />
đối thủ, làm cho anh ta chạm đất bằng bất cứ bộ phận nào ngoài lòng bàn chân. Chỉ cần 1<br />
phần gót chân nằm ngoài vòng tròn Dohyo hoặc chạm nhẹ đầu ngón tay xuống mặt sàn đấu,<br />
bạn sẽ bị xử thua cuộc. Hiếm khi trọng tài phải phân xử và quyết định người thắng trận khi<br />
cả hai võ sĩ chạm đất gần như cùng một lúc và khi đó, người chạm đất trước sẽ giành được<br />
phần thắng. Điểm đặc biệt thú vị ở Sumo so với Boxing và các môn đấu vật phương Tây là<br />
không hề có quy định về hạng cân. Một võ sĩ Sumo có khi đối đầu với đối thủ nặng gấp đôi<br />
trọng lượng của mình.<br />
Sumo là môn thể thao võ thuật rất coi trọng đẳng cấp và mỗi võ sĩ Sumo đều được phân cấp<br />
rõ ràng trong một danh sách gọi là Banzuke được phát hành 2 tuần trước mỗi giải đấu. Có 6<br />
đẳng cấp khác nhau: Makuuchi, Juryo, Makushita, Sandanme, Jonidan và Jonokuchi. Chỉ<br />
những võ sĩ nào đã đạt đến đẳng cấp Juryo trở lên mới được xem là võ sĩ Sumo chuyên<br />
nghiệp thật sự, được gọi là Sekitori và được trả lương. Đẳng cấp cao nhất là Makuuchi được<br />
chia thành 5 cấp bậc: Yokozuna, Ozeki, Sekiwake, Komusubi và Maegashira. Cấp bậc<br />
Yokozuna (Đại vô địch) là cấp bậc cao quý nhất và chỉ một số ít võ sĩ đạt được danh hiệu<br />
này.<br />
Sumo chuyên nghiệp được quản lý bởi Hiệp hội Sumo, gồm các thành viên được gọi là<br />
Oyakata, vốn là võ sĩ trước đây. Các võ sĩ Sumo sống và luyện tập cùng nhau trong các<br />
trường huấn luyện riêng điểu hành bởi 1 Oyakata. Hiệp hội Sumo và đẳng cấp của họ quy<br />
định rất chi tiết và nghiêm ngặt tất cả các hành vi ứng xử, trang phục, thực đơn ăn uống và<br />
hầu hết các mặt trong đời sống. Một võ sĩ Sumo phải để tóc dài và búi lên theo kiểu như các<br />
Samurai thời Edo, mỗi đẳng cấp võ sĩ khác nhau sẽ có kiểu búi tóc khác nhau. Khi tiếp xúc<br />
với công chúng, họ phải mặc trang phục truyền thống tùy theo đẳng cấp của mình. Từ đẳng<br />
cấp Jonidan trở xuống, các võ sĩ mặc trang phục truyền thống Yukata và dép Geta. Đẳng cấp<br />
cao hơn (Makushita và Sandanme) họ có thể mặc thêm 1 chiếc áo khoác ngắn trang trí theo<br />
kiểu truyền thống bên ngoài áo Yukata và mang dáp Zori. Những võ sĩ đã được công nhận là<br />
Sekitori thì mặc áo choàng bằng lụa và họ cũng búi tóc theo kiểu trau chuốt hơn, có tên là<br />
Oicho.<br />
Mỗi năm có 6 giải thi đấu Sumo, 3 giải tổ chức tại Tokyo, 1 giải ở Osaka, 1 giải ở Nagoya và<br />
1 ở Fukuoka. Mỗi giải bắt đầu vào ngày Chủ Nhật và kéo dài 15 ngày. Mỗi võ sĩ tham gia sẽ<br />
thi đấu 1 trận mỗi ngày. Võ sĩ nào có tỉ lệ thắng cao nhất sẽ giành được chức vô địch. Ngoài<br />
cúp vô địch, còn có các giải khác như giải Kantosho trao cho võ sĩ có tinh thần thi đấu cao<br />
nhất, giải Ginosho trao cho võ sĩ có kỹ thuật giỏi nhất và giải Shukunsho trao cho võ sĩ dưới<br />
cấp Ozeki gây được ấn tượng nhất bằng cách đánh bại nhiều Yokozuna hoặc Ozeki nhất. Để<br />
được nhận các giải trên, võ sĩ phải có ít nhất 8 trận thắng trong tổng số 15 trận đấu.<br />
Một nét đặc sắc của Sumo chính là các nghi lễ truyền thống trang nghiêm, đầy màu sắc mà<br />
không có bất cứ môn thể thao nào khác có. Một trong số đó là nghi lễ Dohyo-iri, được thực<br />
hiện 4 lần trong mỗi ngày thi đấu, 2 lần cho đẳng cấp Juryo và 2 cho đẳng cấp Makuuchi.<br />
Các võ sĩ sẽ mặc Kesho-mawashi, một chiếc tạp dề được trang trí công phu bằng các hình<br />
thêu với đường viền bằng vàng và một Yokozuna sẽ thực hiện các nghi thức hướng tới thần<br />
linh và xua đuổi ma quỷ khỏi sân đấu bằng muối. Trong buổi lễ, các võ sĩ sẽ đứng thành<br />
vòng tròn và được giới thiệu tới khán giả. Một nghi lễ khác nữa là diễn ra vào cuối ngày thi<br />
đấu sau trận cuối cùng. Một Makuuchi được chọn sẽ lên sàn đấu và nhận chiếc cung từ trọng<br />
tài và thực hiện điệu múa với chiếc cung. Nghi lễ này bắt nguồn từ thời Edo khi một võ sĩ<br />
Sumo thắng trận đã được ban tặng một chiếc cung và ông đã thực hiện điệu múa này diễn đạt<br />
niềm vui chiến thắng.<br />