Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về đoạn văn: “Cúng mẹ và cơm nước xong… sang <br />
bưng khác” (trích “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi – Ngữ văn 12, <br />
tập hai). Sau đó, anh (chị) có suy nghĩ gì về vai trò của tình cảm gia đình đối với con <br />
người trong cuộc sống hiện nay?<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
“Không bao giờ xương máu phải bơ vơ<br />
<br />
Ôi sông núi nghi ngàn dặm đất<br />
<br />
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt<br />
<br />
Nguyện làm người xung kích của quê hương”<br />
<br />
(“Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm)<br />
<br />
Cái đổ máu và đổ lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ đã trở thành tiếng gọi thiêng liêng <br />
cho biết bao người con Việt Nam lấy máu xương của mình viết thành tên đất mẹ. Ở <br />
chiến trường Sài Gòn, Nguyễn Thi – một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn <br />
nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ này đã kịp ghi lại cái “xung kích của quê hương” trong <br />
một “Người mẹ cầm súng” – chị Út Tịch, trong một “Ước mơ của đất” – chị Nguyễn Thị <br />
Hạnh,… Và đặc biệt hơn cả là trong thế hệ tuổi trẻ anh hùng miền Nam với truyện ngắn <br />
“Những đứa con trong gia đình” mà điển hình là Việt và Chiến. Với ngòi bút dung dị <br />
nhưng đầy sắc sảo trong tâm lý nhân vật, truyện ngắn này lay động lòng người bởi tất cả <br />
sự đau thương, mất mát và những tình cảm gia đình sâu nặng… Mà có lẽ, đoạn văn dù rất <br />
ngắn nhưng đong đầy cảm xúc hơn cả là đoạn hai chị em bưng bàn thờ ba má qua gửi nhà <br />
chú Năm trước lúc lên đường nhập ngũ: “Cúng mẹ và cơm nước xong… sang bưng khác.”<br />
<br />
Nếu sự nghiệp chiến đấu và sáng tác của Nguyễn Trung Thành gắn liền với âm vang <br />
cồng chiêng của mảnh đất Tây Nguyên; với Tô Hoài là đất Tây Bắc “xa vút mờ” thì <br />
Nguyễn Thi – một người con đất Nam Định lại gắn bó như máu thịt với miền đất Nam <br />
Bộ đầy ắp nghĩa tình và trở thành “nhà văn của người nông dân Nam Bộ”. Chiến trường <br />
ác liệt miền Nam đã tôi luyện một “tay súng” trong “tay bút” của Nguyễn Thi mà theo lời <br />
chia sẻ của ông thì: “Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính, nếu gặp gay go, tôi <br />
có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm súng và bóp cò. Tôi cần cái không khí của chiến <br />
dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được…”. Chính cuộc đời nhiều bất hạnh, hoàn cảnh <br />
riêng đầy éo le đã tạo nên ở Nguyễn Thi một tâm hồn đầy suy tư, hiểu đời, hiểu người <br />
sâu sắc và giàu ân nghĩa thủy chung để “trút hết những tình cảm với đất Nam Bộ vào <br />
trang viết của mình”. Ngòi bút Nguyễn Thi vừa giàu chất hiện thực lại đằm thắm trữ tình <br />
đã khắc họa nên những nhân vật có tính cách mạnh mẽ, trung hậu, căm thù giặc sâu sắc <br />
mà cũng rất đỗi hồn nhiên… Dồn tụ bút lực của mình trong những ngày kháng Mĩ ác liệt <br />
năm 1966, Nguyễn Thi đã cho ra đời “Những đứa con trong gia đình” – một trong những <br />
truyện ngắn xuất sắc nhất của ông và của cả nền văn xuôi Việt Nam thời kỳ này. Với <br />
biệt tài phân tích tâm lý con người, Nguyễn Thi đã thâm nhập sâu vào nội tâm nhân vật để <br />
tạo nên trang viết đầy cảm xúc như đoạn bưng bàn thờ của hai chị em ở gần cuối tác <br />
