Phát triển kinh tế số - Xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam
lượt xem 1
download
Bài viết "Phát triển kinh tế số - Xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam" nhấn mạnh xu thế phát triển tất yếu kinh tế số ở Việt Nam, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế số, đề xuất một hệ thống các giải pháp phát triển kinh tế số bền vững ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển kinh tế số - Xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ - XU THẾ TẤT YẾU CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Đinh Văn Hải1 Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống internet, mạng 5G, … đã có tác động vô cùng lớn lao đối với nền kinh tế thế giới, cũng như đối với mọi quốc gia, với mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế -xã hội và đời sống dân cư. Phát triển kinh tế số vừa là yêu cầu, xu thế của thời đại ngày nay với mọi quốc gia. Xây dựng và phát triển kinh tế số là một quá trình, cần được thực hiện từ bộ khung cơ chế chính sách đến xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhân lực công nghệ số chất lượng cao. Phát triển kinh tế số Việt Nam có nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn. Bài viết nhấn mạnh xu thế phát triển tất yếu kinh tế số ở Việt Nam, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế số, đề suất một hệ thống các giải pháp phát triển kinh tế số bền vững ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Kinh tế số, tính tất yếu, Cách mạng công nghiệp 4.0. Ngày nay với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống internet, mạng 5G, … đã có tác động vô cùng lớn lao đối với nền kinh tế thế giới, cũng như đối với mọi quốc gia, với mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế -xã hội và đời sống dân cư. I. KINH TẾ SỐ LÀ GÌ? Kinh tế số (Digital Economy) là một nền kinh tế duy trì và phát triển không ngừng dựa trên công nghệ số hiện đại. Kinh tế số còn được gọi là kinh tế Internet (Internet Economy), kinh tế mới (New Economy) hay kinh tế mạng (Web Economy). Nền kinh tế đặc biệt này được cấu thành từ các giao dịch điện tử qua internet. Theo “Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019”, kinh tế số là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số. Hoạt động phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số cùng dữ liệu để tạo ra mô hình hợp tác, kinh doanh kiểu mới, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ hiện đại. Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31/3/2022 chỉ rõ: Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế. Kinh tế số bao gồm: Kinh tế số ICT là công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông; kinh tế số nền tảng là hoạt động kinh tế của các nền tảng số, các hệ thống trực tuyến 1 Học viện Tài chính
- 16 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM kết nối giữa cung và cầu và các dịch vụ trực tuyến trên mạng; kinh tế số ngành là hoạt động kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực. Phát triển kinh tế số ICT với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam, hài hòa với thu hút FDI có chọn lọc, gia tăng hàm lượng xuất khẩu. Phát triển kinh tế số nền tảng với trọng tâm là các nền tảng số quốc gia, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số ngành, lĩnh vực. Phát triển kinh tế số ngành với trọng tâm là ưu tiên đưa vào sử dụng các nền tảng số dùng chung, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực. Trong kinh tế số, “dữ liệu” được coi là trái tim của công nghệ số, với nhiều nền tảng công nghệ trọng tâm là trí tuệ nhân tạo – AI, chuỗi khối – Blockchain, dữ liệu lớn – Big Data, Internet vạn vật – IoT, điện toán đám mây – Cloud Computing, nền kinh tế số mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các ngành, cho nền kinh tế tại các quốc gia. Xây dựng và phát triển kinh tế số là một quá trình, cần được thực hiện từ bộ khung cơ chế chính sách đến xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhân lực công nghệ số chất lượng cao. II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ - Phát triển kinh tế số là xu thế của tất cả các quốc gia hiện nay trên thế giới, kinh tế số góp phần tích cực cho tăng trưởng và phát triển của quốc gia. Trên thế giới, kinh tế số đang tăng trưởng rất nhanh, trở thành chìa khóa cho không ít nền kinh tế vươn ra toàn cầu. Tại Trung Quốc, từ năm 2008, kinh tế số đã chiếm 15% GDP, đến năm 2019 chiếm đến 37% GDP. Nhiều doanh nghiệp kinh tế số Trung Quốc đã trở thành những “gã khổng lồ” công nghệ, với năng lực phát triển và khả năng cạnh tranh toàn cầu mạnh mẽ. Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, năm 2017, kinh tế số chiếm khoảng 6% GDP. Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á năm 2019” do Google, Temasek và Bain thực hiện nhấn mạnh những xu hướng nổi bật nhất của ngành Công nghiệp số được ghi nhận trong năm 2019, phân tích tiềm năng hiện tại và tương lai của nền kinh tế số Đông Nam Á tại 6 thị trường lớn nhất bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Số liệu cho thấy, nền kinh tế số của khu vực vừa đạt một cột mốc mới, chạm ngưỡng 100 tỷ USD lần đầu tiên vào 2020, tăng 72 tỷ USD so với năm 2019. Nền kinh tế số tại Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đang tăng trưởng ở mức từ 20% đến 30% hằng năm. Trong khu vực ASEAN, theo Báo cáo e-Conomy SEA 2020, chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng năm 2020 đã đạt khoảng 105 tỷ USD (tăng 5% so với năm 2019) và dự kiến đến năm 2025 sẽ đạt 309 tỷ USD. Indonesia là nước có doanh thu kinh tế số Internet/nền tảng cao nhất với 44 tỷ USD năm 2020, tiếp theo là Thái Lan với 18 tỷ USD và Việt Nam với 14 tỷ USD, đến 2019 đã chiếm tới 25% GDP.
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 17 Hình 1: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh số của một số nước ASEAN năm 2020 Nguồn: Báo cáo e-Conomy SEA năm 2020 - Phát triển kinh tế số đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế - xã hội Phát triển nền kinh tế số làm thay đổi tư duy, thay đổi nhận thức, xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh mới năng động và hiệu quả cao, tạo cơ hội việc làm và tăng thêm thu nhập cho người dân. Chất lượng dịch vụ cuộc sống được nâng cao, vấn đề ô nhiễm môi trường được xử lý hiệu quả hơn so với thời điểm hiện tại. Nhờ có nền kinh tế số mà các ngành, nghề kinh doanh sôi động, từ thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến trên các trang mạng xã hội (Facebook, instagram), giải trí (Netflix, Pinterest), giao thông vận tải (Uber, Grab, GoViet) đến phân phối, bán buôn và bán lẻ (Lazada, Shopee)... đem lại nhiều thu nhập cho nền kinh tế cũng như cho các ngành, cho người lao động. Phát triển kinh tế số giúp mở rộng sản xuất, tăng sức cạnh tranh, giảm chi phí, tăng năng suất lao động, tạo sự tăng trưởng bền vững vì vận dụng nhiều tri thức hơn các tài nguyên tự nhiên: nhờ phát triển kinh tế số giúp mở rộng thị trường, lựa chọn các yếu tố đầu vào, giới thiệu sản phẩm tới khách hàng nhanh và hiệu quả, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, lưu thông: một số các giao dịch trước đây cần phải tiến hành trực tiếp thì nay có thể dễ dàng hoàn tất ngay trên điện thoại di động chỉ trong vài giây. Phát triển kinh tế số giúp giảm sự bất cân xứng về thông tin: Hệ thống sinh thái được thiết lập từ hoạt động công nghệ giúp tiếp cận nhanh với một lượng lớn người tiêu dùng. Nhờ phân tích dữ liệu về sở thích, thói quen người dùng cũng như tập trung vào mục tiêu cung cấp dịch vụ, hoạt động cung cầu phù hợp hơn, hạn chế tối đa sự bất cân xứng về thông tin. Phát triển kinh tế số giúp nâng cao hiệu quả sản xuất: Kinh tế số phát triển, sản xuất được tự động hoá, chu kỳ sản xuất được rút ngắn, đồng thời, chất lượng và mức độ tin cậy cũng được cải thiện, số lượng tầng lớp phân phối trung gian được giảm xuống, liên kết cung – cầu diễn ra ngay trên các nền tảng kỹ thuật số, nhờ vậy năng suất tăng lên, hiệu quả sản xuất cũng được nâng cao. Phát triển kinh tế số giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả
- 18 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời giúp các cấp, các ngành thay đổi phương thức và nâng cao năng lực quản lý điều hành. - Việt Nam ngày nay có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế số. Việt Nam là đất nước đông dân cư, với gần 100 triệu người, tỷ lệ dân cư trẻ cao, người dân Việt Nam đa phần yêu, thích công nghệ, hơn nữa Đảng và Chính phủ Việt Nam nhận thức rất rõ về tác động to lớn của kinh tế số tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, do vậy, đã có nhiều chính sách, đầu tư phát triển kinh tế số, đa phần các doanh nghiệp cũng nhận thức rõ về tác động to lớn của kinh tế số tới sự phát triển của mình. Trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng được một nền tảng cho phát triển kinh tế số: đào tạo đội ngũ nhân lực, hệ thống internet, mạng 5G, doanh nghiệp công nghệ, … tuy nhiên, bên cạnh những thành tích nổi trội cho tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: tư tưởng ngại đổi mới, thiếu tích cực, lợi ích của người tiêu dùng bị ảnh hưởng, tính bảo mật thông tin, ... những hạn chế này cần sớm được khắc phục. Do vậy, phát triển kinh tế số vừa là yêu cầu, xu thế của thời đại, nhưng hoàn toàn có thể phát triển, phát triển vững mạnh và bền vững ở Việt Nam. III. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SỐ - Những thuận lợi cơ bản trong phát triển nền kinh tế số của Việt Nam: + Đảng, Chính phủ, đa phần các ngành, doanh nghiệp và nhân dân có nhận thức đúng về phát triển kinh tế số, nhờ vậy đã có nhiều chủ trương, chính sách và đầu tư cho phát triển kinh tế số. Kinh tế số xuất hiện từ khi có máy tính, đặc biệt là khi có máy tính cá nhân vào cuối những năm 80. Kinh tế số bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ thời điểm cuối những năm 90 của thế kỷ trước, khoảng thời gian Internet bắt đầu có mặt tại Việt Nam, Kinh tế số dần được phổ cập khi mật độ điện thoại thông minh đạt mức trên 50%, vào cuối những năm 2000. Nó được thúc đẩy mạnh mẽ hơn với sự xuất hiện của cuộc CMCN 4.0, vào cuối những năm 2010. Từ năm 2009, Việt Nam đã ban hành Luật Công nghệ cao; năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”. Từ năm 2019 đến tháng 8 năm 2022, đã có nhiều Chỉ thị, Quyết định của Đảng, Chính phủ được ban hành để chỉ đạo, lãnh đạo chuyển đổi số, phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Bước ngoặt trong chỉ đạo của Đảng về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số ở Việt Nam là Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xác định chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ rất quan trọng, gắn với 3 trụ cột chính: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Ngày 03 tháng 6 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 nhằm mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Đặc biêt là ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 411/QĐ- TTg về Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 19 năm 2030, đặt ra các mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng góp 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; mọi người dân có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thông minh, không ai bị bỏ lại phía sau. + Hạ tầng công nghệ thông tin được phát triển, tỷ lệ sử dụng công nghệ phát triển rất nhanh. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều điểm thuận lợi trong tiến trình số hóa nền kinh tế và xã hội: khả năng tiếp cận và sử dụng công nghệ, internet của người dân, doanh nghiệp cao. Tính đến ngày 22 tháng 9 năm 2023, dân số Việt Nam là 99,861810 triệu người; có 72,1 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ 73,2%. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Từ tháng 9 năm 2021, Việt Nam đã hoàn thành và đưa vào sử dụng một số hệ thống cơ sở dữ liệu lớn (big data) phục vụ mục tiêu chuyển đổi số quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2015. Hạ tầng băng rộng di động đã phủ sóng 99,73% số thôn trên toàn quốc; 19,79 triệu hộ gia đình có cáp quang, đạt 72,4%. Hệ thống cáp quang đã triển khai tới 100% các xã, phường, thị trấn, 91% thôn bản, 100% trường học. Số thuê bao điện thoại di động sử dụng smartphone là 94,2 triệu; số thuê bao băng rộng di động là 82,2 triệu. Tỉ lệ 74,3% dân số. Có hơn 564 nghìn tên miền “.vn”, đứng thứ 2 ASEAN, top 10 khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Mức độ sử dụng IP (IPv4, IPv6) thuộc top 20-30 quốc gia trên toàn cầu, Tỉ lệ ứng dụng IPv6 Việt Nam đạt 53% với hơn 50 triệu người dùng IPv6, top 10 nước dẫn đầu thế giới về chuyển đổi IPv6, và rất nhiều các thành tựu khác,… Các doanh nghiệp Internet Việt Nam đã có sự vận động, thích ứng và lớn mạnh không ngừng, chuyển đổi mô hình từ phát triển kinh doanh hạ tầng chuyển sang phát triển kinh doanh nền tảng và từng bước vươn ra toàn cầu; … + Sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia đồng lòng của toàn dân về phát triển kinh tế số. Sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia đồng lòng của toàn dân chính là thuận lợi to lớn, là yếu tố đảm bảo sự thành công của phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Ở cấp độ quốc gia, phát triển kinh tế số là chuyển đổi chính phủ số, kinh tế số và xã hội số quốc gia. Ở cấp độ địa phương, phát triển kinh tế số là chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa phương đó. Địa phương phát triển kinh tế số thành công sẽ đóng góp vào thành công chung của phát triển kinh tế số quốc gia. Với sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn dân, với mục đích chuyển đổi số phải đến gần hơn với người dân, đến tháng 9 năm 2022, cả nước hiện có 45/63 tỉnh, thành phố đã thành lập, thí điểm triển khai tổ công nghệ số cộng đồng, với 39.631 tổ và gần 200 nghìn thành viên tham gia + Việt Nam có nguồn lao động, nhân lực trẻ, thông minh, ham học hỏi, sáng tạo, yêu thích công nghệ và sự đổi mới, thích ứng nhanh và có khát vọng làm giàu chính đáng để xây dựng đất nước phồn vinh hạnh phúc. Lợi thế này giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Phát triển kinh tế số giúp người dân bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ, đào tạo, tri thức, qua đó giúp thu hẹp khoảng cách số thông qua việc phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
- 20 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Ngoài ra, với đại dịch Covid 19, đặc biệt vào thời điểm cao trào cả nước cách ly, đây là khó khăn vô cùng to lớn cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia, chính trong khó khan đó đã nảy sinh những hình thức kinh doanh mới – kinh doanh online. Vì vậy, trên khía cạnh tích cực, đại dịch Covid 19 là yếu tố thúc đẩy đổi mới tư duy kinh doanh, đổi mới mô hình và cách thức kinh doanh có hiệu quả hơn. - Những khó khăn, thách thức lớn của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế số + Nhận thức của cộng đồng xã hội về phát triển kinh tế số hạn chế. Ở Việt Nam thời gian qua, nhận thức về phát triển kinh tế số trên cấp độ quản lý nhà nước, cấp độ doanh nghiệp và của người dân ở một bộ phận lớn chưa cao. Kiến thức của nhiều cán bộ, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số, cùng những thời cơ và thách thức đối với sự phát triển chưa đồng đều ở các cấp, các ngành dẫn tới nhu cầu, kế hoạch và hành động nắm bắt xu thế kinh tế số chưa kịp thời. Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên do Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (2019) công bố đã chỉ ra, có tới 85% doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn nằm ngoài nền kinh tế số và chỉ có 13% ở cấp độ mới bắt đầu. Nhận thức về kinh tế số, nhu cầu và hành động theo xu thế kinh tế số còn chậm chạp, chưa đồng đều, thống nhất từ trên xuống dưới là những hạn chế góp phần làm chậm xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam. + Môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển kinh tế số chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ. Ở Việt Nam thời gian qua, thể chế phát triển kinh tế số vừa thiếu, vừa nhiều lỗ hổng, chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, thiếu minh bạch và mang tính kiến tạo. Sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, sự bùng phát dịch Covid-19, các phương thức kinh doanh và ý tưởng sáng tạo mới xuất hiện khiến cho việc quản lý các hoạt động kinh tế số khá lúng túng: vấn đề quản lý và thu thuế đối với các hoạt động thương mại trực tuyến, đặc biệt là kinh doanh qua các mạng xã hội