intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những nguyên tắc trong phân loại thực vật có hoa

Chia sẻ: Tranhoai Nam | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

404
lượt xem
117
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong hệ thống học còn dùng các bậc trung gian. Ví dụ tông (Tribus) là bậc giữa họ và chi. Nhánh (Sectio) và loạt (Serio) trung gian giữa chi và loài. Thứ (Varietas) và dạng (Forma) là dưới loài. Trong phân loại thực vật hay dùng đối với bậc phụ khác, thường thêm bằng tiếp đầu ngữ super là liên và sub là phân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những nguyên tắc trong phân loại thực vật có hoa

  1. Chương 5. Những nguyên tắc trong phân loại Nguyễn Nghĩa Thìn Thực vật có hoa NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2006. Tr 55 – 67. Từ khoá: Ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài. Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và tác giả. Mục lục Chương 5 NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG PHÂN LOẠI.......................... 3 5.1 CÁC BẬC PHÂN LOẠI VÀ TÔN TI TRẬT TỰ CỦA CHÚNG ........ 3 5.2 CÁCH GỌI TÊN................................................................................. 4 5.2.1 Các nguyên tắc chung ................................................................... 5 5.2.2 Nguyên tắc công bố tên gọi ........................................................... 5 5.3 CÁC LOẠI MẪU CHUẨN (TYPUS) TÊN GỌI ................................. 6 5.3.1 Mẫu chuẩn tên gọi (typus)............................................................. 6 5.3.2 Mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài........................ 7 5.3.3 Các loại mẫu chuẩn....................................................................... 7 5.4 NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN................................................................... 8
  2. 5.4.1 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn bị chia nhỏ ......................... 9 5.4.2 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn chuyển vị trí....................... 9 5.4.3 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi liên kết các taxôn....................... 10 5.4.4 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi thay đổi bậc taxôn ..................... 10 5.5 BÃI BỎ TÊN GỌI............................................................................. 11 5.6 TÊN GỌI CỦA CÁC TAXÔN .......................................................... 12 5.6.1 Tên gọi các taxôn trên bậc chi ..................................................... 12 5.6.2 Tên chi và các phân hạng của nó ................................................. 12 5.6.3 Tên loài....................................................................................... 13 5.6.4 Tên gọi của taxôn dưới bậc loài................................................... 14 5.7 TRÍCH DẪN TÊN TÁC GIẢ VÀ CÁC TÀI LIỆU KÈM THEO TÊN GỌI ................................................................................................... 14 5.7.1 Trích dẫn tên tác giả .................................................................... 14 5.7.2 Một số chỉ dẫn cần thiết cho việc trích dẫn tên tác giả ................. 14 5.8 LUẬT CHÍNH TẢ VỀ TÊN GỌI VÀ DẤU VĂN PHẠM VỀ TÊN CHI .......................................................................................................... 15 5.8.1 Luật chính tả về tên gọi và các tính ngữ ...................................... 15 5.8.2 Giống văn phạm của tên chi cần xác định bằng cách ................... 16 5.8.3 Cách viết tên tác giả .................................................................... 16 5.8.4 Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi .............................. 17
  3. 3 Chương 5 NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG PHÂN LOẠI 5.1 CÁC BẬC PHÂN LOẠI VÀ TÔN TI TRẬT TỰ CỦA CHÚNG Giới thực vật - Regnum: Vegatabile trong giới chia ra các đơn vị − Ngành - Divisio (Phylum) − Lớp - Classis − Bộ - Ordo − Họ - Familia − Chi - Genus − Loài - Species Trong hệ thống học còn dùng các bậc trung gian. Ví dụ tông (Tribus) là bậc giữa họ và chi. Nhánh (Sectio) và loạt (Serio) trung gian giữa chi và loài. Thứ (Varietas) và dạng (Forma) là dưới loài. Trong phân loại thực vật hay dùng đố i với bậc phụ khác, thường thêm bằng tiếp đầu ngữ super là liên và sub là phân. Ví dụ phân lớp Mộc lan: Subclassis Magnoliideae, liên bộ Bông: Superordo Malvanae. Bảng 5.1. Các bậc theo luật quốc tế về tên gọi Đuôi của các bậc trên Bậc của Taxôn (tiếng La Tinh) Ví dụ chi Divisio (Phylum) Ngành Magnoliophyta -phyta Classis Lớp Magnoliopsida -opsida Subclasis Phân lớp Magnolidae -idae Ordo Bộ Magnoliales -ales Subordo Phân bộ Magnolinae -inae Familia Họ Magnoliaceae -aceae Subfamilia Phân họ Magnolioideae -oideae Tribus Tông Magnolieae -eae Subtribus Phân tông Magnoliineae -ineae Genus Chi Magnolia -us, -a, um (on)
