Chu Húc Lương ( jạjP$Ui ) s<br />
Tam luận phiên dịch (trích)<br />
P hiên dịch cần phải có th ể tài (thể loại) tương ứng với<br />
nội dung, đây chính là cái tôi gọi là “<br />
nhã”. Bây giờ tôi sè<br />
giải thích về “<br />
tín, đạt, nhã” trong phiên dịch, “ ' chinh là<br />
tin<br />
sự trung thực đối với ý nghĩa của nguyên văn, ‘đ ạ t’ chính<br />
là người đọc có th ể hiểu được bài dịch, “<br />
nhã” chính là sự<br />
tương xứng và xác đáng giữa nội dung và thể tài cùa<br />
nguyên văn.<br />
Người ta có th ể hỏi rằn g tạ i sao tôi lại cứ thích dùng<br />
chữ “ ã ” này như thế? Nếu thay bằng một chữ “ván'<br />
nh<br />
chẳng phải là càng gần với ý tôi muốn nói hay sao? Câu<br />
trả lời của tôi là, khi dùng chữ “v ãn ” có th ể sẽ có người<br />
nhầm tưởng tôi chủ trương dùng “cổ văn” ( Ẵ « ). Từ ngữ<br />
vốn đã mơ hồ, nhưng mơ hồ cũng có chỗ hay của nó đó là<br />
dễ nhớ. Từ “ h ã ” vừa bao gồm nhã vừa bao gồm cà vản<br />
n<br />
nhã -<br />
<br />
(nho nhã), điển nhã -<br />
<br />
(trang nhả), nhã<br />
<br />
thuần - M I , chí ít nó cũng không quá thông tục va<br />
mang phong cách riêng.<br />
Vậy giữa “ ”, “ ạ t”, “ h ã ” cái nào quan trọng nhất'’<br />
tín<br />
đ<br />
n<br />
Tôi cho rằng cần phải xem xét nội dung rồi mới quvèt<br />
định. Nếu bài dịch là “Bản thảo cho độc giả” hoặc là một<br />
mẩu tin giải trí thì cần phải xem trọng đạt, lỡ như dịch sót<br />
một hai câu thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến ý chính<br />
Nêu bài dịch là những bài triế t học, khoa học xả hội. dảc<br />
biệt là những tác phẩm kinh điển, chữ “ ” nên đật hang<br />
tín<br />
đầu. Điều người Trung Quốc không thích n h ất là cáu cú<br />
<br />
156<br />
<br />
quá dài, chì những lúc b ất đắc dĩ mới diễn giải dài. v ề m ặt<br />
từ loại, thậm chí là kết cấu câu, chỉ cần không đến nỗi đọc<br />
lên nghe không trôi chảy thì nếu có th ể không thay đổi thì<br />
không thay đổi, cứng nhắc một chút cũng đành để chúng<br />
cứng nhắc.<br />
Và đương nhiên khi dịch tác phẩm văn học chúng ta<br />
phải chú ý gọt giũa lời văn. Nếu như là cổ văn, tuy không<br />
phải là thời Hạ Thương Chu, nhưng dịch giả không thể<br />
không thông đạt, hoặc là không ràn h rọt, tức văn ngôn lại<br />
pha tạp vào bạch thoại, th ế nhưng lại có những học giả lớn<br />
đã viết như vậy. Nếu như là bạch thoại, lại càng không<br />
ngại thoải mái hơn, không những có th ể sử đụng cổ văn<br />
một cách thích đáng mà hoàn toàn có thể sử dụng cú pháp<br />
Âu hoá. Đặc biệt là khi dịch thơ ca, vì yêu cầu cách luật<br />
hoàn chỉnh và cách gieo vần mà càng không th ể trán h<br />
được điều đó. Chúng ta hãy thử xem đoạn thơ dưới đây:<br />
Điền gian đích sồ cúc, nhĩ đích sắc thái chủng loại<br />