phẩm. Sau khi được chú Năm ủng hộ xin anh cán bộ tuyển quân ghi tên cho đi tòng quân <br />
cùng một đợt, chị em Chiến, Việt cắt đặt chu đáo mọi công việc trong nhà.<br />
<br />
Buổi sáng trước ngày lên đường, hai chị em làm cơm cúng má – chị Chiến xuống bếp nấu <br />
cơm, Việt đi câu ít cá. Cúng má và cơm nước xong, mấy chú cháu thu xếp đồ đạc rời nhà. <br />
Hai chị em mỗi người một đầu khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm, băng tắt qua dãy đất <br />
cày trước của, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam mà hồi trước má vẫn đi…<br />
<br />
Chưa đầy nửa trang giấy nhưng đoạn văn đã lay động sâu xa tâm hồn người đọc. Trước <br />
hết, người đọc xúc động bởi cái nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao mà chiến tranh đã đem lại: <br />
hai chị em mất đi ba, má – là những người thân yêu nhất trong gia đình. Người miền Nam <br />
có câu ca dao “Con không cha như nhà không nóc/ Con không mẹ như nòng nọc đứt đuôi” <br />
– làm sao không cảm thương, không tội nghiệp cho được những kiếp người mang chữ <br />
“mồ côi”? Hai chị em lúc này chỉ có thể tựa vào nhau, hay có chăng thêm nữa được một <br />
điểm tựa chính là chú Năm mà thôi! Nhìn trong nhiều hướng như thế, ta lại thấy thương <br />
Chiến – từ ngày mẹ mất có lẽ chị đã đóng vai trò vừa là chị, lại vừa là mẹ để còn bao bọc <br />
cho tâm hồn non nớt của thằng Út nữa? Căn nhà vốn đơn chiếc, giờ lại càng thêm trống <br />
vắng: hai chị em đi tòng quân, thằng Út gửi nhà chú Năm – người đọc như bị sa chân vào <br />
một khoảng không trống rỗng, im lặng đáng sợ… Người đọc lúc này đây sẽ ước không <br />
có chiến tranh để gia đình kia, những con người nhỏ bé kia chẳng phải bị âm dương chia <br />
cắt đôi đường. Trách lỗi tại ai ư? Chỉ có thể là chiến tranh quá tàn nhẫn đã đẩy ba má ra <br />
khỏi cuộc đời của mấy chị em!<br />
<br />
Đọc tiếp những dòng văn bên dưới, độc giả như cảm thấy khóe mắt mình cay cay, nước <br />
mắt như chực ứa ra bởi sự hiếu thảo của hai chị em. Nguyễn Thi đã đưa ngòi bút của <br />
mình lặn sâu vào thế giới tâm linh của người Việt để viết nên chi tiết cực đắt – chiếc bàn <br />
thờ. Người Việt tin vào sự tồn tại của cõi âm – nơi mà khi con người ta nhắm mắt xuôi <br />
tay, trở về với đất, con người ta sẽ tồn tại ở đó dưới dạng thức linh hồn. Tất cả sự <br />
thiêng liêng quy tụ vào chiếc bàn thờ – nơi mà khói hương sẽ làm sợi chỉ kết nối thế giới <br />
hữu hình và thế giới vô hình, kết nối giữa những người đang sống và những người đã <br />
khuất. Đó cũng chính là lý do mà hai chị em mượn hoặc đem cho các đồ đạc trong nhà <br />
nhưng riêng chiếc bàn thờ thì lại mang sang gửi nhà chú Năm. Trong tâm tưởng của hai <br />
chị em lúc này, dường như má vẫn còn sống. Hai chị em như cảm nhận được má đang về <br />
với các con, má đang quanh quẩn đâu đó ở góc nhà, sân sau, trái bếp hay chính mâm cơm <br />
cùng với mấy chú cháu. Không rơi nước mắt làm sao được với lời độc thoại của Việt <br />
“Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả <br />
thù cho má, đến chừng nước nhà độc lập chúng con lại về”. Việt lúc này như thủ thỉ bao <br />
tâm tình, nhẹ nhàng mà lay động bởi sự tinh tế của Nguyễn Thi – “đưa má sang ở tạm bên <br />
nhà chú” – má vẫn còn hiện hữu đâu đây sao? Đọc đến đây, ta mới thấy ngòi bút của <br />
Nguyễn Thi thật sắc sảo, ông có thể nghe được cả tiếng lòng của nhân vật để rồi cho ta <br />