  4. 4 5.2 CÁCH GỌI TÊN Để có sự thống nhất trong phân loại và để trao đổi thông tin giữa các nhà khoa học luật tên gọi thực vật được hình thành. Cùng với sự gọ i tên còn có sự thống nhất các thuật ngữ của các taxôn. Việc đặt tên cho thực vật trước đây rất tuỳ t iện vì vậy cần có sự thống nhất. Luật được đặt ra với mục đích là để thống nhất cách gọ i tên, tránh nhầm lẫn và để bãi bỏ các tên gọi cũ chưa đúng, tránh cho tác giả đặt tên thừa, không cần thiết. Luật gọi tên được bắt đầu năm 1753 do Linnê xây dựng. Từ nửa sau kỷ 18 đã chỉ rõ nhiều nghiên cứu phát hiện rất nhiều loài mớ i nhưng ở mỗ i nước có một cách đặt tên gọ i khác nhau, trong lúc cách đặt tên của Linnê chưa phổ biến. Do đó gặp rất nhiều khó khăn. Năm 1867 De Candolle đề xướng nguyên tắc đặt tên cây trên cơ sở cách đặt tên của Linnê. Đến nay đã hơn 16 đại hộ i về thực vật, để sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh luật đó cho nên nộ i dung cơ bản của bộ luật được coi là hoàn thiện. − Đại hộ i lần 1 năm 1867 ở Paris (Pháp) − Đại hộ i lần 2 năm 1906 ở Viên (Áo) − Đại hộ i lần 3 năm 1910 ở Brucxen (Bỉ) − Đại hộ i lần 4 năm 1930 ở Kembrit (Mỹ) − Đại hộ i lần 5 năm 1935 ở Amxtecđam (Hà Lan) − Đại hộ i lần 6 năm 1950 do Spargue sửa chữa luật Amxtecdam − Đại hộ i lần 7 năm 1950 ở Stôckhôm (Thụy Điển) − Đại hộ i lần 8 năm 1954 ở Paris (Pháp) − Đại hộ i lần 9 năm 1959 ở Môngtrêan (Canađa) − Đại hộ i lần 10 năm 1964 ở Êdinbua (Anh) − Đại hộ i lần 11 năm 1969 ở Sietưn − Đại hộ i lần 12 năm 1975 ở Lêningrát (Nga) − Đại hộ i lần 13 năm 1981 ở Sitni (Úc) − Đại hộ i lần 14 năm 1986 ở Beclin (Đức) − Đại hộ i lần 15 năm 1993 ở Tokyo (Nhật Bản) − Đại hộ i lần 16 năm 1999 ở Xanh Louit (Mỹ)
  5. 5 5.2.1 Các nguyên tắc chung 1. Tên gọ i thực vật không phụ thuộc vào tên gọi động vậtBộ luật áp dụng cho tất cả thực vật, không liên quan việc lúc đầu nhóm đó có thuộc thực vật hay không. 2. Việc sử dụng tên gọi của các nhóm phân loại được xác định nhờ mẫu chuẩn danh pháp. 3. Tên gọi các nhóm phân loại dựa theo nguyên tắc ưu tiên trong khi công bố. 4. Mỗi nhóm phân loại có giới hạn, vị trí và bậc nhất định, không kể các ngoại lệ quy định cụ thể, chỉ có thể có 1 tên đúng đắn duy nhất, đó là tên có sớm nhất và hợp với quy tắc. 5. Tên khoa học của các nhóm phân loại đều được coi là tên La tinh không phụ thuộc vào xuất xứ của nó. 6. Quy tắc của tên gọi có tác dụng nghịch đảo nếu như chúng không được quy định giới hạn riêng (Những tên hợp pháp, hợp với luật thì được dùng và ngược lại). 5.2.2 Nguyên tắc công bố tên gọi 5.2.2.1 Điều kiện và niên hiệu công bố thực tế Sự công bố thành thực tế chỉ khi nào phát hành bản in: bán, trao đổi cho đại chúng, hoặc ít nhất cùng cho cơ quan thực vật có thư viện lớn để cho các nhà thực vật đọc được. Sự công bố không thể tiến hành bằng cách thông báo tên mới trong hộ i nghị, niêm yết các tên đó trong tập mẫu vật, hay trong vườn bách thảo cho quần chúng xem, cũng không thể phát hành bằng các ảnh chụp, bản viết tay, đánh máy hoặc các tài liệu chưa in khác không phải là sự công bố thực tế. Tài liệu phả i in tipo. Các quy định ngoại lệ : − Nếu trước 1 - 1 - 1953 thì sự công bố các bản thảo của các công trình chuyên khảo được coi là công bố thực tế. − Kể từ 1 - 1 - 1953 thì sự công bố các tên mới trong danh phiếu thương mại, báo chí thông báo định kỳ không phải báo khoa học hoặc danh mục, không phải là công bố thực tế. − Niên hiệu của sự công bố thực tế là niên hiệu của bản in được phát hành, khi thiếu các dẫn chứng của các niên hiệu khác thì niên hiệu chính là niên hiệu ghi ở tờ bìa (đầu).
  6. 6 5.2.2.2 Điều kiện và năm công bố hữu hiệu Tên taxôn muốn được công nhận là công bố hữu hiệu cần được công bố thực tế và có dạng phù hợp với quy chế (tên loài 2 từ...) có kèm theo bản mô tả taxôn bằng tiếng La tinh hoặc là dựa vào 1 bản công bố cũ được coi là bản công bố thực tế. Kể từ 1 - 1 - 1953 thì tập hợp tên mới hoặc tên gọi mới của taxôn nào đấ y được coi là công bố hữu hiệu chỉ khi nào được chỉ rõ tên gốc (basionym) hoặc tên đồng loại thay thế và có nêu đầy đủ trích dẫn về sự công bố đầu tiên với sự chỉ rõ số trang hay bản vẽ và niên hiệu công bố. Kể từ 1 - 1 - 1953 khi công bố tên gọi mới mà không chỉ rõ bậc taxôn chứa taxôn đó không phải là tên được công bố hữu hiệu. Kể từ 1 - 1 - 1935 thì sự công bố tên của các taxôn thực vật được coi là hữu hiệu nếu có bản mô tả La tinh kèm theo hoặc dựa vào bản mô tả cũ. Kể từ 1 - 1 - 1958 sự công bố tên gọi các taxôn mới từ họ trở xuống được coi hữu hiệu chỉ khi nó chỉ rõ typ tên gọi taxôn. Typ tên gọi ghi ở mỗ i bản mô tả La tinh, kèm theo mẫu chuẩn (holotypus) và địa điểm lưu trữ nó. Ví dụ: HNU chẳng hạn (Phòng mẫu cây khô Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội). Hiện nay có xu hướng mở rộng điều này cho tới các taxôn lớn hơn họ. 5.2.2.3 Tên gọi hợp pháp, không hợp pháp và tên gọi đúng đắn Tên gọ i hợp pháp là tên phù hợp với quy tắc, ngược lại là tên gọ i không − hợp pháp. Tên gọ i đúng đắn của taxôn khi nó có giới hạn vị trí bậc xác định là tên gọ i − hợp pháp theo quy tắc (tức là những tên gọ i hợp pháp sớm nhất được dùng làm tên chính thức). Nó là tên chính thức cho taxôn đó. 5.3 CÁC LOẠI MẪU CHUẨN (TYPUS) TÊN GỌI 5.3.1 Mẫu chuẩn tên gọi (typus) Mẫu chuẩn của tên gọ i là một thành viên của taxôn. Tên của một taxôn luôn luôn liên quan tới thành viên đó, bất luận tên gọi ấy là chính thức hay đồng loại. Mẫu chuẩn của tên gọ i không nhất thiết phải là phần đặc sắc nhất hay điển hình nhất của taxôn, nó chỉ là thành viên luôn liên quan tới tên gọi. Mẫu chuẩn tên gọi của chi và các bậc giữa chi và loài là 1 loài.
