TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
<br />
PHẪU THUẬT DỜI THẦN KINH Ổ RĂNG DƯỚI VÀ<br />
CẤY GHÉP IMPLANT NHA KHOA: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG<br />
Võ Văn Nhân<br />
Hội Răng Hàm Mặt thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
Kỹ thuật dời thần kinh ổ răng dưới để chuẩn bị vùng đặt implant được Jenson và Nock thực hiện lần đầu<br />
vào năm 1987, đây là một trong các lựa chọn can thiệp nhằm tăng thể tích xương hàm dưới, đặc biệt theo<br />
chiều nhai - nướu. Báo cáo mô tả một trường hợp lâm sàng dời thần kinh ổ răng dưới, kết hợp ghép xương<br />
mào chậu tăng chiều cao xương, đặt 4 implant và phục hình toàn hàm nâng đỡ trên implant ở một bệnh<br />
nhân nam 59 tuổi có tình trạng xương hàm dưới tiêu xương ở mức độ trầm trọng. Kỹ thuật ghép nướu sừng<br />
hóa, tăng độ sâu ngách hành lang cũng được phối hợp nhằm cải thiện tình trạng mô quanh implant và mô<br />
liên kết vùng sống hàm lỏng lẻo. Kết quả: có tình trạng tích hợp xương tốt ở cả 4 implant, phục hình vững ổn<br />
và thực hiện chức năng tốt; không có biến chứng, dị cảm môi hồi phục hoàn toàn sau 4 tháng, bệnh nhân<br />
vận động bình thường 4 tuần sau phẫu thuật lấy xương mào chậu.<br />
<br />
Từ khóa: dời thần kinh ổ răng dưới, implant nha khoa<br />
<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Một trong những vấn đề thường gặp ở năm 1992, Rosenquist [2] thực hiện trên 10<br />
bệnh nhân có xương hàm dưới bị tiêu xương bệnh nhân (26 implant), với tỷ lệ implant thành<br />
trầm trọng có chỉ định đặt implant là thiếu thể công là 96%. Tuy nhiên, quá trình phẫu thuật<br />
tích xương, đặc biệt trong vùng giải phẫu liên dời thần kinh rất phức tạp, luôn kèm theo các<br />
quan đến ống thần kinh răng dưới. Trong các biến chứng kéo dài như: dị cảm môi, nhiễm<br />
trường hợp này, cần chuẩn bị vùng xương trùng, gãy xương bệnh lý (trong đó, dị cảm<br />
tiếp nhận implant với chiều cao từ đỉnh sống môi là một triệu chứng luôn xảy ra, thường có<br />
hàm đến thần kinh ổ răng dưới đủ để đặt tính chất tạm thời, song có thể không hồi phục<br />
được implant có chiều dài thích hợp một cách trong một số trường hợp) [3; 4]. Tình trạng<br />
an toàn (cách ống thần kinh 2 mm). sức khỏe và thần kinh tâm thần của bệnh<br />
Có nhiều phương pháp được tiến hành nhân, mức độ nhạy cảm, khả năng chấp nhận<br />
nhằm cải thiện chiều cao từ đỉnh sống hàm và hợp tác trong phẫu thuật và điều trị của<br />
đến ống thần kinh răng dưới như ghép xương bệnh nhân cũng là những yếu tố quan trọng<br />
theo chiều dọc, kéo dãn xương, tái sinh cần lưu ý khi lựa chọn bệnh nhân.<br />
xương hướng dẫn, dùng implant ngắn và dời Với đặc điểm là một phẫu thuật có tính kỹ<br />
thần kinh ổ răng dưới. Phương pháp dời thần thuật cao, đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh<br />
kinh để đặt implant đã được Jenson và Nock nghiệm và chỉ định điều trị khá chặt chẽ, phẫu<br />
thực hiện lần đầu vào năm 1987 [1]. Sau đó, thuật dời thần kinh răng dưới không phải là<br />
một phẫu thuật được thực hiện phổ biến. Tuy<br />
Địa chỉ liên hệ: Võ Văn Nhân, 807 đường 3 tháng 2, P.7, vậy, kỹ thuật này cũng có một số ưu điểm: cho<br />
