intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển hệ thống thông tin thị trường vùng nông thôn miền núi tỉnh Quảng Ngãi

Chia sẻ: Bình Bình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

45
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này xác định được hệ thống thông tin thị trường nông thôn vùng miền núi nhằm đề xuất các giải pháp cải thiện hệ thống thông tin để giúp cho các nông hộ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện sinh kế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển hệ thống thông tin thị trường vùng nông thôn miền núi tỉnh Quảng Ngãi

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011<br /> PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG VÙNG NÔNG THÔN<br /> MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI<br /> Mai Văn Xuân, Mai Lệ Quyên<br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Quảng Ngãi là một trong những tỉnh ở miền Trung có tiềm năng đáng kể về các sản<br /> phẩm nông nghiệp hàng hóa. Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định hệ thống thông tin thị<br /> trường vùng nông thôn miền Núi tỉnh Quảng Ngãi, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm<br /> giúp các hộ gia đình nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện sinh kế của họ. 450<br /> nông hộ ở 15 xã khác nhau cùng với 16 thương lái ở 6 huyện miền núi, và 35 chuyên gia được<br /> điều tra. Các phương pháp nghiên cứu thống kê như thống kê mô tả, ANOVA, Chi bình phương...<br /> được sử dụng để phân tích nguồn số liệu.<br /> Nghiên cứu chỉ ra rằng i) hệ thống thông tin thị trường ở vùng miền núi còn nghèo nàn,<br /> tính cạnh tranh thấp; ii) nông dân thiếu các thông tin về sản xuất và bán sản phẩm, khả năng<br /> nắm bắt thông tin còn rất hạn chế; iii) các dịch vụ về sản xuất và thương mại còn yếu; iv) cán<br /> bộ khuyến nông đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông tin về kĩ thuật sản xuất,<br /> trong khi đó thương lái cung cấp các thông tin thị trường. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số<br /> giải pháp nhằm phát triển hệ thống thông tin thị trường vùng miền núi Quảng Ngãi được đề<br /> xuất như sau i) xây dựng các chợ nông thôn; ii) phát triển các tổ hợp tác; iii) cải thiện điều kiện<br /> giáo dục và tập huấn cho nông dân; iv) nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là hệ thống<br /> giao thông; v) xây dựng các cơ sở chế biến nông sản.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Hệ thống thông tin thị trường nông thôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc<br /> nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân. Trong những năm qua, hệ thống<br /> thông tin thị trường ở vùng miền Núi tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều biến chuyển tích cực.<br /> Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là hệ thống đường sá, trường học, y tế đã được cải thiện<br /> đáng kể; dịch vụ viễn thông, Internet và khuyến nông phát triển ngày cành mạnh mẽ...<br /> Tuy nhiên, thông tin thị trường của vùng còn nghèo nàn; người dân còn gặp nhiều khó<br /> khăn trong việc nắm bắt thông tin nên sản xuất mang tính tự phát và chịu nhiều rủi ro.<br /> Vì vậy, nghiên cứu tìm ra những giải pháp phát triển hệ thống thông tin thị trường có ý<br /> nghĩa rất quan không những đối với sinh kế của người dân mà còn cho sự phát triển<br /> kinh tế - xã hội nông thôn.<br /> Mục đích nghiên cứu: xác định được hệ thống thông tin thị trường nông thôn<br /> 147<br /> <br /> vùng miền núi nhằm đề xuất các giải pháp cải thiện hệ thống thông tin để giúp cho các<br /> nông hộ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện sinh kế.<br /> Phương pháp nghiên cứu: Điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên 450 hộ nông dân thuộc<br /> 15 xã trong tổng số 57 xã ở 6 huyện vùng miền Núi tỉnh Quảng Ngãi; 16 thương lái; 35<br /> chuyên gia; nghiên cứu 6 chuỗi cung các sản phẩm chủ yếu ở địa phương. Số liệu được<br /> mã hóa và xử lý trên phần mền SPSS, áp dụng các phương pháp phân tích thống kê để<br /> tính toán, so sánh và đánh giá các chỉ tiêu cần thiết.<br /> Vài nét về địa bàn nghiên cứu: Quảng Ngãi là tỉnh nằm ven biển vùng Duyên<br /> hải Nam Trung bộ, tổng diện tích tự nhiên là 5.107,67km2, dân số năm 2007 là<br /> 1.306.307 người. Là địa phương tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đặc biệt là khu<br /> kinh tế Dung Quất - một trong những trung tâm Đô thị - Công nghiệp - Dịch vụ và đầu<br /> mối giao lưu quốc tế quan trọng của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Điều đó tạo<br /> nên một nhu cầu lớn về nông sản hàng hoá. Vùng miền núi tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 6<br /> huyện, chiếm 62,9% diện tích tự nhiên và 14,3% dân số toàn tỉnh; có tiềm năng lớn về<br /> phát triển chăn nuôi đại gia súc; cây lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày,<br /> cây lương thực thực phẩm. Cùng với các vùng khác, hình thành nên vành đai nông<br /> nghiệp phục vụ các khu kinh tế, khu đô của tỉnh.<br /> 2. Vài nét về hệ thống thông tin thị trường nông thôn<br /> Hầu hết các nghiên cứu về thị trường nông thôn đều cho rằng hệ thống thông tin<br /> thị trường còn nghèo nàn, nông dân rất thiếu thông tin. Kết quả nghiên cứu của VAMIP<br /> cho rằng nông dân tin tưởng vào thông tin của thương lái hơn các nguồn thông tin khác,<br /> trên 80% hộ bán hàng trực tiếp cho thương lái, 10% hộ tiêu thụ thông qua HTX, 8% hộ<br /> bán trực tiếp tại các chợ địa phương. Phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình và<br /> truyền thanh) đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển tải thông tin cho nông dân. Một số<br /> nghiên cứu khác cũng cho rằng chợ nông thôn, các điểm sinh hoạt cộng đồng như bưu<br /> điện văn hóa xã... có vai trò đáng kể cung cấp thông tin cho người dân. Người nông dân<br /> không những thiếu thông tin sản phẩm mà còn yếu về khả năng phân tích thông tin. Vì<br /> vậy, họ luôn thiệt thòi khi mua sản phẩm đầu vào (phân bón, máy móc thiết bị...) với giá<br /> tương đối cao và bán nông sản với giá tương đối thấp hơn. Nhiều nghiên cứu cho rằng<br /> để cải thiện hệ thống thông tin thị trường nông thôn cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ<br /> hơn của các cơ quan như tổng cục thống kê; Viettel, Microsft, Quỹ dịch vụ viễn thông<br /> công ích (VTF)... để triển khai chuyển tải thông tin. Mối liên kết giữa người sản xuất và<br /> thương lái qua hình thức tổ nhóm sản xuất - thương mại nên được khuyến khích; các tổ<br /> nhóm vay vốn nông thôn đóng vai trò quan trọng giúp nông dân, đặc biệt ở vùng miền<br /> núi tiếp cận thông tin tốt hơn nhất là nguồn vốn tín dụng. Nhiều nghiên cứu nhận định<br /> rằng nâng cao khả năng thu thập và phân tích thông tin của người sản xuất về là vấn đề<br /> then chốt. Trong những năm gần đây hệ thống thông tin thị trường nông thôn được cải<br /> thiện đáng kể với các tác động của các hoạt động sau:<br /> 148<br /> <br /> Mô hình TOT và vai trò của cán bộ khuyến nông, TOT là một mô hình đã được<br /> thừa nhận và áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới trong lĩnh vực khuyến nông<br /> và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, hầu hết hoạt động khuyến nông ở nước ta chủ yếu<br /> tập trung vào khía cạnh của kĩ thuật, chưa thực sự chú trọng đến thông tin thị trường và<br /> các dịch vụ kinh doanh.<br /> Hệ thống siêu thị đang mở rộng về vùng nông thôn, một số nghiên cứu chỉ ra<br /> rằng nhu cầu và sức mua của vùng nông thôn tăng nhanh. Vì vậy, hệ thống thống siêu<br /> thị đang mở rộng đến các tỉnh và vùng nông thôn. Quá trình này tạo ra nhu cầu sản xuất<br /> hàng hóa và giải quyết tốt hơn đầu ra cho hộ nông dân. Góp phần làm cho hệ thống<br /> thông tin thị trường nông thôn phong phú và rõ ràng hơn.<br /> Công nghệ Viễn thông, Thông tin – Internet đanh phát triển nhanh chóng ở vùng<br /> nông thôn. Quá trình này từng bước làm thay đổi hệ thống thông tin thị trường nông<br /> thôn truyền thống, người nông dân có thể tiếp cận được hệ thống thông tin nhanh hơn,<br /> chính xác và hiệu quả hơn. Đó cũng là cánh thức góp phần làm cho hệ thống thông tin<br /> thị trường nông thôn ngày càng trong suốt và hoàn hảo hơn.<br /> 3. Thực trạng thông tin thị trường vùng miền núi tỉnh Quảng Ngãi<br /> 3.1. Đặc điểm hộ điều tra<br /> Xét theo giới tính, Nữ là chủ hộ hoặc trả lời phỏng vấn chiếm 22,2%; nam chiếm<br /> 77,8%. Hầu hết là người dân tộc thiểu số, có trình độ văn hóa khá thấp (trung bình<br /> chung là lớp 4), thuộc loại hộ nghèo. Tuổi đời còn khá trẻ, bình quân chung là 40 tuổi<br /> và khá đồng đều giữa các huyện (tuổi thấp nhất là gần 37 tuổi và lớn nhất là gần 42<br /> tuổi). Mỗi hộ có trên 4,7 người trong đó có trên 2,8 lao động chính. Chủ yếu là lao động<br /> chuyên nông (trên 94%); trình độ văn hóa và chuyên môn rất thấp chủ yếu là lao động<br /> phổ thông. Đây là một trong những khó khăn và trở ngại đáng kể để phát triển thị<br /> trường thông tin, chuyển giao và áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất<br /> kinh doanh.<br /> Diện tích đất bình quân/hộ khoảng 13.500m2. Trong đó, chủ yếu là đất trồng cây<br /> hàng năm (trên 3.700m2, trồng lúa và sắn); cây keo trên 5.700m2. Cây công nghiệp ngắn<br /> ngày chiếm diện tích còn rất ít ỏi. Tổng giá trị tư liệu sản xuất bình quân/ hộ gần 11<br /> triệu đồng. Trong đó, trâu bò cày kéo và lợn nái sinh sản là tư liệu sản xuất chủ yếu (gần<br /> 6,5 triệu và 3,2 triệu theo mỗi loại). Nhìn chung trang bị tư liệu sản xuất của các nông<br /> hộ còn rất thô sơ. Số hộ có vay vốn bình quân chung là 44%. Mức vay trung bình mỗi<br /> hộ trên 4,6 triệu đồng. Các hộ vay chủ yếu cho chăn nuôi đại gia súc (gần 32% số hộ);<br /> và trồng cây công nghiệp dài ngày (24%); tuy nhiên một bộ phận đáng kể (24%) số hộ<br /> vay sử dụng vào các mục đích khác mà chủ yếu là làm nhà. Nguồn vay chủ yếu là từ<br /> ngân hàng NN&PTNT và ngân hàng CSXH. Thu nhập bình quân/hộ thấp trên 7,5 triệu<br /> đồng, chủ yếu là từ sản xuất trồng trọt (3,5 triệu đồng). Mức sống của các hộ dân khá<br /> thấp, trung bình là 133 nghìn đồng/khẩu/tháng.<br /> 149<br /> <br /> 3.2. Khả năng tiếp cận thông tin thị trường<br /> 3.2.1. Đường giao thông và chợ nông thôn có vai trò quan trọng trong việc giúp<br /> nông dân trao đổi sản phẩm, các thông tin về sản xuất, mua bán sản phẩm… Số liệu<br /> điều tra cho thấy, người dân miền núi tỉnh Quảng Ngãi còn gặp nhiều khó khăn trong đi<br /> lại: khoảng cách từ nhà đến đường giao thông chính còn khá xa, trung bình là gần 2km.<br /> Khoảng cách từ nhà đến chợ làng/bản, chợ xã hoặc chợ huyện dù đã có nhiều tiến bộ so<br /> với một số địa phương vùng miền núi khác, song nhìn chung vẫn còn khá xa. Cụ thể<br /> khoảng cách gần nhất từ nhà đến chợ làng/bản là 0,8km, đến chợ xã là 4,9 km, đến chợ<br /> huyện là 15,2km. Điều này gây ra nhiều khó khăn và hạn chế khả năng sản xuất và tiêu<br /> thụ sản phẩm của người nông dân ở đây.<br /> 3.2.2. Các nhóm hoạt động, hợp tác xã đóng vai trò rất quan trọng trong việc<br /> cung cấp các dịch vụ cho người nông dân. Tuy nhiên, ở đây hầu như chưa có hợp tác xã.<br /> Do đó, nhu cầu muốn tham gia vào một nhóm hoạt động hay một tổ chức nào đó cho<br /> nông dân là khá cao và tỷ lệ này khá đồng đều giữa các địa phương (nơi thấp nhất là gần<br /> 83%, huyện Ba Tơ và nơi cao nhất là gần 89% như huyện Trà Bồng). Hầu hết mục tiêu<br /> tham gia của người dân là muốn được hỗ trợ về kĩ thuật sản xuất và tiếp cận giống cây<br /> trồng và vật nuôi có năng suất cao (96% và 94% lần lượt theo các nhu cầu trên). Nhu<br /> cầu được các tổ nhóm hoạt động này giúp đỡ về tiếp cận tín dụng, tiêu thụ sản phẩm<br /> cũng khá cao (59,6% và 47,4%).<br /> Bảng 1. Khả năng tiếp cận thông tin và phương tiện truyền thông của các nông hộ<br /> ở vùng miền Núi Quảng Ngãi<br /> Đvt: (% số hộ điều tra)<br /> <br /> Thông tin và phương tiện<br /> truyền thông<br /> <br /> Trà<br /> Bồng<br /> <br /> Sơn<br /> Hà<br /> <br /> Minh<br /> Long<br /> <br /> Ba<br /> Tơ<br /> <br /> B/quân<br /> chung<br /> <br /> Tập huấn kĩ thuật sản xuất<br /> <br /> 92,4<br /> <br /> 76,4<br /> <br /> 85,1<br /> <br /> 77,1<br /> <br /> 83,7<br /> <br /> Tập huấn tiêu thụ sản phẩm<br /> <br /> 38,9<br /> <br /> 4,5<br /> <br /> 57,5<br /> <br /> 24,1<br /> <br /> 30,9<br /> <br /> Đánh giá chất lượng sản phẩm<br /> <br /> 35,9<br /> <br /> 10,9<br /> <br /> 31,0<br /> <br /> 9,6<br /> <br /> 23,2<br /> <br /> Dịch vụ vận chuyển<br /> <br /> 43,8<br /> <br /> 0,0<br /> <br /> 9,2<br /> <br /> 15,7<br /> <br /> 19,8<br /> <br /> Về nhu cầu của người tiêu dùng<br /> <br /> 36,1<br /> <br /> 0,0<br /> <br /> 12,6<br /> <br /> 6,1<br /> <br /> 16,1<br /> <br /> Bảo quản sản phẩm<br /> <br /> 6,9<br /> <br /> 0,0<br /> <br /> 1,1<br /> <br /> 6,0<br /> <br /> 3,8<br /> <br /> Điện thoại<br /> <br /> 40,3<br /> <br /> 1,8<br /> <br /> 8,0<br /> <br /> 47,0<br /> <br /> 25,0<br /> <br /> Báo chí hàng ngày<br /> <br /> 27,8<br /> <br /> 0,0<br /> <br /> 3,4<br /> <br /> 28,9<br /> <br /> 15,8<br /> <br /> Internet<br /> <br /> 9,8<br /> <br /> 7,3<br /> <br /> 1,1<br /> <br /> 6,0<br /> <br /> 6,6<br /> <br /> Nguồn: số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu, 2009.