và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới; vấn đề bảo đảm quyền lợi cho người lao động và người tiêu dùng qua thế giới mạng, việc xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số chưa tốt. Hệ thống văn bản pháp luật ban hành còn thiếu đồng bộ, thiếu các quy định về giao dịch dữ liệu, bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư, cũng như tạo lập niềm tin trên không gian số; thiếu quy định về quyền cá nhân, khi ứng dụng AI, các quy định về định danh số và xác thực điện tử cho người dân chậm được ban hành. + Hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế. Quá trình chuyển đổi số chậm, thiếu chủ động một phần rất lớn do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế; thể chế và quy định pháp luật cho chuyển đổi số và các hoạt động kinh tế số của Việt Nam chậm hoàn thiện; hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới còn thiếu. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối dữ liệu còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều bộ, ngành xây dựng cơ sở dữ liệu còn phân tán và thiếu sự kết nối liên thông. Để những mô hình nền tảng dịch vụ về công nghệ, những mô hình dịch vụ công nghệ số triển khai tốt, đảm bảo rất cần sự kết nối chia sẻ dữ liệu từ các cơ quan Nhà nước. Nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt cũng là yếu tố thách thức, trở ngại đối với phát triển kinh tế số. Quan niệm cũ là tiền mặt được sử dụng trong các giao dịch thương mại thể hiện niềm tin và tôn trọng lẫn nhau đã làm giảm rất nhiều khả năng kết nối thành công các giao dịch kinh tế số.
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 21 + Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số. Nhân tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển kinh tế số là nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực công nghệ thông tin. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin là yếu tố then chốt, quyết định sự thành công của nền kinh tế số. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam hiện còn ít về số lượng, chưa bảo đảm về chất lượng. Trong khi giáo dục của Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển như vũ bão của kinh tế số. Thương mại điện tử đóng góp chính cho sự phát triển kinh tế số, nguồn nhân lực trong lĩnh vực này đòi hỏi lao động vừa có kiến thức về công nghệ, vừa phải hiểu biết về thương mại để nắm bắt kịp thời các xu hướng mới, ứng dụng một cách hiệu quả nhất, an toàn nhất trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy vậy, các kỹ năng này đều là điểm yếu của lao động Việt Nam. Các kỹ năng chuyên ngành công nghệ thông tin khó tuyển dụng gồm kỹ năng khai thác, sử dụng các ứng dụng thương mại điện tử, kỹ năng quản trị, kỹ năng xây dựng kế hoạch, triển khai dự án, kỹ năng quản trị cơ sở dữ liệu… Việt Nam hiện có khoảng 900.000 nhân lực công nghệ thông tin, trong đó có số lượng lớn kỹ sư về AI, IoT, khoa học dữ liệu. Số người được cấp chứng chỉ chưa nhiều. Tuy nhiên, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam vẫn xếp hạng trung bình khá về chất lượng, về lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong kinh tế số khi so với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế số của Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, tổng số nhân lực ngành công nghiệp công nghệ thông tin, mỗi năm số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành liên quan trực tiếp tới phát triển kinh tế số rơi vào khoảng 65.000 người, nhưng chỉ 60% đáp ứng được yêu cầu công việc. Còn theo TopDev, số lượng nhân sự công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kinh tế số và sản xuất, kinh doanh ngày càng thiếu hụt trầm trọng. Năm 2021, thị trường thiếu hơn 100.000 nhân sự. Đến năm 2022, con số thiếu hụt được dự báo là 150.000, khi nhu cầu tuyển dụng của thị trường lên đến 530.000 người + Thách thức về an ninh mạng, bảo mật an toàn thông tin. Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, Internet luôn chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể tham gia kinh tế số. Việt Nam là một trong những quốc gia thường xuyên bị tấn công và cũng dễ bị tổn thương khi bị tấn công mạng. Việt Nam nằm trong top 3 quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất thế giới với tổng cộng 70,7 triệu lượt máy tính bị tấn công bởi virus, gây thiệt hại khoảng 24.400 tỷ đồng (năm 2021). Hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lan tràn của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (Ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu, gây đình trệ hoạt động của nhiều cơ quan, doanh nghiệp. Nếu không bảo đảm an ninh mạng và an toàn thông tin sẽ cản trở mục tiêu đưa kinh tế số trở thành một trong những trụ cột chính của nền kinh tế. IV. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 4.1. Định hướng phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31/3/2022
- 22 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM chỉ rõ: Phát triển kinh tế số và xã hội số toàn diện trong tất cả các ngành, lĩnh vực, mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng góp 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; mọi người dân có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thông minh, không ai bị bỏ lại phía sau, tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, cụ thể như sau: 1. Nông nghiệp và nông thôn: Phát triển kinh tế số và xã hội số theo hướng nông nghiệp số gắn liền với nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn, nông thôn hiện đại, nông dân chuyên nghiệp, văn minh 2. Y tế: Phát triển kinh tế số và xã hội số theo hướng y tế số gắn kết thông suốt mạng lưới cơ sở khám, chữa bệnh từ trung ương tới cấp xã và với người dân 3. Giáo dục và Đào tạo: Phát triển kinh tế số và xã hội số theo hướng cơ sở giáo dục và đào tạo tiên phong triển khai áp dụng công nghệ số, tạo môi trường hình thành thế hệ công dân số và doanh nhân số cho tương lai. 4. Lao động, việc làm và an sinh xã hội: Phát triển kinh tế số và xã hội số theo hướng đẩy nhanh tiến trình thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực lao động, việc làm và an sinh xã hội; tạo lập và duy trì cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật kịp thời về người lao động và đối tượng chính sách trên phạm vi cả nước. 5.Thương mại, công nghiệp và năng lượng: a) Thương mại: Phát triển kinh tế số và xã hội số trong thương mại theo hướng tinh gọn và tăng hiệu quả của chuỗi cung ứng, góp phần hiện đại hóa chu trình kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu. b) Công nghiệp và năng lượng: Phát triển kinh tế số và xã hội số trong công nghiệp và năng lượng theo định hướng thiết lập môi trường phù hợp cho đổi mới sáng tạo, tăng cường sự chỉ đạo chiến lược và khai thác linh hoạt nguồn lực tài chính cho hoạt động hỗ trợ chuyển đổi số. 6. Du lịch: Phát triển kinh tế số và xã hội số theo hướng cung cấp đầy đủ thông tin và trải nghiệm trực tuyến cho khách du lịch trước khi thực hiện chuyến đi và trong khi thực hiện chuyến đi theo thời gian thực. 7. Tài nguyên và Môi trường: Xây dựng và tổ chức triển khai Kế hoạch hành động phát triển kinh tế số và xã hội số trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, … Xây dựng và tổ chức triển khai hạ tầng số, nền tảng dữ liệu số ngành tài nguyên và môi trường, ban hành và tổ chức triển khai Chiến lược tổng thể tài nguyên số trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường đến năm 2030 và định hướng đến năm 2035 làm định hướng phát triển kinh tế số, xã hội số ngành tài nguyên và môi trường; Mở mới, triển khai đào tạo chuyên ngành về khoa học dữ liệu, tài nguyên và môi trường số tại các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học trong ngành tài nguyên và môi trường. 8. Các ngành, lĩnh vực khác: Đối với các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính, giao thông vận tải, logistics, xây dựng và bất động sản, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và các ngành, lĩnh vực khác: tập trung phát triển kinh tế số và xã hội số trong từng ngành, lĩnh vực theo hướng thiết lập môi trường phù hợp cho đổi mới sáng tạo, tăng cường sự chỉ đạo chiến lược và khai thác linh hoạt nguồn lực tài chính cho hoạt động hỗ trợ chuyển đổi số, hình thành hệ sinh thái kinh tế số, xã hội số ngành, lĩnh vực.