Q.10, thành phố Hồ Chí Minh.<br />
phép đặt implant có chiều dài thích hợp đảm<br />
Email: Drnhan1@gmail.com<br />
Ngày nhận: 23/9/2013 bảo tính sinh cơ học khi implant tải lực nhai<br />
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 nhờ tỉ lệ thân răng và chân răng phù hợp (so<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 89<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
với sử dụng implant ngắn để tránh chạm thần - Bệnh sử tổng quát: bệnh nhân nam 59<br />
kinh); rút ngắn thời gian điều trị do dời thần tuổi, tình trạng sức khỏe tốt, không có bệnh<br />
kinh, đặt implant và ghép xương cùng một lúc; toàn thân như: tiểu đường, tim mạch … không<br />
hạn chế số lần phẫu thuật. có thói quen uống rượu, hút thuốc.<br />
Bài báo này mô tả một trường hợp lâm - Bệnh sử răng hàm mặt<br />
sàng dời thần kinh ổ răng dưới, kết hợp ghép Hàm trên: bệnh nhân mất răng từ răng 17<br />
xương mào chậu tăng chiều cao xương để đặt<br />
đến răng 21, có mang phục hình tháo lắp bán<br />
implant có chiều dài thích hợp và thực hiện<br />
phần nền nhựa (hình 1a).<br />
phục hình toàn hàm nâng đỡ trên implant. Kỹ<br />
thuật ghép nướu sừng hóa, tăng độ sâu Hàm dưới: vùng cành ngang bên trái bị<br />
ngách hành lang được phối hợp nhằm cải đạn bắn, đã được ghép xương khối mào chậu<br />
thiện tình trạng mô quanh implant và mô liên<br />
cách đây 40 năm, hiện tại đoạn ghép này bị<br />
kết lỏng lẻo vùng sống hàm. Đồng thời, báo<br />
lệch ra ngoài cung hàm (hình 2). Mất răng từ<br />
cáo cũng xác định tính an toàn của kỹ thuật,<br />
răng 38 đến răng 47, chân răng 48 lung lay,<br />
mức độ biến chứng về chức năng thần kinh<br />
và biến chứng tại vùng mào chậu cho xương phục hình tháo lắp kém vững ổn và đau khi ăn<br />
ghép. nhai. Xương hàm dưới tiêu xương trầm trọng,<br />
đỉnh sống hàm 2 bên ngang với sàn miệng và<br />
II. GIỚI THIỆU BỆNH ÁN<br />
ở mức thấp hơn gai cằm. Mô trên sống hàm<br />
1. Bệnh nhân rất lỏng lẻo, hoàn toàn không có nướu sừng<br />
hóa (hình 1b).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
a b<br />
<br />
<br />
Hình 1. Tình trạng răng miệng của bệnh nhân<br />
a. Tình trạng hàm trên: hàm tháo lắp từ R17 đến R21.<br />
b. Tình trạng hàm dưới: đỉnh sống hàm thấp hơn sàn miệng và mô liên kết lỏng lẻo (mũi tên<br />
chỉ vị trí đỉnh sống hàm).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Hình ảnh hàm trên và hàm dưới<br />
trên phim toàn cảnh<br />
<br />
Đầu mũi tên chỉ vị trí vùng cành ngang lệch<br />
ngoài cung Mũi tên chỉ vị trí thần kinh ổ răng.<br />
<br />
<br />
90 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
<br />
- Khảo sát trên phim tia X răng 47, 46, 45, 44, 43, 42, 41 cho thấy thần<br />
kinh ở cách sống hàm 1 - 2mm (hình 3), tại vị<br />
Phim toàn cảnh: thần kinh ổ răng dưới gần<br />
trí tương ứng răng 31 thần kinh lộ trên đỉnh<br />
sát đỉnh sống hàm và vùng cành ngang hàm<br />
sống hàm và nằm ngay dưới niêm mạc (Hình<br />
dưới bên trái lệch ra ngoài cung hàm (hình 2).<br />
4,5). Khoảng cách trung bình từ đỉnh sống<br />
Phim CT Cone beam: hàm đến bờ dưới xương hàm dưới là 10,5<br />
Phim được chụp với máng hướng dẫn mm và chỉ đạt 7mm tại vị trí tương ứng răng<br />