cảm giác như người cầm bút ấy đang đứng đâu đó trong câu chuyện, rất gần, rất gần, <br />
quan sát từng cảm xúc sâu bên trong Việt. Có lẽ, lúc này đây, ba má đã yên lòng lắm, đã <br />
mãn nguyện lắm rồi bởi các con đi chiến đấu là để “trả thù cho ba má”. Vong linh của ba <br />
má làm sao trách được lỗi của tụi con bỏ hương khói khi mà các con dù đi đâu cũng vẫn <br />
giữ được tấm lòng với quê hương, với đất nước, với cha mẹ đó thôi!<br />
<br />
Có một niềm vui như thoáng hiện trong lòng chúng ta khi nhận ra sự trưởng thành của <br />
Việt. Ngày trước, Việt vẫn thường tranh với chị Chiến từ những điều nhỏ bé, tranh công <br />
bắt ếch đến cả những điều lớn lao, tranh đi nhập ngũ… Việt cũng không đủ kiên nhẫn để <br />
đọc quyển sổ ghi chép của gia đình như chị Chiến vẫn thường bỏ ăn từ sáng đến trưa, từ <br />
trưa đến chiều vậy. Việt còn vô tư đến mức có thể ngủ gật lúc nào không hay khi chị <br />
đang bàn bạc về việc thu xếp nhà cửa đêm trước khi đi tòng quân… Thế nhưng, trong <br />
thời khắc thiêng liêng này, Việt như trưởng thành, như cứng rắn hơn bao giờ hết, đôi vai <br />
và đôi chân Việt cũng vững vàng hơn bao giờ hết “Việt khiêng trước, chị Chiến bịch bịch <br />
khiêng phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới <br />
thấy lòng mình rõ như thế”. Tiếng bước chân chị Chiến như nặng hơn bao giờ hết với sự <br />
chùng nhịp hai thanh nặng đi liền trong “bịch bịch”. Tiếng bước chân mà như tiếng bom, <br />
tiếng đạn đang rơi bên ta vậy – đáng sợ lắm, ngã quỵ lắm. Chính nhờ bước chân ấy mà <br />
cậu em vô tư như Việt mới nhận ra là lần đầu “thấy rõ lòng mình như thế” trong cái cảm <br />
xúc mơ hồ “thương chị lạ”. Tại sao Việt “thương chị lạ” ư? Ng ười đọc thử lý giải thì <br />
chắc có lẽ, Việt hiểu đây có thể là lần sau cùng hai chị em bên nhau, cái ác liệt của mưa <br />
bom bão đạn ngoài kia biết đâu sẽ… làm chị em cách xa mãi mãi. Phải chăng lúc này, Việt <br />
đang nén nước mắt? Vì Việt là con trai phải mạnh mẽ hay Việt phải trưởng thành, kiên <br />
cường để tự dằn lòng mình lại mà lên đường đi chiến đấu trả thù cho ba má. Ta thấy, <br />
tiếng bước chân kia thật kỳ diệu, nó như đánh thức và tôi luyện ý chí cho một tâm hồn. <br />
Chắc có lẽ phải dành nhiều tình cảm cho nhân vật của mình lắm thì Nguyễn Thi mới <br />
không để cho nhân vật của mình phải khóc mà ngược lại còn làm tăng thêm sự chín chắn <br />
trong nhận thức với một “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở <br />
trên vai”. Mối thù tưởng như vô hình giờ bỗng trở nên có hình khối để “rờ thấy được”, <br />
để cảm nhận được “đang đè nặng trên vai”. Lúc này đây, chiếc bàn thờ của má như nhắc <br />
nhở Việt và Chiến mối thù sâu nặng của cả gia đình. Mối thù ấy như trở thành động lực <br />
cộng hưởng thêm tình cảm gia đình và nguồn sức mạnh tâm linh để bồi đắp thành tình <br />
yêu đất nước, thành sức mạnh để đánh thắng kẻ thù. Cái hay của Nguyễn Thi là đã gửi <br />
cả một triết lý lớn vào một câu chuyện, một hành động nhỏ: hai chị em bưng bàn thờ với <br />
mối thù đè nặng trên vai cũng chính là lúc bắt đầu cuộc chiến – một cuộc chiến có căm <br />
thù nhưng cũng tràn đầy yêu thương; có quyết tâm nhưng cũng thanh thản, nhẹ nhõm; có <br />
yếu tố hành động cũng có cả yếu tố tâm linh…<br />
<br />
Dõi theo bước đi của hai chi em Chiến và Việt, ta như bước theo nhân vật vào cuộc hành <br />
