intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam

Chia sẻ: ViLichae ViLichae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

32
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết so sánh một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp tạm giam được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam

  1. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỨC VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Nguyễn Phương Thảo* Tăng Trần Quỳnh Phương** * ThS. GV. Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Tp. HCM. **ThS.Thẩm phán Trung cấp, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Bài viết so sánh một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Từ khóa: Tạm giam, vụ án hình và Cộng hòa Liên bang Đức về biện pháp tạm giam được áp dụng trong sự, pháp luật tố tụng hình sự quá trình giải quyết vụ án hình sự; qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm Cộng hòa Liên bang Đức. hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Lịch sử bài viết: Nhận bài : 25/11/2020 Biên tập : 14/12/2020 Duyệt bài : 22/12/2020 Article Infomation: Abstract: This article provides comparison of a number of provisions of the Keywords: Detention, criminal criminal procedure under Law of Vietnam and the one in law of the case, criminal procedure, the Federal Republic of Germany on detention measures, which are applied Federal Republic of Gemany. in the process of resolving criminal cases. Thereby, it is to propose a Article History: number of recommendations to further improve the criminal procedure law of Vietnam. Received : 25 Nov. 2020 Edited : 14 Dec. 2020 Approved : 22 Dec. 2020 1. Pháp luật tố tụng hình sự Đức về biện người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Là pháp tạm giam một quốc gia theo mô hình tố tụng tranh Ở Đức, biện pháp tạm giam là một tụng, Cộng hòa Liên bang Đức hướng đến trong những biện pháp cưỡng chế trong tố việc đảm bảo tối đa quyền của người bị buộc tụng hình sự (TTHS) và được quy định trong tội trong quá trình giải quyết vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự Đức (Bộ luật TTHS) 1.1. Đối tượng áp dụng và hạn chế áp năm 1987 (sửa đổi năm 2019). Đây cũng là dụng biện pháp tạm giam biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống Đối tượng thứ nhất có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, được áp dụng bởi biện pháp tạm giam (Remand detention) tòa án có thẩm quyền từ những giai đoạn đầu là người bị nghi ngờ xác đáng về việc của quá trình giải quyết vụ án, từ khi người thực hiện tội phạm (strongly suspected of bị buộc tội tham gia tố tụng với tư cách là the offence) và phải có căn cứ để bắt giữ. 50 Số 02(426) - T1/2021
  2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Tuy nhiên, lệnh tạm giam sẽ không được đặt người đó phạm tội, và hai là có căn cứ để ra nếu không tương xứng với tính chất của bắt giữ (ground for arrest). Theo đó, dựa vụ án hoặc hình phạt hoặc các biện pháp cải vào những tình tiết cụ thể của vụ án và hành tạo và phòng ngừa (quyết định về án treo vi của người bị buộc tội, những căn cứ để và cảnh cáo, hoãn thi hành phần còn lại của bắt giữ theo quy định của luật có thể bao bản án phạt tù, hoãn thi hành án phạt tù)1 gồm một số căn cứ sau đây, có khả năng gây dự kiến được áp dụng2. Hai đối tượng kế khó khăn cho việc xác định sự thật vụ án, tiếp có thể áp dụng biện pháp này là bị can - đặc biệt là vấn đề thu thập chứng cứ: người đã có quyết định truy tố (indicted - Có căn cứ xác định người bị buộc accused) và bị cáo - người đã có quyết định tội đã bỏ trốn hoặc có nguy cơ bỏ trốn đưa vụ án ra xét xử (defendant)3. Bên cạnh (risk of flight); đó, Bộ luật TTHS Đức cũng quy định các - Có căn cứ xác định người này sẽ phá trường hợp hạn chế tạm giam, theo đó, hủy, thay đổi, di chuyển, giấu, hoặc làm giả những người