  7. 7 Mẫu chuẩn tên gọi của họ và các taxôn giữa họ chi là 1 chi. Nếu tên chi cũ của nó đã thay đổ i thì tên hiện dùng thay thế tên cũ trước đây và tên chi đó vẫ n được coi là tên chuẩn của taxôn đó. Ví dụ: Mẫu chuẩn họ Rosaceae là chi Rosa Mẫu chuẩn phân họ Rosoideae là chi Rosa Mẫu chuẩn họ Winteraceae là chi Drymis vì chi này trước đây mang tên là Wintera. Mẫu chuẩn chi Hydrangea là loài Hydrangea arborescens. Tất cả các mẫu chuẩn taxôn trên họ đều là chi. 5.3.2 Mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài Đó là một vật mẫu = tiêu bản mà trên cơ sở vật mẫu đó để mô tả và công bố tên loài hay các taxôn trong loài như là một tên mới cho khoa học. Vật làm mẫu chuẩn của một taxôn hiện đại trừ Vi khuẩn và Nấm cần được bảo quản ở trạng thái cố định, vật mẫu đó không phải là cây sống hay đem trồng. Đối với loài hay taxôn trong loài mà vật mẫu chuẩn không thể bảo quản thì mẫu chuẩn của nó có thể là bản mô tả hoặc hình vẽ. 5.3.3 Các loại mẫu chuẩn Các loại mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài được chia ra. − Mẫu chuẩn chính thức (Typus = Holotypus): Mẫu chuẩn chính thức còn gọ i là Mẫu chuẩn đầy đủ (holotypus) là mẫu quý nhất đối với tên gọi taxôn. Nó luôn luôn là một bản vật mẫu hay các phần của mẫu được tác giả của taxôn coi là mẫu chuẩn tên gọi. Nó là mẫu chuẩn tên gọ i thực tế, luôn luôn liên quan tới tên gọ i taxôn. Chừng nào nó còn được bảo quản thì tên gọ i taxôn đó còn được dùng. Ví dụ: Loài B. baviensis Fin. et Gagnep. được viết là: Typus: Tonkin, Sơn Tây, Ba Vì; Balansa 1021 (P), có nghĩa là: mẫu chuẩn là vật mẫu thu ở Tonkin (Bắc Bộ), Sơn Tây, Ba Vì; (người thu) Balansa (số hiệu) 1021 (bảo quản) ở Pari (P). − Đồng mẫu chuẩn (Isotypus hay Isoholotypus) (bản sao) Đó là các mẫu hoàn toàn giống như mẫu chuẩn chính thức: lấy cùng cây, cùng số hiệu, cùng ngày, do cùng người lấy nhưng không phải là mẫu chuẩn chính thức. − Mẫu chuẩn kèm (Paratypus)
  8. 8 Là các vật mẫu không cùng số hiệu với mẫu chuẩn nhưng được nhắc đến trong bản mô tả đầu tiên, tức là những mẫu đó cũng được tác giả xem xét khi mô tả taxôn mới đó. − Liên mẫu chuẩn hay mẫu chuẩn tập hợp (syntypus) Là một trong hai hoặc nhiều vật mẫu dùng làm cơ sở cho bản mô tả đầu tiên nếu tác giả taxôn không chỉ rõ vật mẫu nào là mẫu chuẩn chính thức (holotypus). Hay nói cách khác liên mẫu chuẩn là một trong hai hay nhiều vật mẫu nguyên bả n mà tất cả các vật mẫu đó đều được coi là mẫu chuẩn. Khi đó sau bản mô tả không ghi mẫu chuẩn. Ví dụ: sau khi mô tả loài mới tác giả mô tả chỉ ghi: Tonkin, Sơ n Tây, Ba Vì, Balansa, 1021 (P), Petelot 5603 (HNU), Bon 12 (HM) có nghĩa là loài mới đó lấy ở Bắc Bộ, núi Ba Vì do Balansa lấy với số hiệu 5603, lưu giữ ở Bảo tàng Pari, do Pêtêlô lấy với số hiệu 5603, lưu giữ tại Phòng mẫu cây khô Đại học Quốc gia Hà Nộ i và do Bon lấy với số hiệu 12, lưu giữ tại Bảo tàng thực vật thành phố Hồ Chí Minh. − Mẫu chuẩn chọn lọc (Lectotypus) Là vật mẫu được chọn làm mẫu chuẩn tên gọ i trong số những vật liệu nguyên bản nhưng không phải do tác giả taxôn lựa chọn mà do người nghiên cứu sau đó lựa chọn. Nó chỉ được lựa chọn khi tác giả bản mô tả đầu tiên không chỉ rõ mẫu chuẩn hoặc khi mẫu chuẩn của taxôn bị mất hoặc bị phá hủy. Nên chọn mẫu chuẩn chọn lọc chỉ khi hiểu kỹ về loài đó và khi đã có đầy đủ những tư liệu nguyên bản. − Mẫu chuẩn thay thế (Neotypus) Là vật mẫu được chọn làm mẫu chuẩn tên gọ i để bảo tồn tên gọi taxôn vì đã mất toàn bộ vật mẫu nguyên bản. Thông thường vật mẫu được chọn phải lấy tạ i những địa điểm của các vật mẫu nguyên bản và do đặc điểm giống với bản mô tả gốc. Nếu sau khi công bố Neotypus mới phát hiện vẫn còn tư liệu nguyên bản thì có thể bãi bỏ Neotypus để chọn một trong số các vật mẫu nguyên bản đó làm mẫu chuẩn chọn lọc vì mẫu chuẩn chọn lọc bao giờ cũng có giá trị hơn mẫu chuẩn thay thế. 5.4 NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN Đối với các taxôn từ họ đến chi thì tên gọi đúng đắn nhất là tên hợp pháp đầu tiên đã công bố hữu hiệu chính cho bậc đó. Tên gọi đúng đắn nhất các taxôn dưới chi là tập hợp tên hợp pháp đầu tiên đã công bố hữu hiệu cho bậc đó cùng với tên chi đúng đắn cho chi đó hoặc loài đó hay taxôn thấp hơn có chứa taxôn đang xét.