trình tiếp nối truyền thống qua các thế hệ. Lời văn thật giản dị biết bao “Hai chị em <br />
khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, <br />
con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”. Là chị Chiến khiêng <br />
má mà ta cứ tưởng như má đang đi thật. Bởi ở chị Chiến cũng là “hai bắp tay tròn vo sạm <br />
đỏ màu cháy nắng”, “cả thân người to và chắc nịch”. Dáng hình của má – dáng hình của <br />
người phụ nữ Việt Nam rõ ràng đã được tiếp nối bởi các thế hệ sau. Và đằng sau dáng <br />
hình ấy, tác giả đang âm thầm trân trọng, ngợi ca những người phụ nữ Việt không chỉ <br />
thùy mị, nết na mà còn mang cả sự mạnh mẽ, rắn rỏi để chống trọi với đạn bom, với cái <br />
ác liệt của chiến trường và cuộc đời như những lời thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng viết:<br />
<br />
“Khi có giặc người con trai ra trận<br />
<br />
Người con gái trở về nuôi cái cùng con<br />
<br />
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”<br />
<br />
(“Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm)<br />
<br />
Hai chị em đi men theo con đường mang mùi hương lạ – nói lạ mà lại rất đỗi quen thuộc <br />
với những con người chân quê miền Bến Tre – “hoa cam”. Làn hương ấy chẳng tỏa ngát <br />
như hoa cau, cũng không nồng nàn như hoa bưởi trắng. Tất cả chỉ là “thoảng”, thoảng <br />
qua mà thôi! Nhưng sao lại chất chứa biết bao nỗi niềm trữ tình kín đáo? Mùi hương ấy <br />
được nhắc đến cứ như không mà đầy dụng ý; và ngược lại, có dụng ý mà vẫn hồn nhiên <br />
như chính cuộc đời. Nếu có ai đó cố tình gán ghép ý nghĩa này, ý nghĩa nọ cho chi tiết đó, <br />
chắc chắn làn hương kia sẽ mất. Hay bởi trong sáng tác của mình, Nguyễn Thi không bao <br />
giờ “trữ tình” một cách “dễ dãi”? Hay đó không phải cái “trữ tình” của nhà văn mà của <br />
chính cuộc sống thời chiến dữ dằn, thô ráp nhưng không thiếu chất thơ này? Chính nó đã <br />
đưa lại cho người đọc những “thoảng” rung động cần thiết để sống và trụ vững giữa thời <br />
khốc liệt lúc bấy giờ.<br />
Ngòi bút Nguyễn Thi quả là ngòi bút bậc thầy khi chứng tỏ bằng một kết đoạn lạ – kết <br />
mà không kết với hình ảnh “con đường”. Trước hết, hai chị em khiêng má qua con đường <br />
quê hương mà ngày xưa má vẫn thường đi – con đường gắn với bao hồi ức về má, bao kỷ <br />
niệm tuổi thơ vì thế càng làm hai chị em gần với má, với linh hồn của má hơn bao giờ <br />
hết. Con đường trữ tình, bình dị ấy nay là con đường tiến vào cuộc chiến tranh ác liệt lại <br />
càng khơi dậy ở hai chị em Chiến, Việt những trách nhiệm, tình yêu với gia đình, quê <br />
hương và cả đất nước. “Con đường” ấy như được nâng lên thành con đường cách mạng <br />
để các thế hệ trong một gia đình, một cộng đồng, dân tộc nối nhau tiếp bước. “Con <br />
đường” đã mở ra trong hồn người đọc một không gian mới mà chẳng ai chắc chắn phía <br />
cuối con đường kia là điều gì đang đợi. Chỉ biết với sức mạnh của đôi bờ vai tay nhỏ bé <br />
nhưng đã đủ sức nâng bàn thờ – nâng mối thù cùng với niềm lạc quan “nước nhà độc lập” <br />
làm chuyến ra đi bỗng dưng hóa trở về – ngày đi mà cũng tựa ngày về. Tác giả không nói <br />
trực tiếp nhưng người đọc có thể tin tưởng rằng ở phía cuối con đường kia chính là một <br />
cuộc sống hòa bình và hạnh phúc như từ trong chính tên của nhân vật bước trên con <br />
đường ấy: chiến đấu vì Việt Nam – chiến thắng cho Việt Nam!<br />