phồn đa,<br />
Bất chỉ vi duyệt nhân nhĩ mục nhi khai phóng,<br />
Hoàn đạo phá ngộ môn tâm trung đích nguyện vọng,<br />
Chỉ xuất nhân tâm đích xu hướng, dụng nhĩ đích tha ca;<br />
<br />
( fflíÉ 0 M ẳ Ề S<br />
<br />
SifcÀi.'fôilSl ,<br />
<br />
,<br />
<br />
;)<br />
<br />
Cụm từ “ Æ f r 'f ô i # ® : ” đặt ở cuối câu chính là một<br />
<br />
dạng ngữ pháp Âu hoá, và đoạn này trích từ bài tha<br />
gồm 14 câu thơ của Balzac (<br />
<br />
) doPỉạ<br />
<br />
Lôi ( 'í^lra ) dịch. Điều mà Phụ Lôi không thích nhất 1<br />
A<br />
dạng ngữ pháp Âu hoá, nhưng đây là dịch thơ, nên ông ấy<br />
không câu nệ điều đó.<br />
Việc lấy tiêu chuẩn “ h ã ” dùng để dịch văn học chinh là<br />
n<br />
yêu cầu dịch tác phẩm văn học cần phải có phong cách,<br />
nhưng không có nghĩa là phản án h phong cách của nguyên<br />
tác. N hà văn người Anh Alexander F raser Tytler vào<br />
những năm 90 của th ế kỷ 18 đã viết quyển sách “Nguyên<br />
lý phiên dịch”, ông đã nêu ra 3 tiêu chuẩn trong phiên<br />
dịch. Trong đó tiêu chuẩn thứ hai yêu cầu phiên dịch phải<br />
phản ánh phong cách trong nguyên văn, đây là chỗ ông<br />
khác với Nghiêm Phục ( P ấ ) . Nghiêm Phục chi nhic<br />
đến “<br />
nhã” mà không đề cập đến phong cách nguyên vản,<br />
ngày nay chúng ta nói dịch tác phẩm văn học phài có<br />
phong cách, và không nên yêu cầu dịch cả phong cách của<br />
nguyên văn vì phong cách của nguyên văn thì không có<br />
cách nào có thể dịch được.<br />
Nói tóm lại, phong cách của một tác phẩm ván học do<br />
bốn phương diện sau quyết định nên: Thứ n h ất là phong<br />
cách của nguyên tác, ví dụ nguyên văn của”Kinh thánh cựu<br />
ước” c IB<br />
vốn là tiếng Hy Lạp cổ, tính từ rát ít,<br />
phó từ hoàn toàn không có, nên bản dịch tấ t nhiên khóng<br />
thể thêm chúng vào. Bài văn “Những cuộc phiêu lưu cua<br />
Gulliver”<br />
( I M<br />
<br />
158<br />
<br />
của tác giả<br />
* #<br />
<br />
Stromile Swift<br />
<br />
) người Anh, tuyệt nhiên không dùng cách<br />
<br />
ví von, những dịch giả khi nắm rõ đặc điểm nhỏ này cần<br />
phải chú ý, khi dịch không nên tuỳ tiện dùng những từ ngữ<br />
mang ý ẩn dụ. Nhưng tác giả của “La Mã suy vong<br />
sử” (<br />
) là Edward Gibbon ( c i BE ) ở<br />
cuối mỗi đoạn văn ông thường thích dùng cụm từ ngắn như “ f<br />
o<br />
a nation”, “ f ivar” để k ết thúc, điều này cũng tạo thành<br />
o<br />
một phần trong phong cách văn chương của ông, nhưng<br />
dịch giả thì không th ể nào làm được điều đó. Thứ hai là<br />
phong cách văn chương vốn có của dịch giả, ví dụ như cách<br />
hành văn ngắn gọn súc tích của Lỗ Tấn, ông thường bỏ đi<br />
những lượng từ trong bạch thoại, ví dụ ông viết<br />