  9. 9 5.4.1 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn bị chia nhỏ a) Đối với chi: Nếu một chi bị chia thành hai hay nhiều chi thì tên gọ i ban đầu của nó cần được giữ lại cho một trong các chi mới hoặc trong trường hợp nếu nó không được giữ lại thì các tác giả nghiên cứu về sau phải khôi phục lại. Vì vậy các loài vừa được tách ra của chi cũ nào đó thì nay chi nào mang tên cũ phải chứa mẫu chuẩn đó. Nếu trước đây chưa quy định mẫu chuẩn thì nay cần phải chọn. Ví dụ : Chi Dicera Forster & Forster f. (1776) đến 1918 thì Rafinesque chia ra thành hai chi là Misipus và Skidanthera việc này không đúng với luật vì tên Dicera của Forster & Forster f. đã bị bác bỏ mà theo luật nó cần được giữ lại cho một trong hai chi ấy. Hiện nay, Dicera được phục hồ i cho phần chứa loài mẫu chuẩn chọn lọc D. dentata b) Đối với loài: Nếu một loài bị chia hai hay nhiều loài thì tính ngữ loài ban đầu cần được giữ lại cho một trong hai loài mới. Nếu chưa được giữ lại thì phải khôi phục lại. Nếu vật mẫu, bản mô tả hay hình vẽ nào đó trước đây quy định là mẫu chuẩn của loài thì tính ngữ loài cũ được giữ cho loài còn chứa mẫu chuẩn đó. Nếu mẫu chuẩn chưa có thì cần phải chọn. Ví dụ: Năm 1880 Hoffmann chia loài Juncus articulatus L. thành hai loài: J. lampocarpus (1), J. acutiflorus. Việc cho tên này không phù hợp vì tính ngữ loài cũ articulatus đã bị bỏ mất. Do đó tên loài J. articulatus cần được phục hồ i và nó đã thay cho loài (1) vì nó chứa mẫu chuẩn. c) Quy tắc áp dụng cho các taxôn trong loài Nếu phân loài bị chia thành hai hay nhiều phân loài khác, hoặc thứ chia ra nhiều thứ khác v.v. thì tên gọi cũ vẫn được giữ lại cho một trong các taxôn đó. 5.4.2 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn chuyển vị trí a) Nếu loài chuyển vào chi khác hoặc tên chi cũ đổi thành tên khác nhưng không thay đổ i bậc thì tính ngữ loài hợp pháp cần được giữ lại hoặc trong trường hợp nó chưa được giữ lại thì phải khôi phục lại, nếu nó không gặp các trở ngại sau: − Tên ghép đôi nhận được là tên đồ ng âm hoặc đặt tên muộ n Trước đây đã có tính ngữ loài hợp pháp − Ví dụ : tên chi cũ đổ i thành tên chi mới.
  10. 10 Họ Euphorbiaceae có chi Prosarstema nay đổ i tên Trigonostemon t ất cả các loài có tính ngữ Prosarstema phả i chuyển sang tính ngữ Trigonostemon. Loài Prosarstema stellais Gagnep. chuyển thành Trigonostemon stellaris (Gagnep.) Airy Shaw. Khi Uvaria tonkinensis trong họ Annonaceae được chuyển sang chi mớ i Melodorum, do trong chi Melodorum trước đó đã có loài M. tonkinense nên U. tonkinensis không thể đổi thành M. tonkinense mà phải cho nó một tên mới: M. vietnamense. b) Các nguyên tắc tương tự như trên cũng áp dụng cho các taxôn giữa chi và loài hoặc taxôn dưới loài. 5.4.3 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi liên kết các taxôn Khi ghép hai ho ặc nhiều taxôn cùng bậc thì giữ lại tên hoặc tính ngữ hợp pháp cũ nhất. Nếu các taxôn được ghép có cùng một nă m công bố t hì tác giả nào tiến hành việc ghép tên có quyền chọ n một trong nhiều tên hay tính ngữ đó, việ c lựa chọ n đó được chấp nhận. Ví dụ: Schuman (1890) ghép 3 chi là Sloanea L. (1753), Echinocarpus Blume (1825) và Phoenicosperma Miq. (1865) tên được chọn phải là Sloanea L. vì đây là tên công bố hợp pháp sớm nhất Linnê 1753 công bố hai loài: Verbesina alba L. và Verbesina prostrata L. và đến năm 1771 ông gộp lại và đặt tên là Eclipta erecta L.. Việc thay đổ i này trái với luật tên gọi vì Eclipta erecta L. là tên gọi thừa bởi lý do nó không phải một trong hai tên trên. Hai loài này đã được Roxburgh (1832) thừa nhận là 1: Eclipta prostrata (L.) L. được lựa chọn cho nên đây là tên gọ i đúng đắn khi nhập hai loài trên. 5.4.4 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi thay đổi bậc taxôn a) Nếu đổi bậc của chi hay các taxôn trong chi thì, tên gọi hoặc tính ngữ đúng đắn phải là tên hay tính ngữ hợp pháp sớm nhất đã có. Bậc mới tên gọ i hoặc tính ngữ không bao giờ có sự ưu tiên cho những từ ở ngoài bậc vốn có của mình. Ví dụ: Nhánh Campanopsis R. Br. (1810) thuộc chi Campanula nhưng khi chuyể n lên thành bậc chi thì tên chi này cần gọ i là Wahlenbergia Shrad. et Roth (1821) chứ không phải là Campanopsis (R.Br) Kuntze 1891 vì tên gọi Campanopsis tuy xuất hiện 1810 nhưng là nhánh chứ không phải là chi. b) Nếu taxôn trên bậc chi nhưng dưới bậc họ mà thay đổ i bậc thì gốc tên gọ i cần giữ lạ i mà chỉ thay đổ i phần đuôi. Nếu tên nhận được không bị bãi bỏ theo luật hiện hành.