phẫu thuật có định vị bằng vật liệu cản quang 33, 34 (Hình 6), góc xương hàm dưới lớn<br />
để xác định vị trí của thần kinh ổ răng dưới. cũng là một yếu tố không thuận lợi để đặt<br />
Hình ảnh các diện cắt qua vị trí tương ứng các implant theo hướng phù hợp.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Hình ảnh các diện cắt qua vị trí tương ứng các răng từ 47 đến 41<br />
thần kinh cách sống hàm từ 1 - 2mm<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4: R31: Mũi tên Hình 5. Lộ trình của thần kinh Hình 6. R33, 34: xương 7mm<br />
chỉ thần kinh lộ trên trên phim CT Cone Beam<br />
sống hàm<br />
<br />
Thách thức và giải pháp thần kinh ổ răng dưới đến đỉnh sống hàm chỉ<br />
Thách thức: Phân đoạn xương ghép ở đạt 1 - 2 mm, tại vị trí răng 31 thần kinh lộ trên<br />
phần hàm 3 bị lệch ra ngoài, yếu và dễ gãy sống hàm và nằm ngay dưới niêm mạc, sàn<br />
nên không thể đặt implant. Toàn bộ cung hàm miệng ở mức ngang đỉnh sống hàm. Bên cạnh<br />
dưới ở tình trạng tiêu xương trầm trọng, đó, niêm mạc sống hàm lỏng lẻo, không có<br />
khoảng cách trung bình từ đỉnh sống hàm đến nướu sừng hóa là những điều kiện không<br />
bờ dưới xương hàm dưới là 10,5 mm, vị trí thuận lợi, dễ dẫn đến tình trạng viêm quanh<br />
thấp nhất là 7 mm, đồng thời khoảng cách từ implant sau này.<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 91<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Với các đặc điểm giải phẫu, sinh lý và bộ bao gồm cả màng xương, từ vùng tương<br />
chức năng đã được mô tả, giải pháp thích hợp ứng răng 48 về phía gần để bộc lộ xương ở<br />
được đề nghị trong trường hợp này là áp sống hàm và xương vỏ phía ngoài, thao tác<br />
dụng kỹ thuật dời dây thần kinh ổ răng dưới, ở vùng tương ứng các vùng răng cối nhỏ<br />
kết hợp ghép xương mào chậu tăng chiều cao được thực hiện cẩn thận để xác định vị trí lỗ<br />
xương, đặt implant có chiều dài thích hợp và cằm và bộc lộ thần kinh cằm. Sau đó, bóc<br />
phục hình toàn hàm nâng đỡ trên implant, tách về phía trước đến vùng xương hàm<br />
phối hợp ghép nướu sừng hóa, tăng độ sâu tương ứng răng 31, quan sát và bóc tách<br />
ngách hành lang nhằm cải thiện tình trạng mô thần kinh cửa khỏi vạt niêm mạc trước khi<br />
liên kết lỏng lẻo trên sống hàm và mô quanh cắt vạt niêm mạc ở vị trí tương ứng với R31<br />
implant, đảm bảo sự ổn định của mô mềm (để không tổn thương thần kinh này). Sau đó<br />
quanh implant, dự phòng tụt nướu và viêm tiếp tục bóc tách về phía phần hàm 3 đến<br />
quanh implant. Bệnh nhân được giải thích và vùng tương ứng răng 35.<br />
đánh giá tình trạng tâm lý trước khi tiến hành, Dời thần kinh ổ răng dưới: Sau khi bộc lộ<br />
đặc biệt lưu ý một số nguy cơ như dị cảm thần xương hàm, vẽ lộ trình thần kinh ổ răng dưới,<br />
kinh, gãy xương hàm dưới, chảy máu. dùng máy siêu âm cắt cửa sổ xương hình chữ<br />
2. Phương pháp nhật cách thần kinh 3 mm, loại bỏ toàn bộ<br />
phần xương vỏ hình chữ nhật này từ phần<br />
2.1. Trang thiết bị: sử dụng máy cắt<br />
hàm 4 đến phần hàm 3, lưu ý chừa lại 3 mm<br />
xương siêu âm (Piezotome Satelec, France)<br />
xương ở đầu tận cùng bên phần hàm 3 để<br />
