Học sinh: Phạm Nhật Linh – 12A5 – THPT Phan Đình Phùng<br />
<br />
Những thành tựu khoa học – công nghệ tiêu biểu từ <br />
nửa sau thế kỷ 20 đến nay<br />
Trải qua hơn nửa thế kỷ, nhất là sau những năm 70, cuộc cách mạng khoa học – <br />
kỹ thuật đã thu được những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu.<br />
<br />
Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, loài người đã đạt được những thành tựu hết sức <br />
to lớn, những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong lịch sử các ngành Toán học, Vật <br />
lý học, Hóa học, Sinh học v.v.. Dực vào những phát minh lớn của các ngành khoa <br />
học căn bản, con người đã ứng dụng cải tiến kĩ thuật, phục vụ sản xuất và cuộc <br />
sống của mình. Sau đây là một số thành tựu khoa học – công nghệ tiêu biểu từ nửa <br />
sau thế kỷ 20 đến nay:<br />
<br />
Thiên thể Eris gia nhập hệ mặt trời<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Năm 2005, Mike Brown và nhóm nghiên cứu của ông tại Đài Thiên văn Palomar, California<br />
đã phát hiện ra 136199 Eris – một thiên thể có kích thước lớn hơn khoảng 27% kích<br />
thước của Diêm Vương tinh, do đó, Eris đã qua mặt sao Diêm Vương để trở thành thiên<br />
thể lớn thứ 9 quay quanh mặt trời. Hệ quả của phát hiện này là vào năm 2006 sao Diêm<br />
Vương (Pluto) đã bị “giáng chức” xuống làm hành tinh lùn và phải mang 1 dãy số hiệu<br />
trước tên của mình – 134340 Pluto.<br />
<br />
Tìm thấy các phần mô mềm từ hóa thạch khủng long<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1|Page<br />
Cũng trong năm 2005, Mary Higby Schweitzer và đồng nghiệp đã phát hiện các phần mô<br />
mềm trong một hóa thạch xương đùi của khủng long bạo chúa. Các mô này bao gồm các<br />
mạch máu, các chất cơ bản cấu tạo xương, và các tế bào khác. Từ phát hiện này, các nhà<br />
khoa học đã tìm ra các loại axit amin tương đồng với các loại axit amin của các loài gà<br />
hiện đại, từ đó càng củng cố mối liên hệ giữa khủng long và các loài chim.<br />
<br />
Khẳng định sự tồn tại của vật chất đen<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Vào năm 2006, các nhà khoa học cuối cùng đã tìm ra những bằng chứng đầu tiên cho<br />
thấy sự tồn tại của “vật chất đen” – loại vật chất vô hình từ lâu đã được xem là nhân tố<br />
gắn kết các thiên hà và giải thích sự phân bổ trọng lượng trong toàn vũ trụ. Kết quả này<br />
được rút ra sau quá trình nghiên cứu vụ va chạm giữa 2 thiên hà cách đây 100 triệu năm.<br />
<br />
Phát hiện thêm 1 số tổ tiên của loài người<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Từ trước tới nay, chúng ta vẫn cho rằng hóa thạch người tiền sử lâu đời nhất là Lucy,<br />
được phát hiện năm 1974, có niên đại 3,3 triệu năm. Nhưng vào năm 2007, các nhà khảo<br />
cổ Pháp đã khai quật được một chiếc sọ khoảng 6-7 triệu năm tuổi của loài Toumai –<br />
được cho là tổ tiên cổ xưa nhất của loài người.<br />
Sau đó, vào năm 2009 các nhà khoa học Mỹ lại tuyên bố đã phát hiện một bộ xương hóa<br />
thạch khác tên Ardi, có tuổi 4,4 triệu năm. Từ các phát hiện trên, giới khoa học cho rằng<br />
rất có thể con người và các loài khỉ đang còn tồn tại trên trái đất có cùng một tổ tiên, chứ<br />
không phải là các mắt xích nối tiếp nhau trong quá trình tiến hóa.<br />
<br />
Quan sát trực tiếp được các hành tinh nằm ngoài Hệ Mặt trời<br />
<br />
<br />
<br />
2|Page<br />