<br />
Độc giả bị lôi cuốn vào những dòng văn thắm đượm cảm xúc của Nguyễn Thi, hồn ta <br />
như hòa vào chính nội tâm của nhân vật bởi sự tài tình và tinh tế của ngòi bút hiện thực <br />
đậm chất lãng mạn mà chính người viết đã dành nhiều tâm lực. Người đọc được sống <br />
trong thế gới của Chiến và Việt cũng là nhờ biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sinh động <br />
đến từng tiếng bước chân, từng sức nặng của chiếc bàn thờ để rồi bao cảm xúc thăng <br />
hoa như chính những xúc cảm thực tế mà tác giả đã từng có vậy. Bên cạnh đó là những <br />
hình ảnh đậm chất Nam Bộ: chị Chiến “kéo chiếc khăn xuống cổ”, hai chị em “băng qua <br />
dãy đất cày, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam…” Cái hay của tác giả là đã đưa sự <br />
an nhiên, bình dị vào chính trong lời khắc đau thương và khốc liệt để khắc tạo hình ảnh <br />
người chiến sĩ kiên cường cũng đồng thời là người con chân quê, nghĩa tình của đất và <br />
công nước. Chắc cõ lẽ phải yêu lắm, thương lắm mảnh đất miền Nam thì Nguyễn Thi <br />
mới có thể đưa vào trong trang viết của mình ngôn ngữ thuần Nam Bộ từ cách xưng hô <br />
“mấy chị em”, “chú cháu” đến cách nói, cách tả về “bắp tay tròn vo, chắc nịch” và cả <br />
“chân vườn”, “hoa cam”… Giọng văn chậm rãi mà trầm lắng đã giúp Nguyễn Thi thể <br />
hiện xuất sắc dòng hồi tưởng của Việt một cách đầy chân thực. Trang viết này, đoạn văn <br />
này còn khẳng định ở Nguyễn Thi tài hoa của một ngòi bút bậc thầy khi biết tiếp nối cái <br />
ngắn của hình thức bằng cái dài của nội dung tư tưởng, tình cảm. Truyện ngắn đòi hỏi <br />
người viết phải biết dừng đúng lúc, biết nén, biết đào sâu, biết khơi gợi… Một chi tiết <br />
nhỏ như “con dường” hay “mùi hoa cam” cũng đủ để làm nên một tác phẩm lớn với <br />
những chiều sâu chưa nói hết. Chính cái chưa nói hết ấy đã dẫn người đọc vào cuộc hành <br />
trình của chính nhân vật bằng sức hấp dẫn kỳ diệu nhất!<br />
<br />
Qua câu chuyện của hai chị em Chiến và Việt, ta thấy được gia đình chính là cội nguồn <br />
sức mạnh sâu thẳm nhất của con người. Đến tận ngày hôm nay, giá trị và ý nghĩa của tình <br />
cảm thiêng liêng ấy vẫn còn nguyên vẹn. Trước hết là đối với mỗi người, gia đình chính <br />
là điểm tựa vững chắc nhất, là nơi trang bị cho ta những hành trang bước vào đời và cũng <br />
là nơi con người ta trở về sau bao thất bại. Con người ta có thể đi nhiều hơn, như chỉ có <br />
một nơi để trở về, đó chính là nhà. Điều đó cũng như nhân vật Nhĩ trong “Bến quê” của <br />
Nguyễn Minh Châu rong ruổi cả đời cuối cùng sau chuyến phiêu lưu dài ấy lại trở về, <br />
đem hồn neo đậu trong cái an nhiên của bến quê, cái ấm áp của tình cảm gia đình mà Liên <br />
đã dành cho anh. Gia đình chính là bến bờ yêu thương của mỗi người, nó giúp con người <br />
biết trân trọng hơn tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng xuất phát từ trái tim. Vì chữ “người <br />
thân” có bao đời ai lại toan tính với nhau? Lúc vui, con người ta có thể bỏ gia đình mà đi. <br />
Nhưng lúc buồn, trở về, gia đình vẫn bao dung dang rộng vòng tay ôm lấy ta. Tình cảm <br />
gia đình thật kỳ diệu và cũng là điều kỳ diệu mà tạo hóa đã ưu ái cho con người! Có <br />
những gia đình dù đói nghèo về vật chất, nhưng thắm đượm tình cảm thì vẫn hạnh phúc <br />
xiết bao như gia đình Tràng – thị – cụ Tứ yêu thương nhau giữa cái đói nghèo quay quắt <br />