để mở cửa sổ bộc lộ thần kinh. Đây là dụng<br />
làm vị trí kẹp và kéo nhằm tránh chạm trực<br />
cụ được cho an toàn cho mô mềm, không làm<br />
tiếp trên thần kinh sẽ làm tổn thương nó. Sau<br />
đứt mô mềm và nhanh lành thương [4].<br />
khi loại bỏ phần xương vỏ mặt ngoài, dùng<br />
2.2. Tiến trình phẫu thuật nạo ngà nhỏ cẩn thận loại bỏ xương tủy, bộc<br />
Đường rạch niêm mạc: Bệnh nhân được lộ bó mạch thần kinh và tách nó ra một cách<br />
sử dụng kháng sinh và corticosteroid dự nhẹ nhàng khỏi kênh răng dưới từ đầu tận<br />
phòng (kháng sinh dự phòng cephalexin 1g, cùng ở phần hàm 3 sang phần hàm 4 (hình 8).<br />
flagyl 1g). Thủ thuật được tiến hành trong điều Lấy xương mào chậu, ghép xương theo<br />
kiện bệnh nhân được gây mê nội khí quản và chiều dọc và đặt implant.<br />
gây tê tại chỗ bằng carbocaine 2% chứa Đường rạch da 5 cm cách gai chậu trước<br />
1:100.000 adrenaline. trên 1cm để tránh tổn thương thần kinh bì đùi<br />
Quy trình phẫu thuật: Thực hiện 2 đường ngoài, đường rạch trên mào chậu, qua tổ<br />
rạch trên niêm mạc sống hàm: một đường từ chức dưới da đến màng xương, bộc lộ vùng<br />
vị trí tương ứng răng 48 đến vị trí tương ứng mào chậu. Dùng máy siêu âm, cắt 4 đường:<br />
răng 41, một đường từ vị trí tương ứng răng đường thứ nhất trên đỉnh mào chậu; đường<br />
32 đến vị trí tương ứng răng 35 và 2 đường thứ 2 ở phía trước và đường thứ 3 ở phía<br />
rạch dọc ở về phía xa và vuông góc với 2 sau và vuông góc với đường trên đỉnh mào<br />
đường rạch trên sống hàm (hình 7). Lưu ý chậu, đường thứ 4 vuông góc với đường thứ<br />
không rạch trên đinh sống hàm ở vị trí tương 2 và thứ 3, bốn đường cắt nối nhau tạo thành<br />
ứng với răng 31 vì thần kinh cửa lột trên hình chữ nhật. Dùng đục để lấy mảnh xương<br />
sống hàm ở vị trí này. Tiến hành lật vạt toàn khối bao gồm cả vỏ xương và xương xốp. Đặt<br />
<br />
<br />
92 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
spongel để cầm máu. Khâu đóng 2 lớp: khâu mm, 4.5 x 10 mm và 3.5 x 11.5 mm. Tiếp tục<br />
đóng màng xương, sau đó khâu đóng dưới da. ghép xương vào các khe hở còn lại giữa khối<br />
Điều chỉnh khối xương có kích thước phù xương ghép và vị trí nhận ghép. Che phần<br />
hợp với vùng nhận ghép, cố định khối xương xương ghép bằng màng collagen tự tiêu<br />
bằng vít đường kính 1,2 mm (hình 9). (Salvin oralmem®absorbable collagen<br />
Khoan xương đặt 4 implant Tekka (France) membrane), để thần kinh ổ răng dưới nằm<br />
tại 4 vị trí răng 46, 44, 31 và 33. Các implant trong niêm mạc. Khâu đóng vết thương với chỉ<br />
có kích thước lần lượt 4.0 x 11.5mm, 4.0 x 10 đơn sợi tự tiêu 6.0.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 7. Mũi tên chỉ đường rạch dọc Hình 8. Dời thần kinh về phía xa<br />
vuông góc với đường rạch trên niêm mạc<br />
sống hàm<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 9. Ghép xương khối và cấy implant<br />
<br />
<br />
Chăm sóc hậu phẫu hoàn toàn, tiến hành ghép nướu sừng hóa và<br />
tạo hình ngách hành lang. Phẫu thuật lấy<br />
Bệnh nhân được nằm viện 1 ngày sau<br />
nướu sừng hóa ở khẩu cái kích thước 40 mm<br />
phẫu thuật, uống thuốc kháng sinh trong 7<br />
x 20 mm, độ dày 1,5 mm. Sau đó cắt đôi, mỗi<br />
ngày (augmentin 2g/ ngày, flagyl 1,5g/ ngày),<br />
mảnh 40mm x 10mm. Vùng nhận ghép trên<br />
thuốc giảm đau trong 5 ngày và vệ sinh răng<br />
sống hàm và hành lang phía miệng cần loại<br />
miệng với chlorhexidine 0,2% trong 2 tuần.<br />
bỏ lớp biểu mô tạo diện chảy máu, áp nướu<br />
Ghép nướu và tạo đáy hành lang<br />
sừng lên diện này và khâu với chỉ đơn sợi tự<br />
Sau 2 tháng phẫu thuật mô mềm lành thương tiêu 6.0. (hình 10, 11, 12).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 93<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 10. Vị trí lấy nướu sừng hóa từ R26 Hình 11. Mô nướu lấy từ khẩu cái<br />
đến răng R11 (40 x 20mm)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 12. Ghép nướu sừng hóa và tạo ngách hành lang<br />
<br />
Đánh giá kết quả dời thần kinh: Thần không có dấu hiệu thấu quang quanh implant.<br />
kinh ổ răng dưới được bóc tách khỏi kênh Phẫu thuật bộc lộ implant và gắn ốc lành<br />
răng dưới và di dời từ vùng tương ứng R32 thương cho thấy implant không di động, không<br />
đến phiá xa vùng tương ứng R47 một cách đau, xương mọc quanh bờ vai implant.<br />
nhẹ nhàng và an toàn. Do vậy, sự tê môi hồi - Mảnh xương ghép mào chậu hòa nhập<br />
phục nhanh: bệnh nhân chỉ tê môi nhiều trong tốt với vùng nhận ghép ở xương hàm dưới,<br />
5 ngày đầu sau phẫu thuật và phục hồi 90% không phân biệt được giới hạn của khối<br />
một tuần sau phẫu thuật, 2 tháng sau bệnh xương ghép và vùng nhận ghép.<br />
nhân giảm tê 97% và sau đó, do có ghép - Tại vị trí cho xương mào chậu, bệnh nhân<br />
nướu sừng hóa và tạo ngách hành lang, bệnh đau nhiều trong tuần đầu sau phẫu thuật<br />
nhân có tê môi trở lại nhưng phục hồi hoàn nhưng vẫn đi lại được, 3 tuần sau giảm đau<br />
toàn sau 2,5 tháng. 50% đi còn hơi đau nhẹ, 2 tháng sau hết đau<br />
Đánh giá kết quả ghép xương và cấy hoàn toàn, đi lại bình thường. Vết thương<br />
ghép implant trong miệng và vùng chậu lành tốt, không hở<br />
- Các implant được đặt đúng vị trí theo vạt, không nhiễm trùng hay chảy dịch.<br />
kế hoạch và đạt độ ổn định ban đầu tốt Đánh giá kết quả ghép nướu và tạo đáy<br />
(> 35N/cm). hành lang<br />
- 4,5 tháng sau phẫu thuật dời thần kinh và - 2 tháng sau phẫu thuật ghép nướu đã tạo<br />
cấy implant, chụp phim panorex và CT Cone được ngách hành lang và sống hàm có nướu<br />
beam cho thấy có sự tích hợp xương tốt, sừng hóa săn chắc và không di động (hình 13).<br />
<br />
<br />
94 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 13. Mũi tên chỉ vị trí nướu sừng hóa trên sống hàm<br />
Đầu mũi tên chỉ vị trí ngách hành lang<br />
Đánh giá phục hình nâng đỡ trên implant: 4,5 tháng sau khi dời thần kinh và cấy implant,<br />
chúng tôi tiến hành phẫu thuật bộc lộ implant và gắn ốc lành thương. 2 tuần sau, lấy dấu, ghi<br />
tương quan tâm, vô giá khớp, đúc khung sườn kim loại nối 4 implant và thực hiện hàm giả toàn<br />
bộ nâng đỡ trên khung sườn này. Kết quả hàm giả rất vững ổn và nướu sừng hóa quanh implant<br />
rất săn chắc (không có túi và không chảy máu nướu khi thăm khám), bệnh nhân ăn nhai tốt,<br />
không đau (hình 14, 15, 16).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 14. Mũi tên chỉ nướu sừng hóa Hình 15. Khung sườn kim loại<br />
quanh implant nối các implant<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 16. Phục hình nâng đỡ trên khung sườn kim loại<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 95<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN ghép nướu. Như vậy tổng thời gian từ khi dời<br />
thần kinh đến khi phục hồi hoàn toàn là 4,5<br />
Tê môi là biến chứng luôn xảy ra sau phẫu<br />
tháng, nhanh hơn so với các nghiên cứu của<br />
thuật dời thần kinh ổ răng dưới nhưng với tỉ lệ<br />
các tác giả nêu trên [2; 5; 7; 8]. Thiết nghĩ, nếu<br />
và thời gian phục hồi khác nhau. Sử dụng<br />
không có phẫu thuật ghép nướu có lẽ sự hồi<br />
dụng cụ quay có biến chứng cao như nghiên<br />
phục của thần kinh còn nhanh hơn nữa.<br />
cứu của Rosenquist 1992 [2] có 23% bệnh<br />
nhân tê môi sau 6 tháng và 6% bệnh nhân vẫn Trong ca này, thần kinh cửa có một lộ trình<br />
còn tê sau 18 tháng. Nghiên cứu của Hashemi giải phẫu đặc biệt: nó vượt qua đường giữa.<br />
2010 [5] có 13,6% bệnh nhân tê môi sau 2 Trong khi đó theo nghiên cứu của Mraiwa<br />
tháng và 2,8% bệnh nhân tê môi vẫn còn sau 2013 [9] thần kinh cửa được phát hiện với tỷ<br />
1 năm. lệ 86% trường hợp, thường kết thúc ở chóp<br />
Tuy nhiên, sử dụng máy cắt xương siêu của răng cửa bên và chỉ đến đường giữa với<br />
âm cho tỉ lệ biến chứng thấp hơn và thời gian tỷ lệ 18% trường hợp, nhưng phát hiện của<br />
hồi phục nhanh hơn như nghiên cứu của chúng tôi trong trường hợp này, thần kinh cửa<br />
Fernandez 2013 [6] cho thấy 5 trong số 15 vượt qua đường giữa có thể giải thích là nó<br />
bệnh nhân, 9 trong 19 vị trí (47,4%) phục hồi cần phát triển dài hơn để phụ chi phối cảm<br />
thần kinh trong tuần đầu tiên, 2 tháng sau, giác cho phần hàm 3 vì phần hàm này đã bị<br />
14/15 bệnh nhân, 18/19 vị trí (94,7%) phục hồi tổn thương trước đó và được thay thế bằng<br />
thần kinh hoàn toàn. xương ghép mào chậu nên không có thần<br />
kinh chi phối bên trong.<br />
Ca lâm sàng của chúng tôi cũng sử dụng<br />
máy cắt xương siêu âm, được cho là thiết bị ít Một vấn đề tiềm ẩn ở vùng răng sau hàm<br />
chấn thương thần kinh so với dụng cụ quay dưới là ổn định ban đầu của implant kém, tỷ lệ<br />
[4]. Ngoài ra trong ca này, chúng tôi dời toàn thân răng và chân răng không thích hợp nếu<br />
bộ thần kinh từ đầu tận cùng ở vùng răng 31 dùng implant ngắn để đảm bảo không chạm<br />
đến vùng răng 47 nên đã tạo ra một đầu tự do thần kinh. Trong ca lâm sàng này, nhờ dời<br />
giúp hạn chế làm căng sợi thần kinh so với thần kinh đồng thời kết hợp ghép xương khối<br />
việc kéo căng sợi thần kinh sang bên như mào chậu nên đã cấy implant có chiều dài và<br />
trong các nghiên cứu dời một đoạn thần kinh đường kính thích hợp (4,0 x 11,5 mm, 4,0 x<br />
sau lỗ cằm [2; 5; 7]. Thêm vào đó, trong khi 10 mm, 4,5 x 10 mm và 3,5 x 11,5 mm). Các<br />
lấy phần xương vỏ phía ngoài chúng tôi chừa implant đặt sát bờ dưới xương hàm dưới nên<br />
lại khoảng 3mm xương dính với đầu tận cùng có được neo chặn xương vỏ ở cả ba phần:<br />
thần kinh dùng làm vị trí tựa để kẹp và di chóp, thân và cổ implant, do đó implant có độ<br />