Trong suốt 15 năm qua, các nhà khoa học đã rất thành công trong công cuộc “săn tìm”<br />
những hành tinh không thuộc Thái Dương Hệ, và hiện nay trong danh sách của họ đã có<br />
khoảng 450 “ngoại hành tinh”.<br />
Một số nhà thiên văn học cho rằng đây là bằng chứng khẳng định trong vũ trụ còn có rất<br />
nhiều hành tinh và có thể có nhiều hành tinh giống trái đất của chúng ta.<br />
<br />
Người máy – máy người<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thập kỷ vừa qua cũng chứng kiến nhiều thành tựu trong việc kết hợp các hoạt động của<br />
con người với máy móc và ngược lại. Năm 2000, một nhóm các nhà khoa học tại Trung<br />
tâm Y tế Đại học Duke đã nối các điện cực vào não của các con khỉ và luyện cho chúng<br />
điều khiển các cánh tay robot để cầm lấy thức ăn. Năm 2009, anh Pierpaolo Petruzziello –<br />
bị cụt một cánh tay – đã trở thành người đầu tiên điều khiển được cánh tay robot bằng ý<br />
nghĩ thông qua các dây và điện cực nối từ phần còn lại của cánh tay với một cánh tay<br />
robot cơ-sinh-học. Nghiên cứu này có thể giúp phục hồi chức năng vận động ở các bệnh<br />
nhân bị bại liệt.<br />
<br />
Phát triển tế bào gốc từ nhiều nguồn khác<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
3|Page<br />
Năm 2007, các nhà khoa học Mỹ và Nhật thông báo đã phát triển thành công tế bào gốc<br />
từ da người. Một tháng sau, một nhóm các khoa học gia khác của Mỹ cho biết đã đạt<br />
bước tiến mới khi tạo ra được tế bào gốc với một mã gien cụ thể của bệnh nhân, có thể<br />
loại trừ rủi ro cơ thể người bệnh đào thải mô hay tạng được cấy ghép. Các công trình này<br />
được đánh giá là thành tựu y khoa lớn nhất trong năm 2007. Tế bào gốc được coi là “cứu<br />
tinh” của con người trong cuộc chiến chống lại các bệnh nan y như ung thư, tim mạch, tiểu<br />
đường, liệt rung, mất trí nhớ, chấn thương tủy sống, đột quỵ… bởi nó có thể phát triển<br />
thành bất cứ loại nào trong 220 loại tế bào trong cơ thể con người.<br />
<br />
Phát hiện dấu hiệu của nước trên bề mặt sao Hỏa<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trong suốt thập kỷ nghiên cứu vừa qua, các nhà khoa học đã thu được khá nhiều bằng<br />
chứng khoa học cho thấy nước tồn tại trên hành tinh đỏ. Các dấu hiệu xói mòn trên bề<br />
mặt hành tinh là chứng cứ thuyết phục nhất về những thay đổi thời tiết và sự tồn tại nước<br />
lỏng trong quá khứ của hành tinh này.<br />
Vẫn còn một câu hỏi đặt ra là: Liệu còn có nguồn nước trên sao Hoả hay không? Sắp tới,<br />
tàu nghiên cứu với kính đo quang phổ dùng tia gamma của NASA sẽ hạ cánh trên sao<br />
Hỏa. Nó có thể đo được tín hiệu quang phổ hydro trong nước. Có lẽ khi đó, các nhà khoa<br />
học sẽ có câu trả lời chính xác.<br />
<br />
Lập bản đồ gen người<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Dự án lập bản đồ bộ gen người là một dự án nghiên cứu khoa học mang tầm quốc tế khởi<br />
đầu vào năm 1990. Mục đích chính của dự án là xác định trình tự của các cặp cơ sở tạo<br />
thành phân tử DNA và xác định khoảng 25.000 gen trong bộ gen của con người. Bản phác<br />
thảo đầu tiên của bộ gen ra đời vào năm 2000 và hoàn thiện vào năm 2003. Bộ gen của<br />
bất kì cá nhân nào (ngoại trừ trường hợp sinh đôi cùng trứng và nhân bản) đều là duy<br />
nhất.<br />
<br />
4|Page<br />
Với bản đồ gen này, khoa học đã có một công cụ mới để đi sâu nghiên cứu các vấn đề<br />
sinh học căn bản nhất về con người, đặc biệt là giám sát các nhân tố gen liên quan đến<br />