“ ẫ i Ị ẫ ì ằ ì í p l ” mà không phải là<br />
trong những bài dịch của Phụ Lôi những từ bô'n chữ khá<br />
nhiều, điều này có quan hệ với phong cách viết văn của<br />
ông. Thứ ba là đặc trưng ngôn ngữ mẹ đẻ của dịch giả. Câu<br />
cú trong tiếng Anh khá dài, trong tiếng Trung thì khá<br />
ngắn, khi dịch từ tiếng Anh sang tiếng Trung thường thì<br />
một câu phải dịch th àn h nhiều câu, còn dịch từ tiếng<br />
Trung sang tiếng Anh thì lại dịch từ mấy câu tiếng Trung<br />
thành một câu tiếng Anh; tình hình này tấ t yếu sẽ ảnh<br />
hưởng đến phong cách dịch. Cho dù ở Trung Quốc ngày<br />
nay khi dịch những sách kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin thường thường không th ể không dùng câu cú dài.<br />
Những bài tin tức trê n báo do dịch vội nên câu dài xuất<br />
hiện ngày càng nhiều, nhưng câu cú khi dịch tác phẩm văn<br />
học thì không nên quá dài. Tình hình này tấ t nhiên cũng<br />
sẽ ảnh hưởng đến phong cách. Thứ tư là thời đại dịch giả<br />
đang sinh sống. Trước khi phong trào Ngũ Tứ diễn ra, dịch<br />
sách phải dùng cổ văn, dịch thơ đều dùng thể thơ cổ, điều<br />
này tấ t nhiên là chịu ảnh hưởng của thời đại. Văn bạch<br />
<br />
thoại trước và sau phong trào Ngũ Tứ cũng có sự khác biỊ<br />
rấ t lớn; sự khác nhau giữa việc phiên dịch ở giai đoạn d i<br />
phong trào Ngũ Tứ và sau khi th à n h lập nước cũng rất lởn<br />
Với ba n h ân tố cuối luôn chi phối, các dịch giả làm sao a<br />
th ể phản ánh m ột cách chính xác phong cách nguyên vản?<br />
Vì vậy với những tiêu chuẩn của chữ “<br />
nhã" dùng đi<br />
đánh giá việc dịch văn học, tôi cho rằn g chỉ có thể yêu cẦ<br />
i<br />
bài dịch có phong cách, ngoài ra nó còn có ý nghĩa: rhínt<br />
là lời văn sá t nhưng không tục, bởi vì suy cho cùng dịd<br />
giả cần phải đặt m ình vào vị trí của độc giả.<br />
(Người dịch: Trần Thị Hồng Gắm<br />
<br />
Chu Giác Lương ( J I 5 â ) :<br />
Phiên dịch tạp đàm (trích)<br />
Dịch th u ậ t nói cho cùng là việc hiểu rõ và diễn đại<br />
nguyên tác bằng một ngôn ngữ khác; dịch thuật văn hạ<br />
cũng không phải là ngoại lệ, nhưng những vấn đề về việ<<br />
dịch th u ật văn học lại quan trọng hơn. Những vấn đề nà]<br />
tuy nói ra thì đơn giản nhưng lại vô cùng phức tạp, liêi<br />
quan đến nhiều loại lý thuyết, thậm chí có thể nói đó li<br />
cái đích mà không bao giờ được giải quyết một cách triệ<br />
để. Đây chính là lý luận được đúc k ết từ quá trình nghiéi<br />
cứu thảo luận, còn thực tiễn của việc dịch thuật thì khỏn<<br />
cần phải chờ đến lúc đã triệ t để về m ặt lý ỉuận mới có thi<br />
tiến hành được. Đương nhiên là thực tiễn cần phài có 1<br />
]<br />
luận chỉ đạo, nhưng cho dù không có lý luận hoàn thiện th<br />
<br />
160<br />
<br />