vậy. Tình cảm của gia đình còn là động lực cho mỗi người vươn lên trong cuộc sống của <br />
chính bản thân mình. Nếu có xem chương trình “Điều ước thứ bảy”, chắc hẳn ai cũng <br />
chân quý hơn chính gia đình của mình sau khi xem câu chuyện “Bánh đúc có xương” của <br />
bà Lê Thị Thoa – người mẹ kế cùng với cậu con chồng bị ung thư xương. Suốt hơn mười <br />
năm chăm sóc con chồng như con ruột, đôi mắt bà xưng híp, che đi cả ánh sáng và như che <br />
cả niềm hi vọng nhưng bà chưa bao giờ bỏ cuộc bởi có nguồn sáng là cậu con, và cậu con <br />
ấy cũng vì tình cảm thiêng liêng của người mẹ kế mà chống chọi với bệnh tật mỗi ngày. <br />
Thế mới thấy, dù không chung huyết thống nhưng những trái tim cùng nhịp đập vẫn tạo <br />
nên thứ tình cảm cao khiết giúp người ta có thêm niềm tin vào đời, vào người, vào những <br />
gì tươi đẹp của cuôc sống đang đợi chờ ở phía trước. Đó là những gì nhân văn nhất mà <br />
các làng trẻ mồ côi đã làm để giúp những phận đời kém may mắn có thể đủ đầy về tình <br />
thương. Những câu chuyện ấy sẽ mãi còn làm cuộc đời đẹp hơn, tin yêu hơn như câu <br />
chuyện của chàng thanh niên trẻ tiêu biểu thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 – Nguyễn <br />
Hữu Ân với phần lớn chiếc bánh thời gian, tình yêu và hạnh phúc dành cho người mẹ ruột <br />
và cả người mẹ nuôi của mình… Không những thế, tình cảm gia đình còn bồi dưỡng một <br />
tình cảm cao quý hơn – tình yêu đất nước. Có yêu thương ngôi nhà và những người trong <br />
gia đình ta sẽ có thể mở rộng trái tim yêu quê hương, đất nước như lời của nhà thi hào E <br />
ren bua “Mọi dòng suối đều chảy ra sông. Con sông Vôn ga đổ ra bể. Tình yêu nhà, yêu <br />
quê hương, xóm làng trở thành tình yêu đất nước”. Gia đình không chỉ là cái nôi mà còn là <br />
đích đến cuối cùng của mỗi người, nhưng buồn thay lại có những người chẳng hiều điều <br />
đó. Đó là những con người thờ ơ với tình cảm gia đình, con bất hiếu, vợ chồng bất thủy <br />
chung… gây ra nhiều vấn nạn như bạo lực gia đình, vô cảm… cần phải ngay lập tức lên <br />
án và bài trừ. Hiểu được điều đó, chúng ta biết yêu thương, trân trọng chính tổ ấm của <br />
mình hơn. Là một học sinh lớp 12 – ở tuổi 18 không quá nhỏ cũng không quá lớn, tôi chỉ <br />
có thể yêu thêm gia đình mình và luôn tự nhắc nhở sẽ luôn cố gắng vì hạnh phúc của gia <br />
đình hôm nay, để xứng đáng với cha mẹ và sẽ xây dựng một gia đình hạnh phúc ngày mai.<br />
<br />
Thời gian có trôi đi, bụi thời gian dù dày lên thêm thì cũng là một thứ chất xúc tác giúp <br />
gạn đục khơi trong, để những giá trị tư tưởng và tình cảm lớn lao như trong “Những đứa <br />
con trong gia đình” ngày càng tỏa sáng lấp lánh. Sau bao tháng năm, đoạn văn vẫn làm xúc <br />
động hàng triều trái tim độc giả bởi cái tài và cái tâm mà Nguyễn Thi đã gửi gắm. Không <br />
chỉ hay về nội dung, tài về nghệ thuật mà đoạn văn còn đầy ắp tình cảm. Nó khơi gợi <br />
trong chúng ta tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc thiêng liêng. Đây cũng là điều lớn lao mà <br />
Nguyễn Thi đã làm được: tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” đã đi qua cuộc chiến <br />
tranh và vẫn đang viết tiếp khúc quân hành lặng lẽ giữa đời thường, giữa hòa bình để làm <br />
phép cộng hưởng cho ngọn lửa truyền thống của dân tộc cháy sáng mãi mãi vào tương lai!<br />