Đề bài: Phân tích nét tương đồng về giọng thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương<br />
Bài làm<br />
Trần Tế Xương (hay Tú Xương) và Nguyễn Khuyến là hai nhà thơ thuộc hai thời đại <br />
khác nhau, có những sự khác nhau rất nhiều về cuộc sống, công danh, Nguyễn Khyến là <br />
một đại quan trong triều đình nhà Nguyễn, mà Tú Xương thì lại là một người vô cùng lận <br />
đận về đường công danh. Tuy nhiên, họ là những nhà thơ có cùng cách nhìn, cùng tư <br />
tưởng, cùng sự đánh giá về cuộc sống và xã hội. Họ đều sử dụng những lời thơ sắc bén <br />
của mình để đả kích bản chất tàn ác, nham hiểm của thực dân, cũng như sự suy yếu, bất <br />
lực, nhu nhược của triều đại phong kiến đương thời, cũng như bày tỏ sự đau xót trước sự <br />
suy tàn của Nho học. Tư tưởng của họ, tấm lòng của họ, sẽ còn sống mãi, như những <br />
vần thơ của họ trong lòng người đọc hôm nay và mãi về sau.<br />
Điểm chung đầu tiên của họ là sự đau xót trước cảnh đất nước suy tàn, thực dân tàn ác <br />
khiến nhân dân lầm than, văn hóa phương Tây khiến cho nền Nho học nước nhà ngày <br />
càng lụi tàn.<br />
Nguyễn Khuyến đã làm quan hơn mười năm trong triều đình nhà Nguyễn, ông hiểu rất rõ <br />
tình hình triều chính cũng như tình hình đất nước khi đó. Chính quyền nhà Nguyễn khi ấy <br />
chỉ còn là một chính quyền tay sai, bù nhìn, chịu sự điều khiển của thực dân Pháp, tiếp tay <br />
giúp cho chúng đàn áp nhân dân, tàn phá đất nước mình. Nho học vốn thâm sâu. Nguyễn <br />
Khuyến mượn lời của người hát chèo để nói lên thực trạng khiến ông đau xót:<br />
“Vua chèo còn chẳng ra gì,<br />
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”<br />
(Lời vợ người hát chèo)<br />
Cùng với thực trạng nước mất nhà tan, đó là sự suy tàn của Nho học, của những giá trị <br />
đạo đức. Xã hội bấy giờ thành một đống hổ lốn, không có tôn ti trật tự. Đồng tiền là thứ <br />
chi phối con người ta, khiến bao con người bán rẻ lương tâm, cũng như đẩy biết bao con <br />
người vào bước đường cùng. Con người ta dường như không quan tâm đến nỗi nhục mất <br />
nước, chỉ biết đến cái lợi mà lũ thực dân hứa hẹn mang lại, họ vui vẻ tham gia những trò <br />
chơi mà thực dân tổ chức.<br />
“Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,<br />
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo<br />
Khen ai khéo vẽ cho vui thế<br />
Vui thế bao nhiêu nhục mấy nhiêu!”<br />
(Hội Tây)<br />
Tiếng cười sâu cay, lời đả kích nhẹ nhàng nhưng thấm thía, với mong muốn thức tỉnh <br />
những con người đang đắm chìm trong những thứ hão huyền mà bán rẻ lương tâm, bán rẻ <br />
những thứ giá trị đạo đức của toàn xã hội.<br />
Chán ngán trước xã hội đương thời, ông đồ Tam Nguyên Yên Đổ cũng tự lấy bản thân <br />
mình ra làm thứ “mua vui”<br />
“Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,<br />
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.<br />
Cờ đương dở cuộc không còn nước,<br />
Bạc chửa thầu canh đã chạy làng.<br />
Mở miệng nói ra gàn bát sách,<br />
Mềm mồi chén mãi tít cung thang.<br />
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhị<br />
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!”<br />
(Tự trào)<br />
Một cuộc đời công danh dở dang vì thời cuộc, một đất nước không còn nơi để những <br />
người yêu nước như nhà thơ thể hiện, tất cả đã khiến cho ông trở nên chán ngán. Ông <br />
nhận ra rằng dù có đỗ bao nhiêu khoa thi, có làm đến bao nhiêu chức quan, có tài giỏi đến <br />
mấy, mà tình trạng đất nước như hiện nay, thì cũng chỉ có thể bất lực xuôi tay, có trăn trở <br />
suy nghĩ thì cũng chỉ có thể trơ mắt nhìn.<br />
Còn Tú Xương, sinh ra và lớn lên trong giai đoạn khó khăn nhất của đất nước, cũng là <br />
cảnh thực dân xâm lược đã khiến cho ông rất bất mãn về những thứ chướng tai gai mắt <br />
xung quanh mình.Có những tiếng cười nhẹ nhàng nhưng sâu cay, chỉ như lời kể, nhưng <br />
cũng là lời lên án:<br />
“Nhà kia lỗi đạo con khinh bố,<br />
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”<br />
Mọi thứ đạo lí trong xã hội bị đảo lộn, con cái không còn kính trọng cha mẹ, người vợ <br />
không còn là người tam tòng tứ đức như xưa nữa.<br />
Cũng có những tiếng chửi bật ra trong giận dữ:<br />
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,<br />
Trăm nghìn vạn mớ để vào đậu.<br />
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,<br />
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.<br />
Lẳng lặng, mà nghe nó chúc sang,<br />
Đứa thời bán tước đứa mua quan,<br />
Phen này ông quyết đi buôn lọng,<br />
Vừa chùi vừa rao cũng đắt hàng.<br />
(Năm mới chúc nhau)<br />
Cũng ở đây, Tú Xương đã nói lên cái thực trạng mua quan bán chức. Cũng phải thôi, trong <br />
cái thời đại mà đồng tiền là một thứ vạn năng, thì con người ta ai cũng muốn có một chức <br />
quan để vụ lợi cho bản thân mình. Bản thân Tú Xương là một người tài, vậy mà vô cùng <br />
lận đận trong việc thi cử, tám lần thi mà chẳng lần nào có thể vẻ vang. Vậy mà có những <br />
thứ công tử bột, chẳng biết gì ngoài chơi bời, nhưng nhờ tiền bạc của cha mẹ mà cũng có <br />
thể thi đỗ, được làm quan”<br />
“Cử nhân cậu ấm Kỉ,<br />
Tú tài con Đô Mĩ<br />
Thi thế mà cũng thi,<br />
Ối khỉ ơi là khỉ!”<br />
Về vấn đề này, Nguyễn Khuyến cũng không thể kìm được tiếng chê bai của mình trong <br />
bài thơ Tiến sĩ giầy:<br />
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,<br />
Cũng gọi ông nghè có kém ai.<br />
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,<br />
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.<br />
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,<br />
Cái giá khoa danh ấy mới hời.<br />
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,<br />
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi!”<br />
Chỉ là thứ đồ chơi, thứ vụ lợi cho riêng mình, chứ làm quan đâu có phải vì muốn đem tài <br />
ra giúp nước.<br />
Trước tình trạng đất nước rối ren, mọi giá trị trong xã hội bị đảo lộn, hai nhà thơ dùng <br />
những bài thơ của mình, để bày tỏ nỗi đau xót trước hoàn cảnh khó khăn của đất nước, <br />
đồng thời cũng là tiếng phê phán, châm biếm lũ thực dân và tay sai tàn ác, khiến cho nhân <br />
dân ta phải chịu biết bao lầm than, đau khổ. Những bài thơ cũng là tiếng lòng của những <br />
nhà Nho yêu nước, rất muốn giúp đất nước, giúp nhân dân nhưng cũng đành bất lực. Tư <br />
tưởng lớn của họ, nhân cách cao đẹp của họ sẽ còn được ghi nhớ mãi trong lòng thế hệ <br />
chúng ta và cả mai sau.<br />