các căn bệnh như ung thư, bệnh Alzheimer, Parkinson, cholesterol cao, tự kỷ, chậm phát<br />
triển trí tuệ…<br />
<br />
Phát hiện các dòng sông băng đang bị thu hẹp với tốc độ đáng lo ngại<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tốc độ tan chảy trung bình hàng năm của các dòng sông băng trên thế giới đã tăng gấp<br />
đôi khi nhân loại bước vào thế kỷ 21. Biến đổi khí hậu là nguyên nhân chính của thực<br />
trạng này. Hậu quả của nó đã và đang tác động nghiêm trọng đến môi trường và đời sống<br />
nhân loại, biểu hiện rõ nhất là mực biển tăng trên khắp hành tinh, nhấn chìm nhà cửa của<br />
hàng trăm triệu người, thu hẹp diện tích trồng trọt và chăn nuôi, đe dọa đến các nguồn<br />
cung cấp lương thực, năng lượng và nước.<br />
<br />
Bằng chứng cho thấy sự có mặt của biển trên Enceladus – mặt trăng của Sao <br />
Thổ<br />
Năm 2005, Cassini ghi nhận lại hiện tượng các vết nứt trên Enceladus – mặt trăng của<br />
Sao Thổ phun trào ra nước dưới dạng hơi và băng. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra ý<br />
tưởng rằng dưới bề mặt phủ băng mỏng trên Enceladus rất có thể có chứa một đại<br />
dương. Lý do tại sao Enceladus lại có thể tự sở hữu cho mình một đại dương, cho đến<br />
nay vẫn là một câu hỏi làm đau đầu giới khoa học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nó quá xa mặt trời và nó cũng được cho là quá nhỏ để có thể chứa đủ năng lượng nội<br />
sinh cho một hệ sinh thái ở tầm cỡ đại dương. Tuy nhiên, mối quan hệ về mặt trọng lượng<br />
của nó với Sao Hỏa có thể giúp nó có đủ điều kiện cần thiết để duy trì đại dương này.<br />
<br />
Đột phá của Samsung với siêu vật liệu Graphene<br />
5|Page<br />
Giới khoa học từ lâu đã chú ý đến sự tồn tại của loại vật chất có tên là Graphene. Nó lần<br />
đầu tiên được sản xuất trong phòng thí nghiệm vào năm 2004, qua đó giúp 2 nhà sáng<br />
chế Andre Geim và Kostya Novoselov giành được giải Nobel. Loại vật liệu này được đặc<br />
trưng bởi độ rắn (hơn 200 lần so với thép), độ dẻo và khả năng dẫn điện. Vấn đề duy nhất<br />
với loại vật liệu này là kích cỡ - nó chỉ khoảng bằng kích cỡ của một nguyên tử.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Những nỗ lực trước đây trong việc phóng đại loại vật liệu này đều thất bại – hầu hết đều<br />
làm giảm các đặc tính đã làm nên sức hấp dẫn của Graphene. Tuy nhiên, Samsung tuyên<br />
bố rằng họ đã phá bỏ được trở ngại này và lần đầu tiên thành công trong việc phóng đại<br />
Graphene lên mức có thể sử dụng được trong phương diện thương mại.<br />
<br />
Tiết lộ về Dreadnoughtus, loài khủng long lớn nhất được biết đến cho đến <br />
nay<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhiều nhà khoa học đã nỗ lực làm việc với những gì còn sót lại của những di tích của loài<br />
khủng long này với hi vọng phát hiện ra, dù chỉ là một thoáng qua bí mật của chúng. Trên<br />
thực tế, họ còn đặt tên cho chúng là Dreadnoughtus, nghĩa là “không hề sợ hãi”. Có vẻ<br />
như đây là một cái tên thích hợp với loài khủng long có kích cỡ bằng 7 con voi cỡ lớn –<br />
nặng khoảng 65 tấn với chiều dài 85 feet (khoảng 3 sân bóng đá).<br />
<br />
Xe thể thao có thể chạy bằng nước muối<br />
Tháng 3 năm 2014, NanoFLOWCELL AG đã có những tiết lộ đầu tiên về chiếc Limousine<br />
Quant e-Sport. Chiếc xe bóng bẩy nhưng không kém phần kỳ bí này giờ đã có khả năng<br />