<br /> 150<br /> <br /> 3.2.3. Mức độ tiếp cận thông tin của người nông dân, kết quả điều tra cho thấy,<br /> hầu hết người dân có khả năng tiếp cận được các thông tin về sản xuất (có 83,7% tiếp<br /> cận được tập huấn về kĩ thuật sản xuất). Trong khi đó chỉ có 30% người dân tiếp cận<br /> được các thông tin thị trường; 16,1% biết được thông tin nơi tiêu thụ sản phẩm... Khả<br /> năng tiếp cận được các phương tiện thông tin hiện đại còn rất hạn chế: điện thoại, 25%;<br /> báo chí 15,8% đặc biệt Internet chỉ có 6,6%. Như vậy, có thể nói vùng miền núi tỉnh<br /> Quảng Ngãi đang còn đói thông tin trầm trọng.<br /> Không chỉ hạn chế trong năng lực tiếp cận thông tin, mức độ nắm bắt thông tin<br /> của người dân vẫn còn thấp. Theo đánh giá của cán bộ địa phương, người dân có khả<br /> năng nắm bắt được các thông tin phục vụ cho sản xuất (về khía cạnh kỹ thuật) với mức<br /> độ trung bình. Như giống cây trồng vật nuôi từ 51-57%; kỹ thuật sản xuất trên 65%. Đối<br /> với thông tin mang tính chất “kinh doanh” hầu như người dân chưa tiếp cận được. Số<br /> liệu điều tra cho thấy: trên 54% ý kiến cán bộ địa phương cho rằng người dân tiếp cận<br /> rất yếu các thông tin về các yếu tố dịch vụ đầu vào; hầu hết cho rằng người dân tiếp cận<br /> ở mức độ rất thấp các thông tin liên quan đến tiêu thụ sản phẩm: 71% nông dân không<br /> biết nơi tiêu thụ; từ 82-93% không nắm được thông tin liên quan đến vận chuyển, thanh<br /> toán và hợp đồng mua bán; 54% không nắm bắt được giá cả sản phẩm. Vì vậy, sản xuất<br /> ở đây chủ yếu mang tính tự phát, tự cung tự cấp.<br /> 3.2.4. Mức độ tiếp cận các dịch vụ sản xuất theo đối tượng và kênh cung cấp,<br /> thông thường các dịch vụ đầu vào của quá trình sản xuất ở các vùng nông thôn được<br /> HTX và các tổ chức tư nhân thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, do vùng miền núi Quảng<br /> Ngãi không có HTX nên dịch vụ đầu vào tại địa phương và mức độ tiếp cận, sử dụng<br /> các dịch vụ này của người nông dân là khá nghèo nàn. Nhiều dịch vụ quan trọng phục<br /> vụ cho việc sản xuất và tiêu thụ không có, hoặc là người nông dân không sử dụng đến.<br /> Cụ thể, dịch vụ làm đất: trên 88% người dân cho rằng không có và không sử dụng dịch<br /> vụ này; tương tự dịch vụ thu hoạch là 82,4%; dịch vụ sau thu hoạch là 90,9%. Trong khi<br /> đó, một số dịch vụ khác như dịch vụ cung cấp đầu vào và phòng trừ dịch bệnh được<br /> cung cấp chủ yếu bởi tư nhân như phân bón (trên 68%); giống cây trồng (31,3%); giống<br /> vật nuôi (34,9%) và phòng trừ dịch bệnh (47,8%).<br /> Bảng 2. Mức độ tiếp cận các dịch vụ sản xuất và thông tin thị trường qua các kênh<br /> <br /> Đvt: (% người trả lời)<br /> Không có<br /> và không<br /> sử dụng<br /> <br /> Báo<br /> chí<br /> <br /> Ti vi<br /> <br /> Giống cây trồng<br /> <br /> 18.7<br /> <br /> 4,0<br /> <br /> 4,5<br /> <br /> 1,7<br /> <br /> 61,6<br /> <br /> 0,7<br /> <br /> 8,8<br /> <br /> Giống vật nuôi<br /> <br /> 17.8<br /> <br /> 0,7<br /> <br /> 2,8<br /> <br /> 0,9<br /> <br /> 68,0<br /> <br /> 0,7<br /> <br /> 9,0<br /> <br /> Kỹ thuật sản xuất<br /> <br /> 12.5<br /> <br /> 0,2<br /> <br /> 3,3<br /> <br /> 0,9<br /> <br /> 74,9<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 7,6<br /> <br /> Các dịch vụ<br /> <br /> 151<br /> <br /> CB<br /> Thương<br /> Radio khuyến<br /> Khác<br /> lái<br /> nông<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2