TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 7 (12/2016) tr 120 - 131<br />
<br />
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ SƠN LA QUA LỄ HỘI MÙA XUÂN,<br />
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP<br />
Nguyễn Thị Huyền, An Thị Hồng Hoa<br />
Trung tâm Nghiên cứu văn hoá các dân tộc Tây Bắc, Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
Tóm tắt: Bài báo đề cập đến phát triển du lịch văn hóa thông qua một số lễ hội mùa xuân của dân tộc<br />
Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La: Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh<br />
Nhai, lễ hội đền vua Lê Thái Tông, lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La, lễ hội Hết Chá tại Mộc Châu. Bài báo<br />
cũng phân tích thực trạng lễ hội hiện nay và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn<br />
tỉnh Sơn La.<br />
Từ khoá: du lịch văn hoá, lễ hội truyền thống, các dân tộc Sơn La<br />
1. Mở đầu<br />
Sơn La được biết đến là vùng đất chứa đựng nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc về<br />
ẩm thực, phong tục tập quán, các di tích lịch sử văn hoá, trong đó lễ hội là một thành tố quan<br />
trọng cấu thành nên đặc trưng văn hoá các tộc người. Lễ hội đã trở thành một phần không thể<br />
thiếu, là món ăn tinh thần có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của đồng bào các dân tộc nơi<br />
đây. Bởi vậy, nghiên cứu và giới thiệu về một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu ở Sơn La có ý<br />
nghĩa thiết thực nhằm phát hiện những nét đặc trưng, riêng biệt của các dân tộc Sơn La; góp<br />
phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp đó; đồng thời góp phần quảng bá cho các lễ<br />
hội nhằm thu hút khách du lịch đến với Sơn La nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung ngày<br />
càng nhiều hơn.<br />
2. Nội dung<br />
2.1. Lễ hội và du lịch văn hoá<br />
2.1.1. Du lịch văn hoá<br />
Hiện nay, du lịch có rất nhiều hình thức như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du<br />
lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục, du lịch chữa bệnh… trong đó du lịch văn hóa được xác định<br />
là loại hình phù hợp với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong<br />
đó có Việt Nam. Du lịch văn hóa được hiểu là “hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa<br />
dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền<br />
thống” [3]. Du lịch văn hóa có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,<br />
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển; đồng thời mang lại nguồn lợi lớn cho cư dân, góp<br />
phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương; cùng với đó, du lịch văn hóa còn<br />
nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, quảng bá hình ảnh tươi<br />
đẹp của quê hương đất nước đến với du khách từ khắp mọi nơi.<br />
Với loại hình du lịch văn hóa, “tiềm năng phát triển chủ yếu dựa vào những sản phẩm<br />
văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo ra<br />
sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới” [3]. Như vậy, để phát<br />
<br />
Ngày nhận bài: 16/9/2016. Ngày nhận đăng: 25/12/2016<br />
Liên lạc: Nguyễn Thị Huyền, e - mail: Nguyenhuyenth1990@gmail.com<br />
<br />
120<br />
triển được loại hình du lịch này yếu tố chính là phải dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa<br />
dạng trong bản sắc văn hoá tộc người, trong đó lễ hội – nơi kết tinh các giá trị văn hoá, tinh<br />
thần từ ngàn xưa để lại của mỗi tộc người trở thành thành tố quan trọng nhất.<br />
2.1.2. Lễ hội<br />
Lễ hội có thể hiểu là“hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân<br />
cư trong thời gian và không gian xác định nhằm nhắc lại một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử<br />
hay một huyền thoại, đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với<br />
thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội” [3]. Lễ hội thường gồm 2 phần, phần lễ và<br />
phần hội. “Lễ là những nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa<br />
nào đó” [2], “Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc<br />
nhân dịp đặc biệt” [2]. Như vậy có thể thấy, “lễ” và “hội” là hai yếu tố có “mối quan hệ<br />
tương hỗ tồn tại trong sự thống nhất” [1]. Trong một cuộc lễ với quy mô từ cấp làng bản trở<br />
lên bao giờ cũng phải có “phần hội”, đồng thời không có hội nào không kèm theo lễ. Lễ và<br />
hội luôn quyện vào nhau, bổ sung cho nhau, cùng phản ánh hiện thực của cuộc sống. Vì thế,<br />
có người gọi là “lễ hội” nhưng cũng có người gọi là “hội lễ” tuỳ thuộc vào từng loại lễ hội<br />
mà nhấn mạnh mặt này hay mặt kia.<br />
Trong thực tế, xã hội ngày càng phát triển, lễ hội càng đóng vai trò quan trọng trong<br />
đời sống văn hoá của cộng đồng, nhất là đối với khu vực miền núi nơi có đông thành phần<br />
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi cộng đồng, mỗi tộc người đều có những lễ hội khác nhau về<br />
nội dung, phương thức, cách thức thể hiện song nét chung của các lễ hội đều nhằm thoả mãn<br />
các nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần không chỉ đối với bản thân các dân tộc khởi thuỷ<br />
của lễ hội mà còn có ý nghĩa đối với cả cộng đồng. Tham dự lễ hội, du khách sẽ cảm nhận<br />
được các sắc thái văn hoá khác nhau của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.<br />
2.2. Một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu của người Thái tỉnh Sơn La<br />
Sơn La là tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, hiện có 12 dân tộc sinh<br />
sống gồm Mông, Dao, Thái, Mường, Kinh, Kháng, Tày, Hoa, Lào, Xinh mun, Khơ mú, La ha.<br />
Trong đó cộng đồng người Thái chiếm khoảng 54% dân số toàn tỉnh. Bên cạnh những điểm<br />
nổi bật, làm nên nét riêng của văn hoá Sơn La như ẩm thực, nhà cửa, trang phục truyền<br />
thống… lễ hội đã trở thành một nét văn hoá đặc trưng của đồng bào nơi đây. Lễ hội của đồng<br />
bào các dân tộc Sơn La rất đa dạng. Lễ hội thể hiện rõ nét nhất đặc trưng văn hoá của từng tộc<br />
người. Chẳng hạn với người Mông, các lễ hội hầu hết đều mang tính chất gia đình, dòng họ.<br />
Với người Thái, lễ hội thường mang tính chất cộng đồng, rộng khắp… Là tộc người chiếm đa<br />
số cùng với lịch sử cư trú lâu đời ở vùng đất này, văn hoá của cộng đồng người Thái đã trở<br />
thành nền văn hoá chủ đạo, có tính chất bao trùm không chỉ đối với địa bàn Sơn La mà còn<br />
trải dài khắp miền Tây Bắc. Dưới ảnh hưởng của quá trình giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hoá<br />
Thái dù ít hay nhiều đã có những tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào đời sống văn hoá của<br />
các tộc người khác trong khu vực như người Kháng, người Tày, thậm chí người Kinh khi họ<br />
di cư đến vùng đất này. Chính vì thế, trong bài báo này, chúng tôi tập trung giới thiệu về một<br />
số lễ hội mùa xuân nổi bật của người Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La, qua đó phân tích về thực<br />
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hoá của tỉnh nhà.<br />
121<br />
2.2.1. Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh Nhai<br />
Quỳnh Nhai là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Sơn La, cách trung tâm tỉnh<br />
lỵ khoảng 60 km dọc tuyến quốc lộ 279 theo hướng đông bắc đi Than Uyên (Lai Châu). Từ<br />
lâu, vùng đất Quỳnh Nhai đã được biết đến với nhiều lễ hội truyền thống độc đáo như lễ Gội<br />
đầu, lễ Kin pang then (ăn mừng mệnh trời), tết Xíp xí (tết 14 tháng 7 âm lịch)… trong đó, lễ<br />
hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà là lễ hội văn hoá tiêu biểu nhất<br />
trong năm. Thực chất, ban đầu đây chỉ là lễ hội của người Thái trắng được tổ chức với quy<br />
mô nhỏ trong các bản làng. Vì cuộc sống của cư dân nơi đây phần lớn gắn liền với dòng sông<br />
Đà, vì thế sông nước có mối quan hệ mật thiết với đời sống người dân. Bà con nơi đây quan<br />
niệm rằng, những ai giỏi chèo thuyền là những người có khả năng chinh phục sông nước và<br />
thuận lợi trong làm ăn. Bởi vậy, ngay từ rất sớm các cuộc đua thuyền với quy mô nhỏ đã dần<br />
xuất hiện. Từ năm 2011, sau khi được tỉnh Sơn La lựa chọn, nghiên cứu phục dựng, lễ hội đền<br />
Nàng Han và đua thuyền trên sông Đà đã trở thành lễ hội thường niên, là ngày hội lớn của<br />
toàn thể các dân tộc trong huyện.<br />
Đền Nàng Han hiện toạ lạc trên khu vực đồi Pú Nghịu xã Mường Giàng, cách trung<br />
tâm huyện Quỳnh Nhai khoảng 2 km và cách địa điểm tổ chức hội đua thuyền truyền thống<br />
tại khu vực chân cầu Pá Uôn xã Chiềng Ơn khoảng 3 km. Từ lâu, đền thờ Nàng Han đã được<br />
biết đến là một di tích lịch sử, văn hoá nổi tiếng của vùng đất Quỳnh Nhai. Ngôi đền là nơi<br />
ghi dấu chiến công oanh liệt của vị nữ tướng Nàng Han đã có công lãnh đạo nhân dân 16 châu<br />
Thái đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại bình yên cho xứ sở, bản<br />
mường. Truyền thuyết về Nàng Han như một bản anh hùng ca ăn sâu vào đời sống tín ngưỡng<br />
của đồng bào Thái nói riêng và đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc nói chung. Câu chuyện đó<br />
được lưu truyền qua các thế hệ và trở thành một mạch nguồn xuyên suốt nối liền quá khứ,<br />
hiện tại và tương lai. Nàng Han đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng, bất tử về chủ nghĩa<br />
anh hùng và lòng tự tôn dân tộc.<br />
Lễ hội Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà thường được tổ chức vào<br />
ngày 10 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội là dịp để cộng đồng người Thái nói riêng và cộng<br />
đồng các dân tộc huyện Quỳnh Nhai nói chung tưởng nhớ và thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối<br />
với công lao của Nàng Han và các vị tiền bối đã có công trong việc bảo vệ bản mường, quê<br />
hương trong quá khứ. Qua đó góp phần tăng cường, giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương<br />
bản mường, luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh để bảo vệ sự bình yên cho quê hương của mỗi<br />
cá nhân, đặc biệt là lớp thế hệ trẻ hôm nay. Lễ hội Nàng Han đáp ứng nhu cầu về mặt tín<br />
ngưỡng tâm linh của đồng bào Quỳnh Nhai - cầu mong sự chở che, phù hộ của các vị thần<br />
linh cho năm mới được mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, nhân dân có cuộc sống no ấm,<br />
hạnh phúc. Hội đua thuyền truyền thống trên sông Đà là dịp để đồng bào vui chơi, giao lưu và<br />
cũng là hình thức để gìn giữ và phát triển các giá trị văn hoá mà cha ông đã để lại từ ngàn<br />
xưa. Vì vậy, lễ hội hàng năm vẫn thu hút được sự quan tâm của hàng nghìn khách du lịch và<br />
nhân dân địa phương.<br />
<br />
<br />
<br />
122<br />
2.2.2. Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La<br />
Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban là hai lễ hội lớn, lần đầu tiên<br />
được UBND thành phố Sơn La tổ chức với quy mô cấp thành phố vào năm 2015. Đây là “lễ<br />
hội kép” được tổ chức song song nhau trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến hết ngày 17<br />
tháng Giêng với mục tiêu vừa đảm bảo trang trọng về phần lễ được tổ chức tại khu vực đền<br />
thờ vua Lê Thái Tông, vừa tạo nên không khí vui tươi phấn khởi cho bà con nhân dân trong<br />
ngày hội với các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống được tổ<br />
chức tại lễ hội Mùa hoa Ban.<br />
Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông được tổ chức tại khu di tích lịch sử - văn hoá đền thờ<br />
vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế. Khu di tích nằm phía bên trái (hướng đi<br />
huyện Mường La), cách trục đường Lò Văn Giá khoảng 500 m, thuộc địa bàn tổ 3, phường<br />
Chiềng Lề, thành phố Sơn La.<br />
Đền thờ vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế là khu di tích nổi tiếng, có giá<br />
trị lịch sử thiêng liêng của thành phố Sơn La. Nơi đây minh chứng cho một thời kì hào hùng,<br />
oanh liệt của vị minh quân Lê Thái Tông, khi ông lần đầu tiên thân chinh đưa quân lên miền<br />
biên giới của Tổ quốc dẹp loạn quân phản nghịch Thượng Nghiễm ở châu Mường Muổi (nay<br />
là Thuận Châu - Sơn La) năm 1440. Sau chiến thắng, trên đường trở về Thăng Long, vua<br />
cùng quân sĩ đã dừng chân nghỉ tại Động La (người dân địa phương còn gọi bằng một tên gọi<br />
khác là Thẳm Báo Ké – hang Báo Ké). Trước khung cảnh non sông hùng vĩ, với tầm nhìn<br />
chiến lược cùng tâm hồn thi sĩ của một vị vua yêu nước, ông đã cho quân sĩ khắc lên vách núi<br />
bài thơ gồm 56 chữ Hán, làm với thể thất ngôn bát cú Đường luật với tựa đề “Quế Lâm ngự<br />
chế” (Nơi vua Quế Lâm ngự chế). Bởi thế, khu đền thờ vua Lê Thái Tông còn được nhiều<br />
người biết đến với cái tên Đền Quế Lâm ngự chế. Di tích văn bia Quế Lâm ngự chế được phát<br />
hiện năm 1965 và được Bộ Văn hoá Thông tin xếp bằng di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia<br />
ngày 5/2/1994. Ngày nay khi có dịp đến thăm khu đền, chúng ta vẫn sẽ được chiêm ngưỡng<br />
bút tích của bài thơ trên vách đá cao thẳng đứng với những nét khắc còn khá rõ ràng. Từ di<br />
tích văn bia đi xuống, rẽ theo hướng bên phải khoảng 200 m, chúng ta sẽ đến được khu đền<br />
thờ vua Lê Thái Tông. Khu đền này được được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 2001 và<br />
khánh thành vào ngày 22/1/2003 với diện tích 800 m2 theo hướng nam chếch đông và được<br />
xây theo lối kiến trúc của những ngôi đền cổ Việt Nam gồm các hạng mục: cổng tam quan,<br />
sân đền, nhà tả hữu mạc, toà đại bái và hậu cung.<br />
Đối với bà con nhân dân thành phố Sơn La nói riêng và toàn thể cộng đồng các dân<br />
tộc tỉnh Sơn La nói chung, từ lâu khu di tích đền thờ vua Lê Thái Tông đã trở thành điểm văn<br />
hoá tâm linh thiêng liêng. Theo lệ, cứ đến ngày rằm, mùng 1 hay dịp lễ tết, các chư hội, tăng<br />
ni phật tử cùng đông đảo bà con nhân dân lại tụ hội về đây, dâng nén hương thơm cầu bình an<br />
may mắn hay đơn giản chỉ là vãn cảnh đền để mỗi người có thời gian tĩnh tâm, cân bằng lại<br />
cuộc sống sau những bộn bề lo toan thường ngày.<br />
Chính vì vậy, tổ chức lễ hội đền Lê Thái Tông là việc làm thiết thực và có ý nghĩa xã<br />
hội to lớn: Lễ hội nhằm tôn vinh công lao của vua Lê Thái Tông, các tướng sĩ và nhân dân có<br />
công trong lịch sử dựng nước và giữ nước nói chung, bảo vệ biên giới miền Tây Bắc nói<br />
123<br />
riêng. Lễ hội chính là dịp để ôn lại truyền thống cách mạng cho nhân dân các dân tộc thành<br />
phố Sơn La, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và kế<br />
thừa sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, lễ hội góp phần thiết thực phục vụ nhu cầu<br />
hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân các dân tộc trong và<br />
ngoài tỉnh. Tạo ra các hoạt động văn hoá, thể thao sôi nổi lành mạnh, phát huy tinh thần đoàn<br />
kết, sáng tạo của nhân dân.<br />
Với mục tiêu như vậy nên lễ hội đền Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa Ban không tổ<br />
chức rườm rà về phần lễ mà phần lớn chú trọng vào phần hội với các trò chơi dân gian phong<br />
phú. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều hoạt động văn hoá dân gian được tổ chức đã thu hút<br />
sự quan tâm và nhiệt tình tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Chương trình ca múa<br />
nhạc luôn là những tiết mục mở màn của lễ hội, bên cạnh đó còn nhiều hoạt động khác như<br />
trưng bày sinh vật cảnh, thi ẩm thực, thi xoè, thi đấu các môn thể thao và trò chơi dân gian<br />
truyền thống như kéo co, đi cà kheo, tó má lẹ, tung còn, thi bắt cá, chọi gà, chọi chim… Đây<br />
đều là những hoạt động hết sức quen thuộc, gắn liền với đời sống văn hoá thường ngày của<br />
đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Bởi vậy, lễ hội không chỉ nhằm gìn giữ và phát huy các nét<br />
đẹp văn hoá truyền thống vốn có của đồng bào nơi đây mà còn góp phần tăng cường tình đoàn<br />
kết trong cộng đồng các dân tộc. Đồng thời, qua các hoạt động này, du khách tham dự lễ hội<br />
cũng phần nào có thể thấy được các nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc<br />
Sơn La.<br />
2.2.3. Lễ hội Hết chá của người Thái trắng xã Đông Sang huyện Mộc Châu<br />
Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp bậc nhất khu vực miền núi phía bắc,<br />
với khí hậu mát mẻ quanh năm. Nơi đây nổi tiếng với nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như<br />
hang Dơi, thác Dải Yếm, khu hồ sinh thái và rừng thông bản Áng (xã Đông Sang), đồi chè,…<br />
hàng năm đón hàng triệu lượt khách đến thăm quan và nghỉ dưỡng. Mộc Châu hiện có 12 dân<br />
tộc anh em cùng sinh sống, trong đó cộng đồng người Thái chiếm số lượng khoảng 1/3 dân số<br />
toàn huyện. Đến với Mộc Châu, du khách không chỉ được thưởng thức những cảnh quan thiên<br />
nhiên đẹp, ẩm thực phong phú, bên cạnh đó lễ hội cũng là một phần quan trọng làm nên nét<br />
văn hoá độc đáo của vùng đất và con người nơi đây. Mộc Châu có nhiều lễ hội như lễ hội<br />
Mùa hoa ban, lễ hội Hết chá, lễ hội Cầu mùa… thường được tổ chức vào mùa xuân hàng năm.<br />
Lễ hội Hết chá là lễ hội đặc sắc của người Thái trắng bản Áng, xã Đông Sang (huyện<br />
Mộc Châu, tỉnh Sơn La) được tổ chức vào ngày 26 tháng 3 hàng năm, tại gốc đa trên đồi gần<br />
trung tâm bản. Lễ hội Hết chá thực chất là “lễ tạ ơn của những người được thầy mo chữa cho<br />
khỏi bệnh, lễ tạ ơn trời đất, tổ tiên, thần sông, thần núi, thần thổ địa đã giúp cho con người<br />
sống ở trần gian duy trì được cuộc sống, đoàn kết xây dựng bản làng, cầu cho người khang<br />
vật thịnh, mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu…” [4].<br />
Về nguồn gốc lễ hội Hết chá, chuyện kể lại rằng: xưa kia người Thái rất nghèo, không<br />
có tiền mua thuốc chữa bệnh, thường phải đến nhờ thầy mo. Thầy mo dùng mẹo và nhờ thần<br />
linh nên đã chữa được bệnh cho dân làng. Mang ơn thầy mo, nhiều người xin được làm con<br />
nuôi của ông. Và rồi, cứ mỗi dịp cuối năm (vào 29, 30 Tết), con cháu lại đến tạ ơn thầy mo,<br />
<br />
124<br />
nhưng thời điểm đó đang bận rộn chuẩn bị đón tết nên thầy mo ấn định lễ tạ ơn sẽ tổ chức vào<br />
tháng 3 hàng năm. Cũng từ đó lễ hội Hết chá được hình thành.<br />
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu<br />
số vùng Tây Bắc hầu như không còn được duy trì và dần bị mai một theo năm tháng. Lễ hội<br />
Hết chá cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 5 khoá<br />
VIII của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân<br />
tộc”, năm 2005 cấp uỷ, chính quyền bản Áng xã Đông Sang đã ra nghị quyết phải khôi phục<br />
các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Lễ hội Hết chá là một trong<br />
những lễ hội truyền thống của người Thái trắng bản Áng được chi bộ lựa chọn để khôi phục,<br />
bảo tồn và truyền lại cho con cháu đời sau.<br />
Lễ hội Hết chá gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức tại Nhà văn<br />
hoá bản Áng, ngay bên gốc đa cổ thụ do thầy mo thực hiện. Lễ vật dâng cúng được các già<br />
làng và dân bản sắp, bày gồm có gà, vịt, lợn, xôi, rượu, các công cụ trừ tà và đặc biệt không<br />
thể thiếu là dâng hoa ban, hoa mạ thể hiện khát khao của người dân về cuộc sống ấm no, hạnh<br />
phúc, đoàn kết; đồng thời phê phán những cái xấu và khích lệ những cái hay, cái đẹp trong<br />
cuộc sống. Phần hội diễn ra ngay sau khi phần lễ kết thúc. Phần hội thường diễn ra các hoạt<br />
động vui chơi giải trí như thi đánh trống xoè, múa sạp; thi ẩm thực, nấu cơm; thi các môn thể<br />
thao, các trò chơi dân gian như kéo co, tung còn… với sự tham gia của toàn thể bà con dân<br />
bản.<br />
Lễ hội Hết chá là một hình thức sinh hoạt văn hóa quan trọng, mang đậm bản sắc của<br />
tộc người Thái trắng bản Áng xã Đông Sang, huyện Mộc Châu. Một mặt lễ hội là một nghi lễ<br />
mang tính tâm linh, là niềm tin của con người đối với cuộc sống, với thiên nhiên. Mặt khác lễ<br />
hội cũng thể hiện tính nhân văn, tôn vinh thầy thuốc với những nghi lễ bày tỏ lòng biết ơn,<br />
cảm tạ người đã chữa khỏi bệnh cho người dân, bản làng, các gia đình... để cuộc sống nhân<br />
dân được yên bình. Với những ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 26/3/2016, Uỷ ban nhân dân huyện<br />
Mộc Châu đã làm lễ đón nhận lễ hội Hết chá bản Áng xã Đông Sang là di sản văn hoá phi vật<br />
thể cấp quốc gia.<br />
2.3. Thực trạng lễ hội hiện nay<br />
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá độc đáo, làm nên nét riêng của mỗi dân tộc, đặc<br />
biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Đồng thời, lễ hội cũng là sợi dây vô hình,<br />
là cầu nối tình cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, với bản<br />
làng, quê hương xứ sở của mình. Trong những năm qua, với sự quan tâm, đầu tư của Nhà<br />
nước và địa phương, nhiều lễ hội văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn<br />
tỉnh Sơn La đã được phục dựng và có nhiều nét chuyển biến mới. Nhìn chung, lễ hội của các<br />
dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay đều có chung đặc điểm là đơn giản về phần lễ, còn phần<br />
hội lại được tổ chức hết sức náo nhiệt và sôi động. Lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân<br />
– thời điểm nông nhàn, theo các nghi lễ truyền thống và có nhiều trò chơi dân gian vì thế thu<br />
hút được sự quan tâm của khá đông người dân. Dựa trên tài liệu sưu tầm và quá trình tham gia<br />
trực tiếp một số lễ hội văn hóa trong tỉnh nêu trên, chúng tôi có thể nhận thấy tiềm năng phát<br />
<br />
125<br />
triển du lịch văn hoá, du lịch lễ hội của Sơn La là rất lớn nhưng hiện vẫn chưa khai thác được<br />
đúng mức.<br />
2.3.1. Hầu hết các lễ hội trên địa bàn tỉnh vẫn được tổ chức với quy mô nhỏ lẻ trong thời<br />
gian ngắn, chủ yếu vẫn được tổ chức dưới dạng nguyên sơ chưa nhằm mục tiêu phát<br />
triển du lịch, chưa có sự liên kết, phối hợp giữa các lễ hội ở các địa phương để có thể tạo<br />
nên các tour du lịch liên hoàn trong tỉnh.<br />
Phần lớn các lễ hội chỉ được tổ chức với thời gian ngắn, thông thường sẽ được tổ chức<br />
trong 1 ngày như lễ hội Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà, lễ hội Hết chá, lễ<br />
Mừng cơm mới, Xên bản Xên mường (cúng bản cúng mường), Xen pang ả (lễ hội của người<br />
Kháng do Pa ả - thầy cúng tổ chức)… hoặc cũng có lễ hội kéo dài trong khoảng 2 đến 3 ngày<br />
như lễ hội đền Lê Thái Tông, lễ hội Mương A Ma (cầu mùa) của người Xinh Mun… nhưng<br />
rất ít. Trong khi đó quy mô tổ chức các lễ hội vẫn còn giới hạn trong phạm vi hẹp. Đó có thể<br />
chỉ là những lễ hội với quy mô gia đình, dòng họ (lễ hội của dân tộc Mông), trong phạm vi địa<br />
phương bản mường, huyện lỵ như phần lớn các lễ hội của người Thái, người Kháng, người<br />
Xinh mun… hiện nay. Chính vì thế sẽ rất khó để chúng ta có thể tổ chức ra các tuyến du lịch<br />
dài ngày, có sự phối hợp giữa các địa phương.<br />
2.3.2. Khách du lịch và nguồn doanh thu từ du lịch<br />
Theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh Sơn La trong năm 2015, tỉnh Sơn La đón<br />
1,1 triệu lượt khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng, số lượt khách tăng 2,8% so với năm<br />
2014. Trong đó khách quốc tế đạt hơn 7.000 lượt, khách trong nước gần 1 triệu lượt. Khách<br />
đến du lịch chủ yếu là thăm thuỷ điện Sơn La, nhà tù Sơn La, nghỉ dưỡng cao nguyên Mộc<br />
Châu và một số địa điểm du lịch khác. Riêng với loại hình du lịch văn hoá lễ hội, lượng khách<br />
chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Điều này có thể hiểu rằng mặc dù các lễ hội trên địa bàn Sơn La rất đa<br />
dạng, mỗi tộc người đều có những lễ hội mang nét đặc trưng văn hóa riêng, tuy nhiên do phần<br />
lớn các lễ hội chưa được khai thác theo hướng phát triển du lịch mà chủ yếu vẫn chỉ nhằm<br />
mục đích phục vụ đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Vì thế, tham gia lễ hội phần lớn là<br />
người dân địa phương và khách trong tỉnh. Khách ở xa đến Sơn La trong những dịp này<br />
không đáng kể, phần lớn là khách ghé qua nghỉ lại 1, 2 ngày tận dụng thời gian rảnh rỗi, hoặc<br />
gặp đúng dịp lễ hội để thực hiện các chuyến thăm thú nếu họ quan tâm.<br />
Vì lượng khách du lịch ít, thêm vào đó do chưa xây dựng được các sản phẩm du lịch<br />
hấp dẫn, các dịch vụ chất lượng còn kém, các sản phẩm thủ công, quà lưu niệm hầu như vắng<br />
bóng do đó không kích thích được khách chi tiêu. Từ đó, doanh thu từ du lịch lễ hội là không<br />
đáng kể.<br />
2.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch<br />
Là tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc<br />
chủ yếu được tổ chức nhằm phục vụ nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân địa<br />
phương. Vì thế, các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho du lịch còn tương đối nghèo nàn. Trừ<br />
một số khu vực trung tâm như thành phố Sơn La, khu du lịch Mộc Châu… hầu hết ở các địa<br />
phương khác trong tỉnh hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng ăn uống, các địa điểm vui<br />
<br />
126<br />
chơi giải trí, thể dục thể thao phục vụ khách du lịch gần như không có. Du khách khi muốn<br />
tham dự lễ hội đều phải tự túc về nơi ăn chốn ở.<br />
Hệ thống giao thông còn khó khăn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển của<br />
ngành du lịch trong tỉnh. Mặc dù Sơn La có rất nhiều lễ hội đặc sắc như hội Chọi trâu (bản<br />
Tong Tải xã Nà Bó huyện Mai Sơn), lễ hội Mợi của người Mường (xã Quang Huy huyện Phù<br />
Yên), lễ hội Mừng cơm mới (xã Ngọc Chiến huyện Mường La),… song do đường sá đi lại<br />
khó khăn, hệ thống đường giao thông đã bị xuống cấp trầm trọng từ nhiều năm nay, đường<br />
nhiều ổ voi, ổ gà, vào những đợt thời tiết xấu (mưa gió, bão lũ, tố lốc…) còn có thể bị sụt lở<br />
đất đá… gây nhiều nguy hiểm trong việc đi lại. Chính vì thế, phần lớn lễ hội của các dân tộc<br />
thiểu số miền núi vẫn chưa thu hút được lượng khách từ nơi xa đến.<br />
Phương tiện vận chuyển khách du lịch cũng còn nhiều hạn chế. Do chưa được quan<br />
tâm, đầu tư để hướng hoạt động lễ hội vào mục đích phát triển du lịch nên chưa có hệ thống<br />
xe vận chuyển khách riêng biệt như các khu du lịch khác trong nước. Thậm chí, hệ thống xe<br />
khách, xe buýt di chuyển qua các địa điểm tổ chức lễ hội cũng không được đầu tư đồng bộ.<br />
Hiện nay, khách tham quan, du lịch muốn đến được các lễ hội, phần lớn đều phải tự chủ động<br />
về phương tiện đi lại (chủ yếu là xe máy).<br />
2.3.4. Các sản phẩm du lịch<br />
Đối với các lễ hội lớn trên phạm vi cả nước, ở đó các sản phẩm về du lịch thường<br />
được tập trung đầu tư như đồ lưu niệm, các sản phẩm thủ công truyền thống, ẩm thực đặc<br />
trưng của các dân tộc, các vùng miền… mang lại nguồn thu nhập lớn cho người dân cũng như<br />
chính quyền địa phương nơi đó. Đồng thời cũng chính các sản phẩm du lịch sẽ góp phần nâng<br />
cao thương hiệu và quảng bá rộng rãi lễ hội đến với nhân dân khắp mọi miền. Tuy nhiên, trên<br />
địa bàn Sơn La, ở hầu hết các lễ hội vấn đề đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá và tiêu thụ các sản<br />
phẩm du lịch vẫn chưa được thực hiện. Du khách khi đến với lễ hội nào đó muốn mua một<br />
món quà lưu niệm cũng không hề đơn giản.<br />
2.3.5. Công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư du lịch và và nâng cao chất lượng nguồn nhân<br />
lực du lịch<br />
Công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư du lịch còn nhiều hạn chế, chưa quảng bá rộng rãi<br />
về vùng đất, con người, các lễ hội của các dân tộc trong tỉnh để thu hút khách du lịch. Hầu hết<br />
các lễ hội chỉ được tiến hành thông báo mang tính chất nội bộ. Độ phủ sóng của công tác<br />
tuyên truyền, quảng bá cho lễ hội chưa thực sự cao. Hình thức quảng bá chưa thực sự phong<br />
phú để tất cả mọi người có thể nắm bắt được thông tin về các lễ hội như thời gian, địa điểm tổ<br />
chức lễ hội, các hoạt động chính của lễ hội là gì....<br />
Bên cạnh đó, do hoạt động du lịch văn hóa của tỉnh còn sơ khai nên đội ngũ lao động<br />
trong ngành này còn nhỏ, lực lượng lao động có chuyên môn cao chưa nhiều. Tại các điểm di<br />
tích, đặc biệt là các lễ hội văn hóa chưa có đội ngũ thuyết minh viên, hướng dẫn viên để phục<br />
vụ khách, hoặc nếu có cũng chỉ là hệ thống rất mỏng. Ví dụ, trên địa bàn thành phố Sơn La,<br />
mặc dù có khá nhiều các di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội song hầu hết đều được thực hiện một<br />
cách tự phát, không có đội ngũ hướng dẫn viên thuyết minh chỉ dẫn cụ thể, bởi vậy ngay<br />
<br />
127<br />
chính bản thân người dân địa phương cũng không hiểu được các giá trị chứa đựng trong<br />
những hoạt động văn hóa đó.<br />
2.3.6. Sự thay đổi nhận thức đối với các giá trị văn hoá truyền thống<br />
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa,<br />
nhiều lễ hội truyền thống của cộng đồng đang dần bị mai một, các yếu tố văn hóa ngoại lai<br />
đang dần thay thế các giá trị văn hóa truyền thống xưa kia bởi sự a dua học đòi, thiếu chọn lọc<br />
từ một bộ phận thế hệ trẻ. Do đó, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội cần được<br />
tăng cường hơn nữa. Trong những năm gần đây tỉnh Sơn La đã sưu tầm, nghiên cứu, phục<br />
dựng được một số lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc trong tỉnh như: lễ hội Xên bản<br />
xên mường của dân tộc Thái ở Sông Mã; lễ hội Xên lẩu nó của dân tộc Thái ở Thuận Châu; lễ<br />
hội “Cầu mùa” của dân tộc Khơ Mú ở Yên Châu; lễ hội “Pang a nụ ban” của dân tộc La Ha ở<br />
Mường La; lễ Lập tịnh của dân tộc Dao ở Mộc Châu; lễ hội Mợi của dân tộc Mường Phù<br />
Yên; lễ hội Tết Thanh Minh của dân tộc Dao Bắc Yên; lễ hội Đua thuyền các xã dọc sông Đà<br />
ở Bắc Yên, Quỳnh Nhai; lễ hội Tu su của dân tộc Mông ở Bắc Yên, Yên Châu… Tuy nhiên,<br />
số lượng các lễ hội được chọn lựa và phục dựng vẫn còn quá ít so với kho tàng lễ hội khổng<br />
lồ hiện vẫn đang được đồng bào các dân tộc bảo lưu.<br />
2.3.7. Việc lợi dụng lễ hội tổ chức các hoạt động phi pháp, gây ảnh hưởng đến đời sống<br />
văn hoá văn minh của cộng đồng<br />
Việc tổ chức lễ hội nhằm tạo điều kiện vui chơi, giải trí, thỏa mãn nhu cầu về văn hóa<br />
tinh thần cho nhân dân, song vẫn có một số đối tượng lợi dụng việc này để truyền bá những tư<br />
tưởng mê tín dị đoan, tụ tập uống rượu, đánh bạc, cá độ… gây mất đoàn kết trong gia đình và<br />
trong cộng đồng làng bản. Từ đó gây ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa của xã hội.<br />
2.4. Giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hoá trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện<br />
nay<br />
2.4.1. Ban hành hệ thống chính sách phát triển phù hợp<br />
Trước hết để phát triển ngành du lịch nói chung và du lịch văn hoá nói riêng, về phía<br />
các sở ban ngành, các cơ quan chức năng trong tỉnh cần phải có sự nhất quán trong công tác<br />
ban hành các chủ trương, chính sách, có đường hướng chỉ đạo, điều hành thực hiện cụ thể,<br />
tránh tình trạng mỗi cơ quan, mỗi địa phương làm một kiểu từ đó gây nên khó khăn và lãng<br />
phí về tiền của khi tổ chức các lễ hội mà không thu được hiệu quả như kế hoạch đề ra. Ngoài<br />
ra, các cơ quan ban ngành, đặc biệt là Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Sơn La cần có<br />
những chiến lược cụ thể trong từng giai đoạn nhằm đẩy mạnh phát triển ngành du lịch, đặc<br />
biệt là loại hình du lịch văn hóa.<br />
Thứ hai, hiện nay phần lớn các lễ hội chỉ tổ chức trong thời gian ngắn và cách xa nhau<br />
nên lượng du khách ở các tỉnh xa đến với Sơn La còn rất ít. Chính vì thế, các cơ quan chức<br />
năng của tỉnh cần nghiên cứu và có phương án tổ chức các lễ hội sao cho thích hợp để du<br />
khách có thể thực hiện được các chuyến đi dài ngày và tham dự được nhiều lễ hội, tham quan<br />
được nhiều di tích khác nhau. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư cho tài nguyên du lịch văn hóa,<br />
như: tu bổ các di tích lịch sử văn hóa, khảo sát và phục dựng thêm các lễ hội văn hóa truyền<br />
thống độc đáo của các dân tộc trên địa bàn tỉnh.<br />
128<br />
2.4.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch<br />
Ngành du lịch tỉnh Sơn La hiện vẫn đang trong giai đoạn “manh nha”, vì thế muốn<br />
thu hút khách du lịch cần phải tăng cường đầu tư các điều kiện về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật<br />
chất kĩ thuật. Hệ thống đường sá cần được đầu tư sửa chữa, xây mới đảm bảo cho việc đi lại<br />
của du khách khi đến với lễ hội được thuận lợi và dễ dàng nhất. Bên cạnh đó, cần nâng cấp hệ<br />
thống nhà nghỉ, nhà hàng, khách sạn vốn có cả về quy mô và chất lượng phục vụ, đầu tư thêm<br />
các khách sạn cao cấp nhằm phục vụ khách hạng sang trong và ngoài nước. Đầu tư và đảm<br />
bảo cho hệ thống đường điện chiếu sáng và thông tin liên lạc được thông suốt tại các điểm du<br />
lịch. Mở thêm các cửa hàng bán đồ lưu niệm, các sản phẩm thủ công truyền thống của đồng<br />
bào các dân tộc như đồ mây tre đan, đồ trang sức bằng bạc, sản phẩm thổ cẩm…<br />
2.4.3. Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch<br />
Sản phẩm du lịch là tổng thể các dịch vụ, hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của<br />
du khách. Như vậy, sản phẩm du lịch thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau như dịch vụ lưu<br />
trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí, đồ lưu niệm… Sản phẩm du lịch có đóng góp<br />
quan trọng trong việc thu hút khách du lịch và kích thích khả năng chi tiêu của du khách từ đó<br />
tăng doanh thu của ngành du lịch. Văn hoá các tộc người Sơn La rất đa dạng bởi vậy cần tùy<br />
thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương để chúng ta có hướng đầu tư phát triển các<br />
sản phẩm du lịch phù hợp, chẳng hạn như:<br />
Đối với dịch vụ lưu trú: bên cạnh hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, việc tổ chức mô hình<br />
lưu trú tại nhà dân, ở nhà sàn cùng đồng bào cũng cần được thực hiện nhằm tạo nên sự thích<br />
thú, khơi gợi cảm giác muốn trải nghiệm của du khách.<br />
Đối với dịch vụ ăn uống: đồng bào các dân tộc Sơn La có nhiều nét ẩm thực độc đáo,<br />
mang đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Bởi vậy tại các điểm du lịch văn hoá, đồng bào có thể<br />
mở các cửa hàng ăn uống chuyên phục vụ các món ăn dân tộc đặc trưng như các món nướng<br />
(cá nướng, gà nướng…), cơm lam, rượu cần của dân tộc Thái, món thắng cố của dân tộc<br />
Mông…<br />
Đối với dịch vụ giải trí: cần tổ chức nhiều hơn các trò chơi dân gian mang đặc trưng<br />
của đồng bào các dân tộc như tung còn, tó má lẹ, bắn nỏ… trong đó cần đặc biệt chú ý tạo<br />
điều kiện để du khách có thể cùng tham gia và trải nghiệm các trò chơi đó. Sự tham gia giữa<br />
du khách và người dân địa phương chính là hình thức quảng bá văn hoá thiết thực và hiệu quả<br />
nhất, góp phần gìn giữ và phát triển văn hoá của các dân tộc thiểu số trong tỉnh.<br />
Đối với dịch vụ sản xuất đồ lưu niệm: Cần khôi phục lại các làng nghề thủ công truyền<br />
thống, hình thành các cơ sở chuyên sản xuất và kinh doanh các mặt hàng quà lưu niệm. Đó có<br />
thể là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, trang phục truyền thống, đồ thổ cẩm,<br />
khăn Piêu… nhằm kích thích nhu cầu chi tiêu của du khách, từ đó mang lại nguồn lợi cho<br />
chính người dân địa phương để cải thiện cuộc sống.<br />
2.4.4. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực phát triển du lịch.<br />
Du lịch là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế. Vì thế, việc đào tạo nguồn nhân<br />
lực có chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho ngành du lịch là việc làm cần thiết và có ý nghĩa<br />
thiết thực. Trước mắt phải có sự sàng lọc, phân công cụ thể lực lượng chuyên môn phục vụ<br />
129<br />
trong ngành du lịch; đồng thời cần phải tiến hành đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết<br />
minh viên tại các điểm du lịch quan trọng của tỉnh; có chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm thu<br />
hút các nhà khoa học và nhân tài góp sức vào công tác phát triển du lịch văn hoá của tỉnh.<br />
2.4.5. Nâng cao ý thức người dân nhằm phát triển du lịch văn hoá bền vững<br />
Nhân dân chính là chủ thể của văn hoá, mỗi một tộc người Sơn La đều có những dặc<br />
trưng văn hoá khác nhau. Vì vậy, muốn phát triển du lịch văn hoá, trước hết cần phải nâng<br />
cao nhận thức của người dân. Đây là một vấn đề cấp bách bởi nếu nhận thức đúng về vấn đề<br />
du lịch, nhân dân sẽ tích cực tham gia bảo vệ các tài nguyên du lịch và phát triển du lịch.<br />