tận dụng nước muối để vận hành một loại pin sạc dòng. Loại pin này chứa bốn động cơ<br />
6|Page<br />
điện (mỗi động cơ cung cấp năng lượng cho một bánh) có khả năng tạo ra dòng điện từ<br />
một phản ứng tạo ra bằng cách trộn lẫn 2 loại dung môi khác nhau. Dòng điện này sau đó<br />
có khả năng được dự trữ lại và sử dụng khi cần thiết. Nhà sáng chế loại xe này cho rằng,<br />
nó có thể chạy đến 370 dặm trước khi phải sạc lại.<br />
Dù cho loại xe này mới chỉ đem ra trưng bày, nhưng nó đã được cấp phép để chạy trên<br />
những con đường thuộc châu Âu. Dường như Tesla đã thực sự có đối thủ cạnh tranh<br />
trong lĩnh vực sáng chế xe điện.<br />
<br />
Robot có khả năng đọc cảm xúc con người<br />
Tháng 6 năm 2014, một công ty ở Nhật đã cho ra mắt Robot Pepper, một dòng robot có<br />
khả đọc cảm xúc của con người.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cụ thể hơn, Pepper có khả năng đọc cảm xúc thông qua những biểu hiện trên khuôn mặt<br />
và giọng nó, sau đó phân tích những biểu hiện này và đưa ra đáp ứng dựa trên một<br />
“engine cảm xúc”. Các Peppers sẽ có khả năng kết nối với nhau thông qua các đám mây<br />
điện tử, để từ đó chúng có thể chia sẻ những hiểu biết của mình và liên tục cải thiện khả<br />
năng phán xét và phản ứng của mình.<br />
<br />
Maven đã thành công trong việc đi vào quỹ đạo của Sao Hỏa<br />
Đầu năm nay, vệ tinh Mars Atmosphere and Volatile Evolution (MAVEN) đã ổn định cuộc<br />
sống mới của nó trên tầng khí quyển cao của sao Hỏa. Sau 10 tháng chu du trong vũ trụ,<br />
MAVEN thành công trong việc đi vào quỹ đạo của MAVEN thực sự là một thắng lợi to lớn<br />
đối với cộng đồng khoa học. Trong 2 năm tới, nhiệm vụ chính của MAVEN là đo đạc áp<br />
suất trên Sao Hỏa nhằm mục đích giúp con người có những hiểu biết về các thay đổi theo<br />
thời gian trên Sao Hỏa.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Có nhiều giả thuyết xung quanh bầu khí quyển tại sao Hỏa, trong đó có cả giả thuyết cho<br />
rằng bầu khí quyển ở đây đã từng có lúc rất giống với Trái Đất, và những thay đổi về mặt<br />
7|Page<br />
địa chất và sinh học đã biến đổi bầu khí quyển ở đây. MAVEN là một phần trong nhiệm vụ<br />
to lớn hơn: giúp loài người có được những hiểu biết về hành tinh Đỏ vốn chìm sâu trong<br />
bí ẩn này.<br />
<br />
Xét nghiệm máu dùng để chẩn đoán trầm cảm<br />
Eva Redei, giáo sư ngành khoa học tâm thần và hành vi thuộc trường Y Feinberg của đại<br />
học Northwesten, người đã có 17 năm nghiên cứu việc phát triển các phương thức xét<br />
nghiệm chẩn đoán cho bệnh trầm cảm. Năm 2012, bà đã có bước đột phá đầu tiên cho<br />
riêng mình khi công bố một xét nghiệm có khả năng chẩn đoán trầm cảm ở lứa tuổi teen.<br />
Sau đó, bà đã mở rộng nghiên cứu của mình đối với đối tượng thuộc lứa tuổi trưởng<br />
thành.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trong nghiên cứu này, bà xét nghiệm máu cho 2 nhóm độc lập: 1 nhóm được chẩn đoán<br />
trầm cảm và một nhóm không được chẩn đoán trầm cảm. Bà nhận ra rằng, có 9 dấu ấn<br />
RNA có sự khác biệt giữa 2 nhóm này. Sau đó, nhóm bệnh nhân chẩn đoán trầm cảm<br />
được đưa vào điều trị theo những phương thức khác nhau, và họ liên tục được làm xét<br />
nghiệm máu để theo dõi. Sau 18 tuần, khi các triệu chứng thuyên giảm, xét nghiệm máu<br />
của họ cũng đã có sự thay đổi.<br />
<br />
THE END<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
8|Page<br />