  11. 11 Ví dụ: Phần họ Viscoideae (trước xếp vào họ Loranthaceae) nay chuyển lên họ lấy tên là: Viscaceae. Trong họ mộc lan Magnoliaceae có phân họ Liriodendroideae chuyển thành họ Liriodendraceae. 5.5 BÃI BỎ TÊN GỌI a) Không được bãi bỏ tên gọ i hợp pháp hoặc tính ngữ hợp pháp nếu chỉ vì nó không được chọn lọ c kỹ hoặc khó gọ i, hoặc vì tên khác tốt hơn, được nhiề u người biết hoặc tên tính ngữ đã bị mất ý nghĩa ban đầu của nó. Ví dụ: Khi đổ i các chi Staphylea → Staphylis, Tamus → Thamus hay Thamos việc đổ i này sai. Khi đổ i tên loài: Ardisia quinquegona → A. pentogona vì từ quinquegona là từ lai nhưng việc đổ i đó là không đúng hay Alphonsea macrophylla kích thước lá 25 x 10 (lá lớn) do định tên sai nên khi chuyển sang chi Fissistigma thì có tên là Fissistigma macrophylla mặc dù trong chi này các loài đều có lá lớn hơn rất nhiều từ 35 - 50 x 15 - 20 cm, do đó ý nghĩa lá lớn không còn nữa nhưng tên đó vẫn đúng. b) Tên gọi là không hợp pháp và cần bãi bỏ trong các trường hợp Nếu về mặt tên gọ i việc công bố nó là thừa. Ví dụ: tên chi Cainito Adans. − (1763) là tên thừa so với tên Chrysophyllum L. (1753) bởi vì cả hai tên này đều có giới hạn hoàn toàn giống nhau. Nếu nó là tên đồng âm có muộn, nghĩa là lắp lạ i một tên hữu hiệu của − nhóm cùng bậc nhưng dựa vào một mẫu chuẩn khác. Ví dụ: Melodorum Hook. f. et Thoms. (1862) dựa vào mẫu chuẩn M. grandiflorum, đây là đồng âm của tên chi Melodorum Lour. (1790) dựa vào mẫu chuẩn M. arboreum. Do đó tên thứ nhất bị bãi bỏ vì Loureiro (Lour.) công bố sớm hơn. Tên của hai phân hạng của một chi hoặc của hai taxôn trong loài của cùng 1 loài (kể cả khi chúng khác bậc) bị coi là tên đồng âm nếu chúng có cùng tính ngữ dù không cùng một mẫu chuẩn. Nhưng cùng mộ t tính ngữ có thể dùng cho các phân hạng khác nhau của các chi khác nhau hoặc cho các taxôn dưới loài khác nhau. Ví dụ: tính ngữ đen - nigrum: Chi A có loài A. nigrum (đây không phải là tên đồng âm) dù B có loài B. nigrum Nếu trong chi A có: A. macrophyllum var. nigrum thì A. nigrum cũng không phải tên đồng âm Nếu đó là tên của một taxôn mà khi chuyển từ giới động vật → thực vật − mà đồng âm với taxôn thực vật.
  12. 12 Nếu việc sử dụng nó trong các nghĩa khác tên đó trở thành nguồn gốc của − sự nhầm lẫn. Ví dụ: Tên Lavandula picta L. (1753) có liên quan tới hai loài sau đó được viết L. angustifolia Mill. và L. latifolia Vill.. Tên gọi L. picta gần như được dùng chỉ cho cả hai loài trên nên nó trở thành tên hai nghĩa, do đó tên đó bị bãi bỏ. − Nếu nó dựa vào mẫu chuẩn gồ m hai hay nhiều thành phần hoàn toàn khác nhau mà không một thành phần nào hoàn toàn chọn làm thành phần thích hợp. Ví dụ: Các đặc điểm của chi Actinoticus Liv (1888) lấy từ hai chi Aesculus và Viburnum vì người thu mẫu đã ghép cụm hoa của Viburnum vào chồi ngọn của một loài thuộc chi Aesculus. Vì vậy tên Actinoticus cần bãi bỏ. c. Nếu nó dựa vào hiện tượng quái dị mẫu do sâu bệnh làm biến dị. 5.6 TÊN GỌI CỦA CÁC TAXÔN 5.6.1 Tên gọi các taxôn trên bậc chi Ngành, phân thành, lớp, phân lớp, bộ, phân bộ, họ, phân họ, tông, phân tông. Mỗi bậc có các đuôi tương ứng: -phyta, -phytina, -opsida, -ideae, -ales, -inae, - aceae, -oideae, -eae, -inae. 5.6.2 Tên chi và các phân hạng của nó a) Tên chi: tên chi là một danh từ số ít hoặc một chữ nào đó được coi là danh từ những tên này có thể lấy bất kỳ, thậm chí có thể cấu tạo hoàn toàn tùy ý. Ví dụ: Rosa xuất phát từ Ros (màu hồng); Convolvulus (đừng sờ mó); Teonogia (cây Teo nồng). b) Tên chi không trùng với danh từ kỹ thuật, trừ khi nó công bố trước 1-1- 1912 và ngay từ đầu nó đã kèm theo tính ngữ chỉ loài hợp pháp theo phương pháp ghép đôi của Linnê. Các từ: Radix rễ Caulis thân không dùng đặt cho tên chiFolium láSpina gai c) Tên chi không thể gồ m hai từ, nếu có hai từ thì nên viết liền lại: Quisqualis, Pseuduvaria (do viết liền nên được dùng) hoặc nố i bằng gạch nố i : Neo - uvaria. d) Chỉ dẫn : Khi đặt tên chi nên cố gắng dùng đuôi La tinh và cố tránh các tên khó La tinh hóa. Không đặt tên chi bằng tên người hoàn toàn không liên quan tớ i
  13. 13 thực vật, hóa học hoặc ít nhất với khoa học tự nhiên. Khi sử dụng tên người làm tên chi thì dù đàn ông hay bà thì tên La tinh vẫn là cấu tạo giống cái. e) Tên phân hạng của chi: Là một tập hợp gồ m tên chi và tính ngữ của phân hạng, liên kết với nhau bằng thuật ngữ chỉ bậc. Tính ngữ phải phù hợp về giố ng và số như tên chi hoặc tính từ số nhiều hợp văn phạm với tên chi và được viết hoa. Ví dụ: Costus subg. Metacostus Euphorbia sect. Tithymalus f) Tính ngữ của phân chi (Subgenus) hoặc nhánh (Sectio) không thể lấy từ tên chi chứa chúng để thêm các tiếp vĩ ngữ o ides hoặc opsis hoặc tiếp đầu ngữ Eu. g) Phân chi hoặc nhánh chứa loài chuẩn của chính chi ấy thì tính ngữ nhắc lạ i đúng tên chi, không cần thay đổ i nhưng tên gọ i không có tác giả. Ví dụ: phân chi của chi Malpighia L. có chứa mẫu chuẩn của chi là loài M. glabra sẽ được gọ i là: Malpighia L. subg. Malpighia. 5.6.3 Tên loài a) Tên loài là một tên ghép đôi gồ m tên chi kèm theo tính ngữ loài nếu tính ngữ gồ m hai hay nhiều từ thì chúng cần thiết viết liền lại hoặc liên kết với nhau bằng dấu gạch nố i. Các tính ngữ ngay từ khi công bố không liên kết với nhau lạ i hoặc nối với nhau thì không bị bãi bỏ nhưng khi viết cần viết liền lại hoặc thêm dấu nố i. Tính ngữ loài có thể lấy bất cứ nguồn nào đó, thậm chí lấy tuỳ ý. Ví dụ : Talauma gioi (cây giổ i) Piper lolot (lá lốt) Tính ngữ loài không thể lặp lại tên chi (tên loài không lặp danh) − Ví dụ: Linaria linaria là không đúng. Tính ngữ loài không được cấu tạo nếu hình thức là tính từ không dùng làm − danh từ. Nếu tính từ thì phải đúng với văn phạm của tên chi (hợp về giống và số). Ví dụ: Helleborus niger (đực) Brassica nigra (cái) Verbasinum nigrum (chung). Họ tên người đàn ông, đàn bà, đất nước, địa điểm khi dùng làm tính ngữ − loài có thể viết dưới dạng danh từ cách hai hoặc dưới dạng tính từ. Ví dụ: Clusii (tên người là Clus) danh từ cách 2, clusianus (tính từ); locii (GS. P. K. Lộc) (danh từ), lociana (tính từ). b) Chỉ dẫn: Khi cấu tạo tính ngữ loài nên tận dụng khả năng dùng đuôi La tinh, tránh các tính ngữ khá dài, khó đọc, tránh tính ngữ cùng nghĩa với tên chi, tính ngữ chỉ đặc điểm chung cho tất cả hoặc hầu hết loài của chi đó. Tránh các tính ngữ quá giố ng nhau. Tránh công bố lại tên dự kiến mới ghi ở bìa tiêu bản.
  14. 14 Tránh dùng tính ngữ tên địa điểm quá bé ít người biết đến trừ khi loài đó là đặc hữu với địa phương đó. 5.6.4 Tên gọi của taxôn dưới bậc loài a) Tên các taxôn trong loài là một tập hợp gồm tên loài hoặc tên taxôn bậc loài nào đấy và tính ngữ chỉ taxôn đó và chúng liên kết với nhau nhờ thuật ngữ chỉ bậc. Tính ngữ trong loài cấu tạo như t ính ngữ loài. Nếu chúng có dạng tính từ không dùng làm danh từ thì chúng hợp văn phạm với tên chi. Ví dụ: Andropogon ternatus subsp. macrothrix b) Tên gọ i của taxôn trong loài có chứa mẫu chuẩn của loài sẽ có tính ngữ giống hệt tính ngữ của loài và không có tên tác giả. Mẫu chuẩn của taxôn trong loài đó cũng đúng là mẫu chuẩn taxôn của loài. Nếu tính ngữ của loài thay đổ i thì mẫu chuẩn của loài cũng cần thay đổ i theo. Lobelia spicata var. originalis một thứ có chứa mẫu chuẩn của loài là L. spicata Lam. thì cần phải đổ i thành L. spicata Lam. var. spicata. 5.7 TRÍCH DẪN TÊN TÁC GIẢ VÀ CÁC TÀI LIỆU KÈM THEO TÊN GỌI 5.7.1 Trích dẫn tên tác giả Để việc trích dẫn tên taxôn đầy đủ, đúng đắn, dễ kiểm tra cần ghi họ tên tác giả đầu tiên công bố tên gọi đó. Quy ước viết tên tác giả sau tên taxôn thì viết tắt trừ khi tên tác giả quá ngắn 1 âm tiết. Khi viết tắt giữ âm tiết đầu. Những tác giả có cùng họ hoặc họ giống nhau phải có ký hiệu phân biệt. Fries → Fr. ; Robert Brown → R. Br.; Alexander Brown → A. Ví dụ: Br. ; Micheli → Mich. ; De Candolle → DC.; Michaux → Michx.. Ví dụ: Monocatum Naud Ann. Sci. . III.4 : 48 pl 2. 1845; hoặc có thể viết: Monocatum Naud... seri 3.4. 48. pl 2 (1845). Có thể chuyển niên hiệu lên sát tên tác giả. 5.7.2 Một số chỉ dẫn cần thiết cho việc trích dẫn tên tác giả Khi trích dẫn tên gọ i đã công bố với tên đồng loại cần thêm bên cạnh tên đó chữ Prosyn hoặc Synonym. Nếu tác giả công bố tên đồng lo ại lấy từ bản thảo của người khác cần dùng chữ et để liên hệ tên gọi hai tác giả.