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 23 STT TIÊU CHÍ 2025 2030 1 Tỷ trọng kinh tế số đạt ( % GDP) 20 30 2 Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu (%) 10 20 3 Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên (%) 10 20 4 Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên (%) 80 100 5 Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên (%) 50 70 6 Tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên (%) 2 3 4.2. Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Để kinh tế số Việt Nam phát triển mạnh, đạt 30% GDP (ngang bằng với đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo), đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới, thứ 3 trong khu vực ASEAN và đáp ứng được mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc năm 2030, cần tập trung thực hiện đồng bộ những giải pháp sau: 4.2.1. Đổi mới tư duy lãnh đạo quản lý và năng lực điều hành kinh tế Rào cản lớn nhất để phát triển kinh tế số không phải là vốn, công nghệ mà chính là nhận thức của người lãnh đạo. Việc chuyển sang nền tảng số đồng nghĩa với chuyển đổi mô hình kinh doanh, chuyển đổi về con người. Trong đó, sự chuyển đổi về con người là quan trọng nhất. Phát triển kinh tế số tạo ra một hệ sinh thái thống nhất, có sự kết hợp chặt chẽ giữa con người và hệ thống công nghệ. Cho nên, việc phát triển kinh tế số cần kèm theo sự phát triển năng lực của lãnh đạo. Để phát triển kinh tế số mỗi cá nhân và người lãnh đạo cần tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ số giúp phục vụ công việc trong tương lai và tự biết bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến. 4.2.2. Hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật đẩy mạnh phát triển kinh tế số Phát triển kinh tế số không phải là cuộc cách mạng về công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế, tư duy. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: Công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Khung thể chế và pháp lý đóng vai trò quan trọng trong quá trình số hóa. Những chính sách hợp lý về bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ và tự do hóa thị trường nghiên cứu khoa học sẽ tạo ra những bước đột phá cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế số. Xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số. Cải cách thể chế để thu hút đầu tư công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số. Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy định pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế số. 4.2.3. Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số Phát triển hệ thống hạ tầng số quốc gia đồng bộ, rộng khắp đảm bảo đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin, các chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn
- 24 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM mạng. Xây dựng, phát triển hạ tầng băng thông rộng chất lượng cao. Nâng cấp mạng di động 4G, phát triển mạng di động 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng IoT, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Mở rộng kết nối Internet trong nước, khu vực và quốc tế; chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng giao thức Internet thế hệ mới. Triển khai việc tích hợp cảm biến và ứng dụng công nghệ số vào hệ thống hạ tầng giao thông, điện, nước, quản lý đô thị. Xây dựng hệ thống hạ tầng thanh toán số quốc gia đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng kỹ thuật số. 4.2.4. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin phục vụ cho phát triển kinh tế số Bên cạnh chú trọng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, nguồn nhân lực công nghệ thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin. Cập nhật giáo trình đào tạo công nghệ thông tin gắn với các xu thế công nghệ mới như IoT, AI, công nghệ Robot. Phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển. Nghiên cứu nội dung, phương pháp đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới; tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học; xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại kiến thức nghề nghiệp; cung cấp khả năng tự học tập một cách linh hoạt, phù hợp đối với từng tổ chức, cá nhân… Có chính sách kết nối với cộng đồng khoa học, công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. 4.2.5. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng Việt Nam xếp thứ 25/194 quốc gia về an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2020, tăng so với thứ hạng 50 trên thế giới (năm 2018). Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, băng thông đủ rộng để vượt qua các cuộc tấn công gây nghẽn mạng, thành lập hệ thống máy lưu trữ dự phòng để chuyển hướng dữ liệu trước các cuộc tấn công và phục hồi sau tấn công mạng. Thường xuyên rà soát, phát hiện, khắc phục lỗ hổng bảo mật trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên dụng có khả năng kiểm tra, kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng viễn thông, Internet, tần số vô tuyến điện… Xây dựng, triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm kiểm tra, phát hiện các nguy cơ gây mất an ninh thông tin. Đảm bảo xử lý kịp thời các nguy cơ gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam. 4.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về công nghệ số và kinh tế số Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và áp dụng hiệu quả công nghệ số là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần tạo động lực mới cho tăng trưởng và phục hồi kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững, bao trùm và toàn diện. Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực số hóa là một nhân tố góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia. Việt Nam đã tham gia xây dựng nhiều quy tắc mới về thương mại điện tử trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, 2020) và Hiệp định
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 25 Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA, 2010). Việt Nam hợp tác với các nước để xây dựng khung pháp lý phù hợp, giúp kinh tế số phát triển đúng hướng, hiệu quả và hài hòa với lợi ích chung của toàn xã hội. Tăng cường kết nối cộng đồng khoa học công nghệ giữa các quốc gia, khu vực để nâng cao trình độ kỹ năng số. Tận dụng các cam kết trong các FTA Việt Nam đã ký với các nước đối tác để khôi phục, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đức (2019), Lo ngại nhân lực doanh nghiệp Việt “đuối” trong nền kinh tế số, https:// thegioitiepthi.vn/lo-ngai-nhan-luc-doanh-nghiep-viet-duoi-trong-nen-kinh-te-so-166323.html 2. Phạm Việt Dũng (2020), Kinh tế số - Cơ hội “bứt phá”cho Việt Nam, 3. Trần Thị Hằng, Nguyễn Thị Minh Hiền (2019), Quản lý nhà nước trong nền kinh tế số, , ngày 05/11/2019. 4. Bùi Thanh Tuấn (2020), Một số khó khăn, thách thức trong phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam, , ngày 18/4/2020. 5. Lê Văn Thắng (2020), An ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay - Vấn đề đặt ra và giải pháp, truy cập từ https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/05/12/an-ninh-thong-tin-o-viet-nam-trong- dieu-kien-hien-nay-van-de-dat-ra-va-giai-phap/ 6. Tương lai nền kinh tế số Việt Nam - Hướng tới năm 2030 và 2045. 7. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 8. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. 9. Bộ thông tin và truyền thông (2021), Cẩm nang chuyển đổi số, Nxb. Thông tin và truyền thông.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế - Sở hữu trí tuệ: Phần 1
183 p | 146 | 31
-
Kinh nghiệm Hàn Quốc và Trung Quốc trong phát triển kinh tế số - Một số bài học cho Việt Nam
9 p | 45 | 10
-
Phát triển nền kinh tế số nhìn từ kinh nghiệm một số nước châu Á và hàm ý đối với Việt Nam
23 p | 70 | 10
-
Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam
10 p | 68 | 10
-
Một số giải pháp phát triển kinh tế số để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
11 p | 53 | 9
-
Phát triển kinh tế số Malaysia - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
5 p | 81 | 9
-
Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
18 p | 12 | 8
-
Phát triển kinh tế số ở Việt Nam: Những bước đi ban đầu và giải pháp
10 p | 14 | 8
-
Phát triển kinh tế số ở Việt Nam và hàm ý chính sách
7 p | 12 | 8
-
Nhận thức và giải pháp phát triển kinh tế số ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
9 p | 13 | 7
-
Phát triển kinh tế số: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
12 p | 33 | 7
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế số tại Việt Nam
15 p | 39 | 7
-
Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
4 p | 21 | 6
-
Đào tạo nguồn nhân lực số trong xây dựng và phát triển kinh tế số tại Việt Nam
14 p | 10 | 5
-
Gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số ở Việt Nam
16 p | 10 | 4
-
Phát triển kinh tế số - bài học kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam
18 p | 29 | 4
-
Một số giải pháp chủ yếu để thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2019
13 p | 22 | 2
-
Về điều kiện phát triển kinh tế số ở Việt Nam
11 p | 35 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn