Đề bài: Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của con người Hàn Mạc Tử qua bài thơ <br />
"Đây thôn Vĩ Dạ"<br />
Bài làm<br />
Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kì trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh <br />
tú lạ. Thơ Hàn vừa thể hiện tình yêu khôn cùng với cuộc sống trần tục, vừa hướng về <br />
Chúa Trời với những niềm thanh khí thần tiên. Đã có nhiều hướng tiếp nhận kiệt tác Đây <br />
thôn Vĩ Dụ. Song, ai cũng thấy rằng bài thơ nói về tình yêu một tình yêu đơn phương, <br />
thơ mộng, trong sáng, huyền ảo. Tuy nhiên, khó phủ nhận được là Hàn Mặc Tứ đã nói <br />
khá hay về xứ Huế mộng và thơ. Đây thôn Vĩ Dạ chỉ vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu <br />
thất ngôn.<br />
Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật <br />
trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:<br />
Sao anh không về chơi thôn Vi?<br />
Nhìn nắng làng can nắng mới lên,<br />
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br />
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?<br />
Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh <br />
của nhân vật trử tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều <br />
những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm <br />
mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô <br />
Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh <br />
tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. <br />
Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi <br />
vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích <br />
Khuê, Nguyễn Tuân... đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thốn Vĩ Dạ <br />
nên thơ.<br />
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ <br />
thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất <br />
đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt <br />
mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc...<br />
Câu thơ: Lá trúc che ngang mặt chữ điền?<br />
Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh ngươi <br />
dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng <br />
này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì ấn <br />
tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê <br />
hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn <br />
Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.<br />
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ có phần lành để <br />
đặc tả cảnh sóng nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ niềm hoài vọng bâng khuâng:<br />
Gió theo lối gió mây đường mây,<br />
Dòng nước buồn thỉu hoa bấp bay;<br />
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br />
Có chở trăng về kịp tối nay?<br />
Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè <br />
nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo <br />
chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong <br />
mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ cho ta nhìn bằng mắt mà điều <br />
quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới <br />
giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng <br />
lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: "Thuyền ai <br />
đậu bến sông Trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyền trăng thì có nhiều thi nhân <br />
nhắc đến nhưng “sông Trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường <br />
như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hi vọng, lẫn nỗi buồn man mác của <br />
nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của <br />
một xứ sớ, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một <br />
tình yêu thật dịu dàng, kín láo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người <br />
đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:<br />
Mơ khách đường xa, khách đường xa<br />
Áo em trắng quá nhìn không ra<br />
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh<br />
Ai biết tình ai có đậm đà?<br />
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét <br />
tả thực, cũng giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp"... ở những khổ thơ trước? Sương <br />
khói trắng, và áo em cũng trắng. Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi <br />
(nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ <br />
lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một <br />
thoáng bâng khuâng. Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai <br />
có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, <br />
dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương <br />
lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn <br />
khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một <br />
tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ <br />
lênh đênh chẩng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng <br />
phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết... Ta càng thông cảm cho một <br />
thoáng hờn dồi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu <br />
người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu <br />
sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế!<br />