  15. 15 Ví dụ: tên loài Myrtus serratus là tên có ghi trong bản thảo Koenig nhưng lạ i do Steud công bố với tư cách là một tên đồng loại của Eugenia laurina Willd. nên cần phải viết là Myrtus sernatus Koenig et Steud prosyn. Khi trích dẫn các tên trần (tên gọi không kèm theo bản mô tả) thì sau tên − gọi cần chỉ rõ trạng thái của nó : nom. nud (nomen nudum). Những tên gọ i do gán nhầm không đưa vào tập hợp tên đồng loại mà nên − dẫn ra ở sau cùng mà nó được chỉ bằng chữ Auct. non. Ví dụ: trong số những tên đồng loại của Altingia sinensis Craib có tên A. gracilicer Auct. non Hemsl., Lecomte, Fl. Gen. Indoch. 2. 711. 1920. Nếu tên chi được coi là tên bảo tồn cần thêm vào trích dẫn chữ Nom. Cons. − (nomen conservatum = tên bảo tồn). Ví dụ: Protea L. 1911 nom. cons., non L. 1053 − Tên gọ i viết trong t ập hợp tên đồ ng loại phải viết đúng tên tác giả công bố nó, nếu cần giải thích thêm viết trong ngoặc ( ), nếu tên đã được thừa nhận có sai khác với bản đã công bố đầu tiên thì trong phần trích dẫn đầy đủ nên bổ sung thêm dạng viết đầu tiên và để nó trong dấu ngoặc kép “ ”. Ví dụ: Alphonsea tonkinensis DC. Bull. Herb Boiss.: 107 (1904) (“tonquinensis”). 5.8 LUẬT CHÍNH TẢ VỀ TÊN GỌI VÀ DẤU VĂN PHẠM VỀ TÊN CHI 5.8.1 Luật chính tả về tên gọi và các tính ngữ Dạng ban đầu của tên gọ i và các tính ngữ cần được giữ lại trong trường hợp phải sửa các lỗ i in sai và các lỗ i chính tả do sơ ý. Tuy vậy cần thận trọng trong khi sử dụng quyền sửa đổ i tên. Đặc biệt khi sửa đổi các âm tiết đầu, nhất là các chữ cái đầu tiên. − Nếu tên gọ i củ a chi hay các phân chi, nhánh lấy t ừ t ên người cấu t ạo như thế nào? Nếu tận cùng là nguyên âm a thì thêm ea: Colla → Collaea; Nếu tận cùng là phụ âm → thêm ia; Nếu tận cùng là er thì thêm a → era; Nếu tận cùng là us → bỏ us thêm vào a: Dillenius→ Dillenia. Cấu tạo tính ngữ loài: − Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm thêm i: glariou → glarioui;
  16. 16 Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm a thêm e: balansa → balansae; Nếu tên người tận cùng bằng phụ âm thêm ii (bon → bonii); Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm er thêm i (Hooker → hookeri). Tên người có thể → dạng danh từ (Lasiococca locii), dạng tính từ (Schefflera lociana) hoặc số nhiều Clemens → Clementorum Các tính ngữ lấy từ tên địa phương thường giữ lại gốc chữ và thêm tiếp vị ngữ - ensis (cochinchinensis, vietnamensis) hoặc anus ( cambodianus) hoặc icus (indicus, japonicus). 5.8.2 Giống văn phạm của tên chi cần xác định bằng cách a) Các từ Hy Lạp hay La Tinh được dùng làm tên chi được giữ lại giố ng vă n phạm vốn có của mình, nếu giống văn phạm thay đổi thì tác giả cần phải chọn một trong các dạng của nó. Theo tập quán của các nhà thực vật cần coi các tên gọ i Adonis, Diospyros, Strychnos là danh từ giống cái mặc dầu giống văn phạm cổ điển của nó là giố ng đực (Diospyros rubra); tương tự như thế thuộc giố ng cái có tên: Orchilis, Stachys, mặc dầu những từ này là giống đực trong tiếng Hy Lạp và giống cái trong tiếng La Tinh. b) Các tên gọ i cấu tạo từ hai hoặc nhiều từ Hy Lạp hay La Tinh thì giố ng văn phạm của chúng là giố ng của từ cuối cùng. Ví dụ: thuộc giống đực gồ m có tên gọi có có tận cùng là codon, myces, odon, panax, pogon và stemon lấy từ tiếng Hy Lạp (Trigonostemon bonianus). Việc Linnaeus coi tên gọ i Andropogon là giố ng trung là không đúng; thuộc giống cái có tận cùng - achne, - chlamys, - daphne, - mecon, - osma gốc tên gọi lấy từ tiếng Hy Lạp (Actiondaphne obovata). 5.8.3 Cách viết tên tác giả Khi tên gọ i một taxôn có hai hay nhiều tác giả cùng công bố thì việc trích dẫn tên phải trích tất cả các tên. Trường hợp hai tác giả thì liên kết bằng et hoặc &: Finet et Gagnepain → Fin. et Gagnep. hoặc Fin. & Gagnep. Trường hợp hơn ba tác giả t hì chỉ viết tên tác giả đầu, sau đó dùng tổ hợp et al. Nếu 1 taxôn nào đó do một tác giả đề nghị nhưng chưa công bố hữu hiệu, sau đó một tác giả khác công bố hữu hiệu thì tên tác giả sau liên kết với tên tác giả trước bằng ex. Ví dụ: Gossypium tomentosum Nutt. ex Seem (loài đó được Nutt đặt tên nhưng chưa công bố hay công bố không đúng luật về sau Seem đã công bố lạ i đúng luật).