không thỏa mãn các điều kiện chứng cứ; tác động không đúng đắn tới đồng hạn chế tạm giam sẽ không bị áp dụng biện phạm, nhân chứng, chuyên gia, hoặc khiến pháp này trừ một số trường hợp luật định. người khác thực hiện những hành vi này. Cụ thể, những đối tượng bị nghi ngờ xác Tuy nhiên, dù không có căn cứ bắt giữ đáng về việc thực hiện tội phạm, bị can, bị nhưng người bị buộc tội vẫn có thể bị tạm cáo không bị áp dụng biện pháp tạm giam là giam khi rơi vào các trường hợp: (1) Có căn những người thực hiện tội phạm ít nghiêm cứ rõ ràng để nghi ngờ người đó phạm tội trọng (các hành vi trái pháp luật với mức tại Điều 308 Bộ luật Hình sự (BLHS) Đức hình phạt thấp hơn một năm tù hoặc hình (khoản 1, 2, 3 - Tội phạm về cháy nổ) nhằm phạt tiền)4 đến 6 tháng tù hoặc phạt tiền đến thực hiện các hành vi diệt chủng tại điểm 180 đơn vị tính theo ngày (daily units). Tuy 1 khoản 1 Điều 6 Bộ luật những tội phạm nhiên, hạn chế này không áp dụng đối với chống lại Luật quốc tế (Code of Crimes trường hợp khi bị can trước đó đã trốn tránh against International Law - CCAIL); hoặc pháp luật hoặc đã chuẩn bị cho việc bỏ trốn; (2) Phạm tội tại khoản 1, 2 Điều 129a, khoản hoặc bị can không có nơi ở cố định hoặc nơi 1 Điều 129b (liên quan đến việc thành lập cư trú trong phạm vi lãnh thổ theo quy định các tổ chức khủng bố), Điều 211 (Tội giết của Luật này, hoặc bị can không thể khai người trong những trường hợp tăng nặng báo danh tính của mình5. trách nhiệm hình sự), Điều 212 (Tội giết 1.2. Căn cứ tạm giam người không thuộc các trường hợp tại Theo quy định của Điều 112 Bộ luật Điều 211), Điều 226 (Tội gây ra những tổn TTHS Đức, lệnh tạm giam có thể được áp thương trên cơ thể), Điều 306b, 306c BLHS dụng đối với người bị buộc tội nếu có đủ 2 Đức (liên quan đến tội làm hỏa hoạn). Theo điều kiện, một là có chứng cứ để nghi ngờ đó, trong lệnh bắt cũng phải ghi rõ các tình 1. Điều 453 - 455 và Điều 463 Bộ luật TTHS Đức năm 1987 (sửa đổi năm 2019). 2. Khoản 1 Điều 112 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 3. Điều 157 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 4. Điều 12 Bộ luật TTHS Đức năm 1998 (sửa đổi năm 2013). 5. Khoản 2 Điều 113 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. Số 02(426) - T1/2021 51
  3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ tiết dẫn tới sự nghi ngờ về tội phạm và căn với người bị tình nghi thực hiện tội phạm, cứ cho việc bắt, trừ khi việc đó ảnh hưởng bị can, bị cáo và luôn gắn liền với các căn tới an ninh quốc gia6. cứ bắt giữ. Như vậy, có thể thấy tạm giam Một số căn cứ khác cho việc bắt giữ được áp dụng ngay từ những giai đoạn đầu cũng được quy định tại Điều 112a Bộ luật tiên của quá trình tố tụng, từ khi xuất hiện tư TTHS Đức khi có căn cứ xác đáng để nghi cách người bị tình nghi thực hiện tội phạm ngờ rằng bị can sẽ thực hiện một số tội và kéo dài suốt quá trình này. Điều 121 Bộ phạm được liệt kê tại điều luật này và nếu luật TTHS Đức quy định, trong trường hợp có căn cứ cho thấy khả năng trước khi có bản án chưa được tuyên về việc quyết định bản án kết tội, người đó sẽ thực hiện tiếp hình phạt tù hoặc cải tạo giam giữ thì thời những tội phạm nghiêm trọng tương tự hạn tạm giam nhiều hơn 06 tháng đối với hoặc sẽ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, một hành vi phạm tội sẽ chỉ được áp dụng và việc tạm giam là cần thiết để ngăn ngừa trong trường hợp việc điều tra có khó khăn sự nguy hiểm sắp xảy ra. Tuy nhiên, những đặc biệt hoặc kéo dài bất thường hoặc vì căn cứ bắt giữ tại Điều 112 sẽ được ưu tiên một số lý do quan trọng khác mà việc tuyên áp dụng trước. Như đã đề cập, một số căn án bị cản trở và có cơ sở cho việc tiếp tục cứ được quy định tại khoản 2 Điều 113 Bộ tạm giam. Tuy nhiên, trong trường hợp này, luật TTHS Đức cũng có thể được áp dụng thời hạn tạm giam sẽ không kéo dài hơn 01 đối với những đối tượng phạm tội ít nghiêm năm nếu thuộc những căn cứ khác cho việc trọng đến 6 tháng tù hay phạt tiền đến 180 bắt giữ tại Điều 112a Bộ luật TTHS Đức7. đơn vị tính theo ngày. Trong trường hợp Tòa án Khu vực cấp trên Ngoài ra, theo quy định của khoản 4 (Higher Regional Court) ra lệnh tiếp tục tạm Điều 116 Bộ luật TTHS Đức, sau khi có giam thì biện pháp tạm giam vẫn tiếp tục quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt nhưng được áp dụng và Tòa án Khu vực cấp trên người bị buộc tội vi phạm một số căn cứ thì sẽ có thẩm quyền cho tới khi bản án được lệnh bắt sẽ được áp dụng lại kèm theo việc tuyên8. Tóm lại, ở Cộng hòa Liên Bang tạm giam. Những vi phạm đó có thể xuất Đức, biện pháp tạm giam được áp dụng phát từ việc bị can vi phạm nghiêm trọng thông thường dưới 06 tháng, nhưng trong nghĩa vụ và các hạn chế được áp dụng đối một số trường hợp ảnh hưởng đến việc giải với họ; bị can chuẩn bị bỏ trốn, vắng mặt quyết vụ án thì biện pháp này có thể được không có lý do chính đáng khi được triệu kéo dài đến 01 năm, đặc biệt Tòa án Khu tập, hoặc có biểu hiện khác khiến cơ quan vực cấp trên có quyền kéo dài thời hạn tạm có thẩm quyền mất niềm tin vào họ; hoặc giam cho đến khi bản án được tuyên, tức là có những tình tiết mới khiến cho việc bắt là trên 01 năm. cần thiết. 1.4. Hủy bỏ biện pháp tạm giam 1.3. Thời hạn tạm giam Theo quy định cùa Bộ luật TTHS Ở Cộng hòa Liên bang Đức, như đã Đức, việc hủy bỏ biện pháp tạm giam được đề cập, tạm giam có thể được áp dụng đối thực hiện thông qua quyết định đình chỉ 6. Điều 114 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 7. Điều 122a Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 8. Khoản 2 Điều 121 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 52 Số 02(426) - T1/2021
  4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ thi hành lệnh bắt nếu có sự đồng ý của cơ từ thời điểm một người được xác định với quan công tố hoặc quyết định hủy bỏ lệnh tư cách là bị can. Vì vậy, trường hợp người bắt của Tòa án. Quyết định đình chỉ thi bị tạm giam mà có bản án, quyết định của hành lệnh bắt sẽ được Thẩm phán áp dụng cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt nếu có các biện pháp ít nghiêm khắc hơn động TTHS xác định không có sự việc đủ để đảm bảo cho mục đích của việc tạm phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội giam và có căn cứ cho rằng, bị can sẽ tuân phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án thủ các yêu cầu nhất định; hoặc các biện mà không chứng minh được bị can đã thực pháp này có khả năng làm giảm đáng kể hiện tội phạm thì đó là một trong những căn những khó khăn của việc thu thập chứng cứ để xem xét bồi thường oan sai theo Luật cứ; hoặc bị can có đặt tiền hoặc tài sản để Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm đảm bảo9. Quyết định hủy bỏ lệnh bắt của 201712. So với Bộ luật TTHS năm 2003, Tòa án được ban hành khi không còn các biện pháp tạm giam được quy định trong căn cứ cho việc tạm giam, hoặc nếu việc Bộ luật TTHS năm 2015 đã có những điểm tiếp tục tạm giam không còn phù hợp với tiến bộ nhất định như có sự chặt chẽ hơn tính chất của vụ án, không còn tương xứng về căn cứ tạm giam, từ đó đảm bảo tốt hơn với những hình phạt dự kiến và với các quyền của bị can, bị cáo trong quá trình biện pháp cải tạo, phòng ngừa. Lệnh bắt tham gia tố tụng. cũng sẽ được hủy bỏ nếu cơ quan công tố 2.1. Đối tượng áp dụng và hạn chế áp có đề nghị trước khi có quyết định khởi tố dụng biện pháp tạm giam vụ án. Đặc biệt, lệnh bắt sẽ bị hủy bỏ nếu Đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp bị cáo được tuyên vô tội; không thể mở tạm giam theo quy định của Bộ luật TTHS phiên tòa hoặc nếu thủ tục tố tụng bị đình năm 201513 bao gồm bị can và bị cáo về tội chỉ10. Một điểm đáng lưu ý là việc hủy bỏ đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. lệnh bắt hoặc đình chỉ thi hành lệnh bắt Theo đó, có thể hiểu bị can, bị cáo bị khởi còn được xem xét dựa trên yêu cầu của tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội đặc biệt người bị buộc tội ở bất cứ thời điểm nào nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng đều có trong quá trình bị tạm giam11. thể là đối tượng bị tạm giam. Nói cách khác, 2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp này có thể được áp dụng từ khi có biện pháp tạm giam quyết định khởi tố bị can cho đến khi có bản Tương tự như pháp luật của Cộng án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp hòa Liên bang Đức, tạm giam là một trong luật. Tuy nhiên, không phải mọi bị can, bị những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc cáo thì đều sẽ bị tạm giam. Việc quyết định nhất được quy định tại Chương VII của Bộ có áp dụng hay không áp dụng biện pháp luật TTHS năm 2015, có khả năng hạn chế này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố một số quyền tự do của người bị buộc tội khác như loại tội phạm, mức hình phạt, tính 9. Điều 116, 116a Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 10. Điều 120 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 11. Điều 117 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. 12. Điều 18 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. 13. Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015. Số 02(426) - T1/2021 53
  5. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã tuy nhiên lại hạn chế áp dụng đối với đối hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối tượng là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con với đối tượng bị áp dụng. dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người Với mục đích nhân đạo, Bộ luật TTHS bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch năm 2015 quy định hạn chế tạm giam đối rõ ràng. Việc xác định tội đặc biệt nghiêm với một số chủ thể bao gồm: phụ nữ có trọng, tội rất nghiêm trọng để quyết định thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng có hay không việc áp dụng biện pháp tạm tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng mà giam được cơ quan có thẩm quyền căn cứ có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Theo đó, vào mức cao nhất của khung hình phạt tại những đối tượng này khi thuộc các trường khoản, điều được quy định trong BLHS hợp có thể tạm giam thì không bị áp dụng năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số biện pháp tạm giam mà bị áp dụng các biện điều năm 2017 (BLHS năm 2015), được pháp ngăn chặn khác ít bị hạn chế quyền tự thể hiện cụ thể trong quyết định khởi tố bị do hơn như biện pháp bảo lãnh, đặt tiền để can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú,… trừ một án ra xét xử. số trường hợp được quy định tại khoản 4 - Đối với hai loại tội phạm là nghiêm Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 có khả trọng và ít nghiêm trọng: Bộ luật TTHS năng gây cản trở quá trình giải quyết vụ án. năm 2015 giới hạn biện pháp tạm giam 2.2. Căn cứ tạm giam chỉ được áp dụng khi có đủ hai điều kiện: Điều 119, Điều 278 và Điều 347 Bộ (i) BLHS quy định hình phạt tù trên 2 luật TTHS năm 2015 quy định khá cụ thể năm, và (ii) Rơi vào một trong các trường các căn cứ tạm giam. Theo đó, biện pháp hợp luật định được quy định tại khoản 2 tạm giam được áp dụng đối với tất cả các Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015. Riêng loại tội phạm, từ tội ít nghiêm trọng cho đến đối với tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy tội đặc biệt nghiêm trọng. Hơn nữa, biện định hình phạt tù đến 02 năm thì tạm giam pháp tạm giam không chỉ được áp dụng vẫn có thể bị áp dụng nếu họ tiếp tục trong giai đoạn điều tra, truy tố mà còn được phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết áp dụng ngay cả trong giai đoạn xét xử sơ định truy nã15. Trường hợp phụ nữ có thai thẩm và xét xử phúc thẩm. Cụ thể, khi đến hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là ngày mở phiên tòa mà thời hạn tạm giam người già yếu, người bị bệnh nặng mà có đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam nơi cư trú và lý lịch rõ ràng về tội nghiêm để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét trọng và ít nghiêm trọng thì việc tạm giam xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc cũng được xem xét áp dụng tương tự như phiên tòa14. Tuy nhiên, việc áp dụng biện đối với loại tội đặc biệt nghiêm trọng và pháp tạm giam đối với mỗi loại tội phạm có tội rất nghiêm trọng. những giới hạn riêng: Như vậy, để khắc phục những vướng - Đối với bị can, bị cáo về tội đặc mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng: cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng, phạm ít nghiêm trọng mà BLHS quy định 14. Điều 278, Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015. 15. Khoản 3 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015. 54 Số 02(426) - T1/2021
  6. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ mức phạt tù đến 02 năm, Bộ luật TTHS ngày trong trường hợp Tòa án nhân dân năm 2015 quy định chỉ có thể tạm giam đối cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu mở tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ phiên tòa phúc thẩm và không quá 90 ngày trốn và bị bắt theo lệnh truy nã. Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án nhân dân cấp cao, nếu bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng Tòa án quân sự trung ương mở phiên tòa mà BLHS quy định từ 2 năm tù trở xuống phúc thẩm17. Đối với thời hạn tạm giam bị nhưng rơi vào căn cứ tại điểm a khoản 2 cáo để đảm bảo thi hành án sau khi tòa sơ Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 thì sẽ thẩm tuyên án, Bộ luật TTHS năm 2015 không bị tạm giam. ấn định là 45 ngày18, bất kể thời hạn chấp 2.3. Thời hạn tạm giam hành án phạt tù còn lại (sau khi đã trừ thời Theo quy định của Bộ luật TTHS năm hạn tạm giam) do tòa tuyên nhiều hơn hay 2015, thời hạn TTHS bao gồm: Thời hạn ít hơn 45 ngày. Ví dụ, bị cáo đã bị tạm giam của thủ tục tố tụng và thời hạn của biện 4 tháng trước khi xét xử, tại phiên tòa sơ pháp ngăn chặn16, trong đó có thời hạn áp thẩm bị cáo nhận mức án phạt tù với thời dụng biện pháp tạm giam. Do đây là biện hạn 5 tháng. Như vậy, thời hạn chấp hành pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nên thời án phạt tù còn lại của bị cáo chỉ còn 30 hạn áp dụng cũng được quy định chặt chẽ ngày trong khi Hội đồng xét xử (HĐXX) và tương ứng trong từng giai đoạn tố tụng phải ra quyết định tạm giam bị cáo nhằm chứ không tập trung trong cùng một điều đảm bảo thi hành án với thời hạn 45 ngày luật. Dựa vào đó, có thể đưa ra một số nhận theo quy định của luật. Vướng mắc này xét về thời hạn tạm giam được quy định gây nhiều khó khăn cho Tòa án trong thực trong Bộ luật TTHS năm 2015 như sau: tiễn xét xử. Do đó trên thực tiễn, nếu thời Một là, cơ sở để phân định thời hạn hạn chấp hành hình phạt tù còn lại dưới tạm giam ở các giai đoạn tố tụng có sự 45 ngày thì HĐXX ghi thời hạn tạm giam khác nhau. Nếu ở giai đoạn điều tra, truy bằng thời hạn chấp hành hình phạt tù còn tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy lại và trong trường hợp này sẽ ghi thêm định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng câu: “Hết thời hạn tạm giam này, Cơ sở loại tội phạm thì ở giai đoạn xét xử phúc giam giữ có trách nhiệm trả tự do ngay cho thẩm, thời hạn tạm giam trong khâu chuẩn bị cáo nếu họ không bị giam, giữ về hành bị xét xử và thời hạn tạm giam để đảm bảo vi vi phạm pháp luật khác”19. thi hành án lại căn cứ vào cấp Tòa án có Hai là, ở các giai đoạn điều tra, truy tố thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình và xét xử sơ thẩm, dù căn cứ vào từng loại sự. Theo đó, thời hạn tạm giam để chuẩn tội phạm để phân định thời hạn tạm giam, bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn nhưng thời hạn tạm giam cũng có sự khác bị xét xử phúc thẩm, tức là không quá 60 biệt giữa các loại tội phạm giống nhau ở 16. Hoàng Tám Phi (2019), “Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về thời hạn tạm giam trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, tr. 33. 17. Điều 346, 347 Bộ luật TTHS năm 2015. 18. Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015. 19. Biểu mẫu số 07, ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 về ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Bộ luật TTHS năm 2015. Số 02(426) - T1/2021 55
  7. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ các giai đoạn tố tụng khác nhau20. Lý giải không bị tạm giam do thời hạn tạm giam sự khác biệt này là do giai đoạn điều tra và đã chấm dứt tại thời điểm có quyết định xét xử được xem là hai giai đoạn trung tâm đưa vụ án ra xét xử. Đây chính là điểm của quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi các không rõ ràng trong luật, gây ra nhiều khó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khăn cho quá trình áp dụng của Tòa án trên phải tiến hành nhiều hoạt động điều tra để thực tiễn. Trong khi thời hạn tạm giam ở xác định sự thật vụ án, từ đó có căn cứ định khâu chuẩn bị xét xử phúc thẩm lại được tội danh và quyết định hình phạt. Vì thế, quy định rõ ràng, cụ thể: “Thời hạn tạm thời hạn điều tra đối với cùng loại tội phạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá nhưng ở hai giai đoạn này sẽ dài hơn cũng thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm quy là loại tội phạm đó nhưng trong giai đoạn định tại Điều 346 của Bộ luật này”22, tức truy tố. Hơn nữa, xuất phát từ vai trò của là bao hàm cả khoảng thời gian từ ngày có Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng quyết định đưa vụ án ra xét xử đến ngày hiện diện ngay từ những khâu đầu tiên của mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. quá trình giải quyết vụ án nên việc quy định Ba là, việc kéo dài thời hạn tạm giam thời hạn tạm giam để truy tố ngắn hơn thời cho ngang bằng với thời hạn của thủ tục tố hạn tạm giam trong hai giai đoạn còn lại là tụng ở từng giai đoạn cũng có sự khác biệt. hợp lý. Ở giai đoạn truy tố và xét xử sơ thẩm, thời Theo quy định của Điều 278 Bộ luật hạn tạm giam để truy tố và xét xử sơ thẩm TTHS năm 2015, thời hạn tạm giam để đối với tất cả các loại tội phạm đều có thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm không được quá được kéo dài ngang bằng với thời hạn truy thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản tố và xét xử loại tội phạm đó. Trong khi ở 1 Điều 277 của Bộ luật này. Đối chiếu với giai đoạn điều tra, chỉ duy nhất thời hạn khoản 1 Điều 277 Bộ luật TTHS năm 2015, tạm giam đối với loại tội phạm đặc biệt thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày nghiêm trọng mới có thể được kéo dài cho thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án ra một đến khi kết thúc việc điều tra, khi không trong các quyết định, trong đó có quyết có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam. định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, từ lúc Chúng tôi cho rằng, thời hạn tạm giam để có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi điều tra đối với tất cả các loại tội phạm mở phiên tòa sẽ có thêm một khoảng thời nên được kéo dài bằng với thời hạn điều gian tố tụng nữa. Theo đó, trong thời hạn tra tương ứng với loại tội phạm đó. Điều 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ này sẽ khắc phục được tình trạng hết thời án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; hạn tạm giam nhưng thời hạn điều tra chưa trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do kết thúc và không có căn cứ để áp dụng trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở các biện pháp thay thế tạm giam, đồng thời phiên tòa trong thời hạn 30 ngày21. Như cũng hạn chế được tình trạng cơ quan điều vậy, nếu căn cứ theo quy định của Điều tra khi hết thời hạn tạm giam thì nhanh 278, trong khoảng thời gian này, bị cáo sẽ chóng ra bản kết luận điều tra, kết thúc 20. Điều 172, 240, 241, 277, 278 Bộ luật TTHS năm 2015. 21. Khoản 3 Điều 277 Bộ luật TTHS năm 2015. 22. Khoản 2 Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015. 56 Số 02(426) - T1/2021
  8. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ giai đoạn điều tra và chuyển sang giai đoạn (pre-trial detention)23 và áp dụng đối với mới để tiếp tục tạm giam bị can, trong khi các đối tượng bao gồm người bị tình nghi vụ án vẫn chưa được điều tra toàn diện nên thực hiện tội phạm (khi có quyết định bắt), sẽ dễ gây ra oan sai. bị can (khi có quyết định truy tố của Viện 2.4. Hủy bỏ biện pháp tạm giam công tố) và bị cáo (khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án). Nhìn ở góc Điều 125 Bộ luật TTHS năm 2015 quy độ thời điểm áp dụng, biện pháp này được định những trường hợp bắt buộc (đương áp dụng ở Đức (thời điểm người bị tình nhiên) và tùy nghi (xét thấy cần thiết) trong nghi bị bắt) sớm hơn so với Việt Nam (thời việc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Theo đó, điểm người bị buộc tội đã là bị can). Do những trường hợp bắt buộc mà cơ quan có biện pháp bắt quả tang và tạm giữ người bị thẩm quyền phải ra quyết định hủy bỏ biện tình nghi ở Đức cần được xem xét ngay bởi pháp tạm giam là khi có: Quyết định không thẩm phán có thẩm quyền để quyết định có khởi tố vụ án hình sự; Quyết định đình chỉ hủy bỏ biện pháp tạm giữ hay không. Theo điều tra, đình chỉ vụ án; Quyết định đình đó, ngay sau khi bắt, người bị buộc tội được chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đưa đến trước Tòa án có thẩm quyền hoặc đối với bị can; trường hợp bị cáo được Tòa Tòa án địa phương nơi gần nhất, không án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm muộn hơn ngày tiếp theo sau khi bị bắt và hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nếu có căn cứ thì thẩm phán phải ra lệnh nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt bắt để tạm giam đối tượng này24. Do đó, cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. thời hạn tạm giữ theo quy định của pháp Tuy nhiên, như thế nào được xem là những luật TTHS Đức trước khi chuyển sang tạm trường hợp “xét thấy cần thiết” để hủy bỏ giam ngắn hơn thời hạn tạm giữ theo pháp biện pháp tạm giam thì pháp luật TTHS luật Việt Nam. Từ đó kéo theo biện pháp không quy định cụ thể mà tùy thuộc nhận tạm giam ở Đức sẽ được áp dụng sớm hơn định của cơ quan có thẩm quyền. ở Việt Nam. 3. So sánh quy định của pháp luật tố tụng Với những trường hợp hạn chế áp dụng hình sự Đức và Việt Nam về biện pháp biện pháp tạm giam, có thể thấy pháp luật tạm giam TTHS Việt Nam có điểm ưu việt hơn pháp 3.1. Về đối tượng áp dụng và hạn chế luật TTHS của Đức khi khoanh vùng một áp dụng biện pháp tạm giam số đối tượng đặc biệt không bị áp dụng (bao Nếu như ở Việt Nam, biện pháp tạm gồm phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới giam có thể được áp dụng đối với bị can 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh (khi có quyết định khởi tố bị can của cơ nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng) và quan có thẩm quyền) và bị cáo (khi có những trường hợp loại trừ này chỉ mất hiệu quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa lực khi các đối tượng này thực hiện hành vi án) thì ở Đức, biện pháp ngăn chặn này gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được áp dụng trước khi xét xử trong việc xác định sự thật vụ án. 23. Liên minh châu Âu (2013), Những hướng dẫn pháp lý về thủ tục TTHS và quyền bào chữa ở Đức (Legal guidance notes about Criminal proceedings and defence rights in Germany). 24. Điều 117 Bộ luật TTHS năm 2015. Điều 128 Bộ luật TTHS Đức năm 1987. Số 02(426) - T1/2021 57
  9. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 3.2. Về căn cứ tạm giam là không xuyên suốt và có sự ngắt quãng, Theo pháp luật TTHS Việt Nam, căn gây khó khăn cho quá trình áp dụng; trong cứ tạm giam dựa vào loại tội phạm, mức khi ở Đức, thời hạn tạm giam là xuyên suốt hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi trong cả quá trình tố tụng. Do đó, chúng tôi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và cho rằng, để bảo đảm quá trình TTHS diễn tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng. ra thuận lợi, cần sửa đổi Bộ luật TTHS năm Trong khi theo pháp luật TTHS Đức, căn cứ 2015 theo hướng cho phép kéo dài thời hạn tạm giam lại gắn liền với căn cứ bắt giữ. Có tạm giam đối với tất cả các loại tội phạm cho thể thấy, dựa vào việc phân loại tội phạm ngang bằng với thời hạn điều tra tương ứng để xác định căn cứ tạm giam ở Việt Nam dễ với loại tội phạm đó. dẫn đến sự thiếu đồng bộ và nhiều lỗ hổng. 3.4. Về hủy bỏ biện pháp tạm giam Vì vậy, Việt Nam có thể tham khảo những Theo pháp luật TTHS Đức, căn cứ để ưu điểm của pháp luật TTHS Đức về cách ra quyết định đình chỉ thi hành lệnh bắt khá thiết kế những căn cứ tạm giam theo hướng tương đồng với những căn cứ của quyết không dựa vào loại tội phạm mà xây dựng định thay thế biện pháp tạm giam theo pháp những căn cứ chung cho việc tạm giam. luật TTHS Việt Nam; những căn cứ hủy bỏ 3.3. Về thời hạn tạm giam lệnh bắt ở Đức cũng khá giống với căn cứ Nếu trong pháp luật TTHS Việt Nam, hủy bỏ biện pháp tạm giam ở Việt Nam. thời hạn tạm giam được căn cứ vào loại tội Tuy nhiên, pháp luật TTHS Đức có một sự phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của logic nhất định trong mối quan hệ nhân quả hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp giữa căn cứ tạm giam và việc hủy bỏ biện dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp pháp tạm giam. Vì căn cứ để tạm giam gắn dụng (trừ thời hạn tạm giam trong giai đoạn liền với căn cứ bắt giữ nên khi không còn xét xử phúc thẩm căn cứ vào cấp Tòa án có căn cứ bắt nữa thì việc tạm giam phải được thẩm quyền xét xử phúc thẩm) thì trong pháp hủy bỏ. Ở Việt Nam, căn cứ bắt buộc để luật TTHS Đức, thời hạn tạm giam được căn hủy bỏ biện pháp tạm giam là những căn cứ cứ chủ yếu vào căn cứ bắt giữ và tính chất đương nhiên mà nếu không quy định thì cơ nghiêm trọng, phức tạp của vụ án. Điểm khá quan có thẩm quyền cũng có thể hiểu rằng tương đồng trong thời hạn tạm giam của cả phải áp dụng như thế, việc quy định chỉ là hai quốc gia này là thời hạn tạm giam có thể hình thức để thống nhất việc áp dụng trên được kéo dài đến khi Tòa án tuyên án. Tuy thực tế. Ngoài ra, pháp luật TTHS Đức còn nhiên, có hai sự khác biệt mà Việt Nam cần cho phép người bị buộc tội có quyền yêu tham khảo kinh nghiệm của Đức: Thứ nhất, cầu Tòa án hủy bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ ở Việt Nam, trong giai đoạn điều tra, chỉ thi hành lệnh bắt bất cứ lúc nào trong quá thời hạn tạm giam để điều tra đối với loại trình tạm giam. Về vấn đề này, pháp luật tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được kéo dài Việt Nam cũng có quy định tương tự, nhưng đến hết thời hạn điều tra, trong khi ở Đức thì được thể hiện dưới dạng “quyền yêu cầu” không có sự phân biệt này; Thứ hai, quy định chung những vấn đề liên quan đến vụ án về thời hạn tạm giam trong khâu chuẩn bị của người bị buộc tội25 chứ không rõ ràng, xét xử tại Điều 278 Bộ luật TTHS năm 2015 cụ thể như pháp luật của Đức 25. Điều 58, 59, 60, 61 và Điều 175 Bộ luật TTHS năm 2015. 58 Số 02(426) - T1/2021
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0