Cần tuyên truyền cho đồng bào thấy được những tiềm năng phát triển du lịch văn hoá<br />
trong địa bàn mình sinh sống, những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện, bên cạnh đó<br />
cũng cần chỉ ra những khó khăn thử thách và những hướng đầu tư phát triển trong tương lai.<br />
Du lịch văn hoá phát triển dựa vào các bản sắc văn hoá thể hiện trong phong tục tập<br />
quán, lễ hội của cộng đồng dân cư được truyền thừa qua các thế hệ. Khách du lịch tìm đến du<br />
lịch văn hoá để thu thập thông tin, tìm hiểu và trải nghiệm những nền văn hoá khác nhau ở<br />
khắp mọi nơi. Chính vì thế chính quyền địa phương cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục để<br />
người dân địa phương tự nhận thức trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt<br />
đẹp của dân tộc mình để đảm bảo cho du lịch văn hoá phát triển bền vững.<br />
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh việc xây dựng làng bản văn hoá, gia đình văn hoá, xây<br />
dựng lối sống văn minh trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong giao tiếp với du khách.<br />
Tăng cường ý thức người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên, không xả rác bừa bãi,<br />
ngăn chặn và xoá bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại.<br />
2.4.6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá cho du lịch<br />
Cần phải áp dụng nhiều phương pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá cho<br />
du lịch địa phương. Ngoài việc đăng tải thông tin trên website của các đơn vị chủ quản, cần<br />
thực hiện thêm nhiều hình thức khác như phát tờ rơi, tổ chức hội nghị, hội thảo về các di tích<br />
lịch sử, văn hoá, các lễ hội có giá trị; xây dựng chuyên mục du lịch để giới thiệu về các di tích<br />
lịch sử văn hoá, lễ hội của địa phương trên sóng truyền hình; tăng cường mối liên kết với các<br />
đơn vị lữ hành của tỉnh bạn như Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái nhằm thu hút khách du lịch theo<br />
tour khu vực; các đơn vị chức năng của tỉnh như Sở Văn hoá – Thông tin – Du lịch Sơn La,<br />
Trung tâm xúc tiến du lịch Sơn La cần thực hiện thêm nhiều chuyến khảo sát đánh giá, giới<br />
thiệu các tuyến du lịch mới trên địa bàn các huyện trong tỉnh…<br />
Đẩy mạnh việc kêu gọi các tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí cùng phối hợp với cơ<br />
quan nhà nước và người dân địa phương tổ chức hiệu quả các lễ hội nhằm phát triển du lịch<br />
của tỉnh từ đó nâng cao nguồn doanh thu từ du lịch văn hoá.<br />
2.4.7. Có cơ chế phân chia nguồn lợi công bằng, minh bạch<br />
Cần có cơ chế phối hợp tổ chức, quản lí và phân chia nguồn lợi rõ ràng, minh bạch<br />
giữa các bên tham gia gồm cơ quan chuyên môn nhà nước – nhà khoa học – các tổ chức đầu<br />
tư – người dân. Đây là nội dung quan trọng quyết định sự thành công của các mô hình du lịch.<br />
Du lịch văn hóa cần đảm bảo mối quan hệ cùng làm, cùng hưởng giữa các bên cùng tham gia<br />
<br />
130<br />
thực hiện, có như vậy mới thể duy trì được mô hình này một cách bền vững, thúc đẩy tính tích<br />
và tự giác của người dân trong công tác bảo vệ và phát triển du lịch mang tính bền vững.<br />
3. Kết luận<br />
Sơn La là vùng đất có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch văn hoá. Không chỉ phong<br />
phú về các lễ hội truyền thống, nơi đây còn có rất nhiều các di tích lịch sử văn hoá, các danh<br />
thắng tự nhiên tươi đẹp, các phong tục tập quán độc đáo của đồng bào các dân tộc. Vì vậy,<br />
trong những năm tiếp theo, nếu tỉnh Sơn La đề ra được các định hướng phát triển phù hợp và<br />
thực hiện hiệu quả thì tin chắc du lịch văn hoá Sơn La sẽ góp phần không nhỏ vào việc cải<br />
thiện đời sống nhân dân địa phương, thúc đẩy nền kinh tế tỉnh nhà phát triển mạnh mẽ.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía<br />
Bắc, Nxb ĐHQG Hà Nội.<br />
[2] Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà<br />
Nội – Việt Nam.<br />
[3] Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009), Bài giảng môn Tổng quan du lịch, Trường Cao đẳng<br />
nghề du lịch Vũng Tàu.<br />
[4] Sở Văn hoá, TT&DL Sơn La, Lễ hội Hết chá, trích trong Thông tin Khoa học chuyên<br />
đề số 3/2013, trang 16 – 22.<br />
<br />
DEVELOPING CULTURAL TOURISM IN SON LA PROVINCE<br />
VIA SPRING FESTIVALS - REALITY AND SOLUTIONS<br />
<br />
Nguyen Thi Huyen, An Thi Hong Hoa<br />
Tay Bac ethnic groups’culture research center - Tay Bac University<br />
<br />
Abstract. The article is about the development of cultural tourism in Son La province through several<br />
typical spring festivals of Thai ethnic people, namely Nang Han temple festival and traditional boat race in Da<br />
river in Quynh Nhai district, Le Thai Tong King’s temple festival, Ban flower festival in Son La city and Het Cha<br />
festival in Moc Chau district. The article also analyzes the current situations of organizing festivals and<br />
proposes some solutions to develop cultural tourism in Son La province.<br />
<br />
Keywords: cultural tourism, traditional festivals, ethnic groups in Son La,<br />
Keywords: cultural tourism, traditional festivals, ethnic groups in Son La,<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
131<br />