  17. 17 Nếu tên gọi có bản mô tả do một tác giả nào đó công bố trong một công trình của người khác thì tên hai tác giả này được liên kết bằng giới từ in. Ví dụ: Viburnum ternatum Redd in Sarg (Redd đã công bố loài trên đăng trong tác phẩ m của Sarg). Việc thay đổ i đặc điểm mô tả hoặc giới hạn độ lớn của taxôn nhưng vẫn giữ mẫu chuẩn thì chưa được phép thay đổ i tên gọ i. Nhưng nếu những thay đổ i này đáng kể thì có thể chỉ rõ bản chất cần đổ i bằng cách viết tắt các thành ngữ emend (hiệu chính) hay p.p. (tức là một phần trong sưu tầm mẫu cũ thuộc loài đã mô tả, phần còn lại thuộc loài khác) hoặc excl ( loại trừ) hoặc s. ampl (nghĩa rộng), s. str (nghĩa hẹp). Ví dụ: Loranthaceae tách ra, một phần thành họ Viscaceae thì tên họ khi chưa bị tách ra được viết là Loranthaceae (s. ampl.) còn họ đó sau khi đã tách một phần được viết là Loranthaceae (s. str.) Nếu tác giả chấp nhận một taxôn nào đó ở giới hạn mới đã loại trừ mẫu chuẩn taxôn ban đầu thì tên gọ i cho taxôn có giới hạn mới thuộc về tác giả nào đã công bố nó (đã loại trừ mẫu chuẩn). Ví dụ: Melodorum Lour. mẫu chuẩn M. arboreum Lour. sau khi Hook. et Thoms. loại trừ mẫu chuẩn thì tên chi Melodorum mới thuộc về Hook. et Thoms. không thuộc về Loureizo nữa → Melodorum Hook. et Thoms. non Lour. Trích dẫn tác giả khi taxôn thay đổ i vị trí hay thay đổi bậc: Ví dụ: Adelia resinosa Blume sau đó Merrill chuyển loài này vào chi Mallotus thì tên loài được viết là Mallotus resinosus (Blume) Merr., Aporosa wallichii var. yunnanensis Pax et Hoffm, về sau Metcalf đã nâng thứ cây này thành loài, tên loài mớ i được viết là A. yunnanensis (Pax et Hoffm.) Metc. 5.8.4 Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi Tên riêng của tác giả hoặc nhiều tác giả : Khi tên tác giả không viết tắt thì sau tên tác giả dùng dấu phẩy (,) khi tên tác giả viết tắt thì dùng dấu ngắt câu (.). Ví dụ cây Dâu da - Baccausea ramiflora Lour. (Loureiro). Tên sách hoặc tài liệu nghiên cứu khác: Tên sách thường viết tắt còn tên các bài báo in trong các tạp chí định kỳ thường được bỏ qua mà chỉ nhắc đến tên tạp chí. Ví dụ: tên bài báo “Các loài mới thuộc họ Thầu dầu Việt Nam” đăng trong Tạp chí Sinh học, số 4 năm 1996, trang 40, khi trích dẫn viết như sau: Tạp chí Sinh học, 4 (1996) 40. Tên tạp chí định kỳ trong phần trích dẫn kèm theo, chỉ giữ lại những chữ quan trọng và nếu cần viết tắt thì chỉ viết một âm tiết đầu nếu nó không gây nhầ m lẫn. Còn những chữ khác đều bỏ qua (giới từ, phụ ngữ) ví dụ Ann. Miss. Bot. Gard. Tên của tạp chí Annals of the Missouri Botanical Garden. Mỗ i một tạp chí
  18. 18 cần phải viết theo thứ tự tên tạp chí, tập, số, năm xuất bản, số trang. Một số tạp chí không viết tắt: Taxon, Blumea, Adansonia. Những tạp chí khác nhau thuộc các nước khác nhau bên cạnh tên tạp chí cần ghi địa điểm xuất bản Flora (Quito) Flora (Jena). Số lần xuất bản và số xeri: Nếu quyển sách nào xuất bản nhiều hơn một lầ n thì số lần xuất bản sau viết ed. 2, ed. 3, v.v. Nếu tạp chí nào xuất bản từ hai xeri trở lên và trong mỗ i xeri nhắc lại số thứ tự các tập thì các xeri sau cách xeri đầu tiên viết bằng chữ số la mã hoặc: tên sách, tên tạp chí, số xeri phân cách với nhau và phân cách với các phần khác bởi dấu chấm để biểu thị sự viết tắt. Số tập số của tập cần ghi bằng chữ số Ả Rập và để chỉ rõ hơn có thể in nét đậm hơn. Nếu tập sách không đánh số thì năm in ở tờ bìa có thể dùng như số của tập sách, số quyển phân cách với số trang, số bản vẽ bằng dấu 2 chấm (:). Phần nhỏ hoặc tập nhỏ. Nếu tập sách gồ m nhiều phần in rồi đánh số, nhất là khi số trang mỗ i tập nhỏ không theo thứ tự kế tiếp nhau thì số các phần đó đặt ngay sau số của tập cách bởi dấu hai chấm, hoặc đặt trong ( ) hoặc số viết lên trên hàng. Đố i với các tập sách có số trang được đánh số liên tục từ tập nhỏ này sang tập nhỏ khác thì việc nhắc số các tập nhỏ là không cần thiết, dễ gây nhầm lẫn. Số trang viết bằng chữ số Ả Rập trừ khi trong nguyên bản ghi bằng ký hiệu khác, nếu trích dẫn nhiều trang thì các số phân cách nhau bằng dấu phẩy (,). Nếu trích dẫn hai trang liên tiếp trở lên thì viết trang thứ nhất và trang cuối và ngă n cách bởi dấu trừ (-). Hình vẽ và bản vẽ: nếu việc nêu nó là cần thiết thì viết bằng chữ số Ả Rập. Trước đó viết bằng chữ f. hoặc fig. hoặc pl. (Plate) để chỉ rõ hơn cần viết nghiêng. Hiện nay đôi khi dùng tab. thay pl.. Niên hiệu năm công bố đặt cuối đoạn trích dẫn. Để rõ hơn phải ghi rõ ngày, tháng, năm. Niên hiệu có thể để trong dấu móc đơn ( ).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2