chuyển thần kinh từ trước ra sau, nên không ổn định ban đầu tốt.<br />
chạm trực tiếp vào thần kinh khi di dời để Trong phẫu thuật ghép xương khối mào<br />
giảm chấn thương. Vì vậy biến chứng dị cảm chậu theo chiều dọc, chúng tôi sử dụng<br />
thần kinh ở bệnh nhân này phục hồi hoàn toàn xương khối gồm xương tủy và xương vỏ, lớp<br />
và nhanh chóng: mức độ tê giảm 90% một xương tủy áp vào bề mặt xương hàm dưới để<br />
tuần sau phẫu thuật, 2 tháng sau giảm tê tận dụng đặc điểm lành xương nhanh của<br />
97%. Tuy nhiên 2 tháng sau chúng tôi có phẫu xương tủy vì có nhiều tế bào tạo xương và<br />
thuật ghép nướu nên bệnh nhân bị tê trở lại các yếu tố tăng trưởng, trong khi lớp xương<br />
nhưng cũng phục hồi hoàn toàn sau 2,5 tháng vỏ với đặc điểm cơ học cứng chắc được quay<br />
<br />
96 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
ra phía ngoài nên hạn chế sự tiêu xương được tại Việt Nam và có tính ứng dụng cao vì<br />
ghép. Do vậy, sau 4,5 tháng có lành thương phù hợp với đặc điểm tiêu xương trầm trọng<br />
xương ghép và tích hợp implant tốt, không có của bệnh nhân do mất răng và đeo hàm giả<br />
tiêu xương quanh implant, tuy nhiên vấn đề lâu ngày.<br />
tiêu xương quanh implant chúng tôi sẽ tiếp tục Bác sĩ điều trị cần phải có kinh nghiệm và<br />
theo dõi dài hơn trong tương lai. Hiện tại các kỹ năng tốt. Đồng thời, cần giải thích trước với<br />
implant thực hiện chức năng tốt nâng đỡ phục bệnh nhân về những biến chứng có thể xảy ra<br />
hình, đồng thời các implant được liên kết với như dị cảm thần kinh, gãy xương hàm dưới.<br />
nhau giúp gia tăng khả năng chịu lực tránh<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
quá tải lực trên implant so với trường hợp<br />
implant đứng riêng lẻ. 1. Jensen O., Nock D (1987). Inferior al-<br />
Ghép nướu sừng hóa trên diện rộng (toàn veolar nerve repositioning in conjunction with<br />
bộ cung hàm dưới) là một kĩ thuật phức tạp vì placement of osseointegrated implants: a case<br />
cần lấy mảnh ghép lớn ở khẩu cái nên dễ gây report. Oral Surg Oral Med Oral Pathol, 63(3),<br />
ra tình trạng chảy máu. Để kiểm soát tai biến 263 - 268.<br />
này, chúng tôi thực hiện máng bằng nhựa 2. Rosenquist B (1994). Implant place-<br />
bao phủ cung răng và toàn vùng khẩu cái kết ment in combination with nerve transposition-<br />
hợp với dùng gạt tẩm thuốc cầm máu tại chỗ. ing: experiences with the first 100 cases. Int J<br />
Ngoài ra, phải tuân thủ kĩ thuật ghép nướu Oral Maxillofac Implants, 9, 522 - 531.<br />
sừng hóa tránh sự chuyển động của mô 3. Nocini P.F., De Santis D., Fracasso E<br />
ghép trong hoạt động chức năng của hàm (1999). Clinical and electrophysiological<br />
dưới nên đã đạt được sự thành công. Việc assessment of inferior alveolar nerve function<br />
ghép nướu sừng hóa cải thiện tình trạng mô after lateral nerve transposition. Clin Oral Im-<br />
mềm quanh implant đóng vai trò cực kì quan plants Res, 10(2), 120 - 130.<br />
trọng cho sự thành công lâu dài của implant, 4. Metzger M.C., Bormann K.H., Schoen<br />
vì tránh được tình trạng viêm, tụt nướu và mất R et al (2006). Inferior alveolar nerve transpo-<br />
xương quanh implant. sition an in vitro comparison between piezo-<br />
surgery and conventional bur use. J Oral Im-<br />
III. KẾT LUẬN<br />
plantol, 32(1), 19 - 25.<br />
Phẫu thuật dời thần kinh ổ răng dưới để 5. Hashemi H.M (2010). Neurosensory<br />
cấy ghép implant có chiều dài thích hợp, ghép function following mandibular nerve lateraliza-<br />
xương mào chậu, phối hợp ghép nướu sừng tion for placement of implants. Int J Oral Maxil-<br />
hóa và phục hình nâng đỡ trên implant là lofac Surg, 39, 452 - 456.<br />
phương pháp khả thi và cho kết quả tốt, đặc 6. Fernández Díaz J.Ó., Naval Gías L<br />
biệt trong tình huống bệnh nhân bị tiêu xương (2013). Rehabilitation of edentulous posterior<br />
hàm trầm trọng mà các phương pháp khác atrophicmandible: inferior alveolar nerve later-<br />
không thể áp dụng được. alization by piezotome and immediate implant<br />
Bệnh nhân rất hài lòng với phục hình hàm placement. Int. J. Oral Maxillofac. Surg., 42,<br />
răng trên implant vì đáp ứng được sự lưu giữ 521 - 526.<br />
và vững ổn cũng như đạt chức năng nhai tốt. 7. Del Castillo P. de Vera J.L., Chamorro<br />
Kĩ thuật này hoàn toàn có thể thực hiện Pons M., Cebrián Carretero J.L (2008). Re-<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 97<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
positioning of the inferior alveolar nerve in Maxillofac Implants, 20, 610 - 620.<br />
cases of severe mandibular atrophy. A clinical 9. Mraiwa N., Jacobs R., Moerman P et<br />
case. Med Oral Patol Oral Cir Bucal, 13(12), al (2003). Presence and course of the incisive<br />
778 - 782. canal in the human mandibular interforaminal<br />
8. Ferrigno N., Laureti M., Fanali S. region: Two-dimensional imaging versus ana-<br />
(2005). Inferior alveolar nerve transposition in tomical observations. Surg Radiol Anat, 25,<br />
conjunction with implant placement. Int J Oral 416 - 423.<br />
<br />
<br />
Summary<br />
TRANSPOSITIONING INFERIOR ALVEOLAR NERVE FOR DENTAL<br />
IMPLANT PLACEMENT: A CLINICAL CASE REPORT<br />
Jenson and Nock first performed inferior alveolar nerve transposition for implant placement in<br />
1987. It has been a recommended treatment for edentulous patients with atrophic mandible when<br />
other methods for bone augmentation cannot be indicated. During inferior alveolar nerve<br />
transposition based on Jenson’s technique, we also performed vertical ridge augmentation with<br />
iliac crest autogenously bone graft and placed 4 implants for a complete over denture in a 59<br />
years old patient with atrophic mandible. In addition, we carried out free soft tissue graft and vesti-<br />
buloplasty to improve soft tissue around the implants and loose connective tissue on alveolar<br />
crest. The 4 implants present successful osseointegration, stable prosthesis and good function.<br />
No complications were recorded. The paresthesia disappeared after 4 months. The patient could<br />
walk normally 4 weeks after harvesting iliac crest bone surgery.<br />
<br />
Key word: inferior alveolar nerve transposition, dental implant<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
98 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />