intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam - Thượng tướng Hoàng Cầm

Chia sẻ: Linh Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

160
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lang thang nay đây mai đó, phải đi lính khố xanh cho Pháp để kiếm sống, Hoàng Cầm được giác ngộ cách mạng, trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng của quân đội, có mặt ở nhiều “điểm nóng quan trọng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Những đội quân chủ lực thiện chiến do tướng Hoàng Cầm chỉ huy luôn là nỗi kinh hoàng của quân thù.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam - Thượng tướng Hoàng Cầm

  1. Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam Thượng tướng Hoàng Cầm Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lang thang nay đây mai đó, phải đi lính khố xanh cho Pháp để kiếm sống, Hoàng Cầm được giác ngộ cách mạng, trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng của quân đội, có mặt ở nhiều “điểm nóng quan trọng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Những đội quân chủ lực thiện chiến do tướng Hoàng Cầm chỉ huy luôn là nỗi kinh hoàng của quân thù. Cuộc đời binh nghiệp gian khổ và kiên cường của ông trải từ chiến khu Việt Bắc ngút ngàn với chiến thắng Điện Biên lẫy lừng đến những cánh rừng của miền Đông đất đỏ, từ đường phố Sài Gòn với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đến đường phố Phnôm Pênh giải phóng nước bạn khỏi nạn diệt chủng. Ông luôn được giao nhiều trọng trách, cả thời
  2. chiến lẫn thời bình: sư đoàn trưởng Sư đoàn 312, sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, tư lệnh kiêm chính uỷ Quân đoàn 4, phó tư lệnh Đoàn 719, tư lệnh kiêm chính uỷ Quân khu 4,… Trước khi trở thành “tướng về hưu”, ông giữ chức Tổng thanh tra quân đọi hàm Thượng tướng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Bản lĩnh và kinh nghiệm trậnn mạc của tướng Hoàng Cầ là tài sản quí giá của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lịch sử quân đội trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc xuất hiên một sự trùng hợp: có ba người lính cùng mang tên Hoàng Cầm đều rất nổi tiếng. Một Hoàng Cầm nhà thơ, tác giả bài Bên kia sông Đuống, Mưa Thuận Thành, Lá diêu bông,… từng là trưởng Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Một Hoàng Cầm anh nuôi, sáng chế bếp Hoàng Cầm
  3. không khói huyền thoại từ thời kháng chiến chống Pháp. Và một Hoàng Cầm danh tướng, thi thoảng cũng làm thơ… tình dành tặng vợ! Tướng Hoàng Cầm thường được đồng đội gọi thân mật Năm Thạch, tên thật là Đỗ Văn Cầm, tuổi Thân sinh ngày 30 tháng 4 năm 1920 ở xã Cao Sơn, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Theo phong trào trong quân đội, sau Cách mạng tháng Tám nhiều người đã lấy họ Hoàng như: Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Hoàng Minh Thảo, Hoàng Mười, Hoàng Điền, Hoàng Kiện, Hoàng Tùng, Hoàng Đan, Hoàng Phương,… và cái tên Hoàng Cầm cũng xuất hiện từ đó. Năm 1960, Hoàng Cầm được phong quân hàm Đại tá. Năm 1974, ông được thăng Thiếu tướng khi đang chiến đấu tại chiến trường Nam Bộ. Năm 1982, trong lúc chỉ huy bộ đội tình nguyện ở Campuchia, Hoàng Cầm được thăng Trung tướng. Năm 1987, sau khi hoàn thành
  4. nghĩa vụ quốc tế từ biên giới Lào-Thái trở về, ông được vinh thăng Thượng tướng, trở thành Tổng thanh tra quân đội, nay là thanh tra Bộ Quốc phòng. Ông còn được bầu làm uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá V và khoá VI. Hoàng Cầm là vị chỉ huy rất có duyên với những trận đánh lớn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là trung đoàn trưởng Trung đoàn Sông Lô trực tiếp bắt sống tướng De Castrie. Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, Hoàng Cầm là tư lệnh Quân đoàn 4 đánh mở “cánh cửa thép” Xuân lộc, tiêu điểm quan trọng nhất, ác liệt nhất trên đường đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn; rồi chịu trách nhiệm tiếp quản dinh Độc Lập cùng nội các Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hoà. Chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra, Tư lệnh Hoàng Cầm là vị chỉ huy cao nhất có mặt đầu tiên ở thủ đô Phnôm Pênh khi cùng Quân đoàn 4
  5. tiến sáng giải phóng nước bạn khỏi ách diệt chủng Pol Pot-Iêng Sary. Chưa hết. Chỉ một thời gian ngắn sau, tướng Hoàng Cầm lại hành quân sang “điểm nóng” tranh chấp ở biên giới Tây Nam Lào, toàn quyền chỉ huy bộ đội tình nguyện giữ yên bờ cõi cho nước bạn suốt nhiều năm liền. Một trưa tháng Ba, tôi cùng đồng nghiệp Huỳnh Hiếu của báo Phú Yên đến thăm ông và xin “cái hẹn” cho một cuộc phỏng vấn. Không ngờ, tướng Hoàng Cầm đề nghị làm việc ngay “để khỏi mất công nhà báo”! Tác phong đầy chất nhà binh của vị tướng già, gây cho chúng tôi sự cảm kích lớn lao. -Thưa Thượng tướng, trước khi bước vào con đường binh nghiệp, thời thiếu niên của Thượng tướng gắn bó nơi đâu?
  6. -Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Hà Tây. Mẹ mất năm tôi bốn tuổi, đến năm mười hai tuổi thì mất cha. Nhà có bốn anh em, do hoàn cảnh như vậy, mỗi người phân tán lưu lạc một nơi. Tôi đi ở đậu cho người ta năm năm, dưới hình thức con nuôi, nhưng cách đối xử và công việc chẳng khác đứa ở. Khi làm mộ táng cho cha mẹ tôi, họ đưa 3 đồng tiền Đông Dương, đến khi tôi bỏ đi thì họ đòi lại. Tôi ở nhờ làm thuê hết nhà này sang nhà khác, cho đến năm 20 tuổi tôi bỏ làng ra đi, lưu lạc từ Hà Đông đến Hà Nội với nhiều nghề lặt vặt kiếm sống. Cuộc sống vô gia cư của một anh nhà quê không đồng dính túi, buộc tôi phải đi lính khố xanh cho Pháp. Hai năm ở Lai Châu, rồi Việt Minh tuyên truyền, tôi tham gia hoạt động cách mạng. Từ Cách mạng tháng Tám tôi vào Cứu quốc quân, Vệ quốc
  7. đoàn, Giải phóng quân tham gia mặt trận Sơn la năm 1947. Lúc bấy giờ, tôi vẫn nghĩ chỉ tham gia quân đội một thời gian rồi quay về quê kiếm vốn buôn bán làm ăn… -Nhưng rồi cuối cùng Thượng tướng đã gắn bó cả đời mình với con đường binh nghiệp. Những ngày đầu tiên gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam để lại ấn tượng gì trong cuộc đời Thượng tướng? -Lớp thanh niên chúng tôi là lớp thanh niên mất nước, được giác ngộ tinh thần dân tộc, đánh đổ thực dân, cứu nước. Họ rất bình dị và trong sáng, sẵn sàng hi sinh đến giọt máu cuối cùng. Sau này, chúng tôi mới được giác ngộ giai cấp, kết nạp vào Đảng. Từ Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 cho đến cuối năm 1947, chúng tôi đánh giặc chủ yếu từ vũ khí cướp được của giặc. Ăn uống thì dựa vào nhân dân. Chỉ
  8. đến năm 1948 trở đi thì quân ta mới có chế độ về khí tài, lương thực thực phẩm, quân trang… Trong đội quân hỗn hợp ấy, chúng tôi đã lớn lên và trưởng thành. Tôi còn nhớ đôi câu đối vui ghép đầy đủ tên chiến sĩ tiểu đội đầu tiên của tôi: Thám Hữu Đào Lan Cầm Thượng Thuý Thanh Liêm Miêu Miễn Thưởng Vân Sì Hiện nay chỉ còn lại tôi, anh Vân Sì và anh Thưởng, nhưng anh Thưởng thì lâu nay cũng bặt tin. -Gần nửa thế kỷ chinh chiến, những nhiệm vụ chủ yếu nào Thượng tướng từng đảm trách? -Từ năm 1946 đến 1949 tôi ở Trung đoàn 148 tham gia mặt trận Sơn La, đánh nhau với Quốc dân đảng. Năm 1949 tôi về Trung đoàn Sông Lô (209) làm Tiểu đoàn phó, rồi tiểu đoàn trưởng đánh Đông Khê với
  9. quân Pháp. Ngày 12 tháng 9 năm 1950, khi chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên này trong Chiến dịch Cao Bắc Lạng giải phóng biên giới, tôi là tiểu đoàn trưởng duy nhất được Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho triệu tập lên sở chỉ huy gặp Bác Hồ. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình chuẩn bị của tiểu đoàn, Bác hỏi: - Chú có tin trận này quân ta nhất định thắng không? - Thưa Bác, cháu tin ạ! Chiến dịch kết thúc thắng lợi, tôi được cử làm trung đoàn trưởng Trung đoàn Sông Lô, tiếp tục chiến đấu trên chiến trường Bắc Bộ. Năm 1954, tham gia Điện Biên Phủ, trung đoàn tôi là đơn vị chủ lực, bắt sống tướng De Castrie. Sau Điện Biên, tôi về làm Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 312, khi anh Lê Trọng Tấn và anh Trần Độ chuyển công tác, tôi lên
  10. làm Sư đoàn trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ vào cuối 1954. Mười năm sau, cuối năm 1964 thì tôi được lệnh vào Nam chiến đấu. Tôi tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch như Phước Long-Đồng Xoài, Bàu Bàng-Dầu Tiếng, Đường 13, Lộc Ninh… Và cuối cùng là chỉ huy trận đánh Xuân Lộc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trước khi về làm tư lệnh Quân đoàn 4, tôi được cử làm phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Đến năm 1979 tôi đưa Quân đoàn 4 sang giải phóng Campuchia. Năm 1981 tôi lên làm Phó tư lệnh đoàn 719 mà anh Lê Đức Anh làm Tư lệnh, chỉ huy bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế ở nước bạn. Tháng 5 năm 1982 tôi về nước nhận nhiệm vụ tư lệnh kiêm chính uỷ
  11. Quân khu 4, đưa cả Sư đoàn 341 theo. Bấy giờ, tình hình Lào bất ổn, tôi được lệnh đưa quân sang đất nước Triệu Voi và ở đấy năm năm. Sau đó, tôi về Hà Nội làm Tổng thanh tra quân đội năm năm nữa, rồi mới về nghỉ hưu chữa bệnh. Cuộc đời binh nghiệp của tôi có thể tóm tắt như thế. -Vâng, chỉ cần có thế các nhà văn cũng đã đủ tư liệu viết nên một pho sách quí giá; nhưng thưa Thượng tướng, cuộc đời Hoàng Cầm không chỉ có thế mà còn được biết đến với nhiều giai thoại kỳ thú hơn nhiều. Chẳng hạn như chuyến bí mật vượt đại dương lần đầu vào Nam chiến đấu… -(Cười lớn) Chuyến đi nhớ đời đấy. Một ngày cuối năm 1964, tôi và anh Trần Độ từ Hà Nội bay sang Quảng Châu, Trung Quốc. Bấy giờ, Trung Quốc đang giúp Campuchia xây dựng tuyến đường sắt
  12. Sihanoukville-Phnôm Pênh. Chúng tôi cải trang thành công nhân máy tàu trên một chuyến tàu biển chở sắt đường ray sang Campuchia phục vụ công trình trên. Con tàu bắt đầu nhổ neo vào một buổi sáng dày đặc sương mù, lần lượt vượt qua nhiều “điểm nóng” nguy hiểm, hết Hoàng Sa rồi tới Trường Sa do hải quân Việt Nam cộng hoà kiểm soát. Nhằm đánh lạc hướng tình báo địch, con tàu chạy xuống gần đảo quốc Singapore rồi bẻ lái đột ngột hướng lên cảng Sihanoukville. Hải trình kết thúc an toàn sau một tuần hồi hộp vượt đại dương. -Sau đó, Thượng tướng sang chiến trường B2 bằng cách nào? -Đến đây thì dễ rồi. Đại sứ Trung Quốc tại Campuchia đúng hẹn đi xe hơi xuống cảng. Trên xe có 4 người. Hai người xuống xe để tôi và anh Trần
  13. Độ thế vào, chạy về Phnôm Pênh. Tới vùng ngoại ô, cơ sở của ta bố trí anh Ba Râu chờ đón sang xe chạy thẳng về nhà kho một thương gia Hoa kiều nằm ngay trung tâm thủ đô. Ít hôm sao, tôi và anh Trần Độ giả Việt kiều đi chơi cuối tuần bằng xe dịch lịch rồi chạy ù sang biên giới nước ta. Anh Huỳnh Kháng Minh chờ sẵn đón chúng tôi. Ba anh em đèo nhau bằng “ngựa sắt” theo đường mòn cắt rừng qua ngả Cà Tum về Cục R, đang đóng ở Tân Biên thuộc Tây Ninh. Anh Huỳnh Kháng Minh về sau được cử làm Thứ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam và đã hy sinh trên đường công tác. -Được biết, sau đó Thượng tướng hai lần trở lại Hà Nội cũng qua đường Phnôm Phênh. -Nhưng không phải bằng đường biển nữa mà bằng
  14. đường hàng không. Tôi lấy hộ chiếu giả Việt kiều, mua vé Hãng Air France bay sang Quảng Châu rồi mới quay về Hà Nội. Bọn tình báo địch đâu có ngờ các tướng “Việt Cộng” gây cho chúng mất ăn mất ngủ ở chiến trường B2, lại có thể ngang nhiên một cách đàng hoàng, công khai trước mặt chúng như vậy. -Nghe nói, khi mới đến Phnôm Pênh lần đầu, Thượng tướng còn muốn nghe cả đài miền Bắc… -Sau này nghĩ lại mới giật mình. May mà lúc ấy anh chủ nhà là thương gia Hoa kiều cản kịp thời, bảo với tôi và anh Trần Độ rằng ở tầng trên đang có địch! -Thưa Thượng Tướng, là người trực tiếp thành lập và chỉ huy Quân đoàn 4, quân đoàn chủ lực đầu của
  15. Quân giải phóng miền Nam, xin Thượng tướng cho biết vài nét về quân đoàn này? -Sau một thời gian vào B2, tôi được lệnh xây dựng sư đoàn 9 chủ lực đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam. Đây là sư đoàn đàn anh trong cuộc đối đầu với quân Mỹ, về sau được tuyên dương đơn vị anh hùng. Tôi là Sư đoàn trưởng, còn anh Lê Văn Tưởng là Chính uỷ đầu tiên. Sau đó, tôi được cử làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Miền. Bấy giờ anh Trần Văn Trà là Tư lệnh thay anh Hoàng Văn Thái. Tôi nhận lệnh thành lập thành lập Quân đoàn 4 vào ngày 20-7-1974, từ 2 sư đoàn chủ lực là Sư đoàn 7 và 9 cùng một số tiểu đoàn binh chủng độc lập. Tôi được phân công làm Tư lệnh, anh Bùi Cát Vũ-Phó tư lệnh, Hoàng Khánh Nghĩa-Tham mưu trưởng, Ba Vinh-hậu cần. Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, anh Hoàng Thế Thiện về làm Chính uỷ. Khi sang Campuchia thì tôi kiêm luôn Chính uỷ.
  16. -Vai trò Quân đoàn 4 được xác lập ra sao? -Ngay từ khi thành lập, Quân đoàn 4 đã được giao 2 nhiệm vụ chính. Thứ nhất, là đơn vị chủ lực của B2 (từ khu 6 trở vào), có nhiệm vụ giải phóng các đô thị lớn, nhất là Sài Gòn, hỗ trợ du kích chiến tranh, xây dựng cơ sở. Thứ hai, là đơn vị cơ động của vùng Nam Đông Dương; chính vì vậy mà năm 1979 Quân đoàn 4 mới tiến vào giải phóng Phnôm Pênh. Sau khi thành lập, vào ngày 12-12-1974, Quân đoàn 4 tiến hành đánh chiếm và giải phóng toàn bộ tỉnh Phước Long. Đây là trận đánh rất có ý nghĩa chiến lược, vì qua đó, biết được tình hình mạnh yếu của địch, cũng như thấy được thời cơ đã đến mà Trung ương đề ra sách lược mới. Tiếp theo đó, Quân đoàn 4
  17. tiến đánh Bình Long qua Bắc Tây Ninh, Dầu Tiếng, Chơn Thành; đánh từ Mỏ Vẹt đến La Ngà qua Hoài Đức, Tánh Linh, Bà Rịa để hình thành bàn đạp bao vây Sài Gòn từ nhiều hướng. Sau chiến thắng Dầu Tiếng tháng 3-1075, Sư đoàn 9 được lệnh tách khỏi quân đoàn chuyển về làm lực lượng nòng cốt cho Đoàn 232 chiến đấu phía tây nam Sài Gòn. Bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, phiên chế Quân đoàn 4 có ba sư chủ lực là Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 và Sư đoàn 6 được thành lập từ hai trung đoàn chủ lực của Quân khu 7. -Trận đánh Xuân Lộc nổi tiếng của Quân đoàn 4, theo Thượng tướng, có vai trò như thế nào trong toàn bộ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử? -Trận Xuân Lộc kéo dài mười ngày từ 9 tháng 4 đến 19 tháng 4 năm 1975 là trận đánh mở đầu cho chiến dịch và là trận đánh lớn nhất, quyết liệt nhất, quan
  18. trọng nhất trong toàn bộ chiến dịch. Thứ nhất, địch mất Quân khu 1 và Quân khu 2 nên dồn quân về đây. Thứ hai, Đai tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ và là cựu tổng tư lệnh quân Mỹ ở Đông Dương, được lênh Nhà Trắng bay sang lập phòng tuyến cố thủ Sài Gòn, xem Xuân Lộc là “cánh cửa thép”, lá chắn cuối cùng để tìm một giải pháp chính trị. Mất Xuân Lộc là mất tất cả. Do đó, sau khi Xuân Lộc bị quân ta chiếm thì tướng Weyand liền lên máy bay chuồn về Mỹ, kéo theo tướng tá chế độ Sài Gòn bỏ chạy, Tổng tham mưu trưởng chạy, Tổng thống chạy… Sau Xuân Lộc, Quân đoàn 4 tiếp tục đánh chiếm Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hoà, Sở chỉ huy Quân đoàn 3 của nguỵ, sân bay Biên Hoà; rồi tiến thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm Bộ Quốc phòng, dinh Gia Long, Bộ tư lệnh Hải quân, kho xăng Nhà Bè... -Thượng tướng có mặt tại dinh Độc Lập vào lúc nào?
  19. -13 giờ 30’ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trước đó, 12 giờ 30’, Đại đội anh hùng của Sư đoàn 7 do Chính trị viên Hoàng Cao Đại chỉ huy với 4 xe tăng dẫn đầu đã tiến vào dinh Độc Lập. Khi tôi vào, được biết Dương Văn Minh cùng nội các của ông ta từ sáng sớm đến lúc ấy vẫn chưa ăn uống gì. Tất nhiên, họ sợ hãi không dám ngỏ lời. Tôi liền bảo họ: Các ông có thể nhờ người nhà đưa cơm nước và đồ cá nhân cần dùng tới, chứ đói sao chịu nổi… và đêm ấy, tôi cùng anh em binh lính nằm ngay trên hiên dinh Độc Lập nghỉ ngơi. Dù đang đói ngủ nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Đã nằm trong dinh Độc Lập rồi mà tôi cứ ngỡ mình đang mơ! -Thưa Thượng tướng, có ý kiến cho rằng việc đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh là hành động có lợi cho đất nước cho cách mạng.
  20. Thượng tướng nghĩ sao? -Việc Dương Văn Minh lên làm Tổng thống chế độ Sài Gòn là con bài cuối cùng của Mỹ nhằm cản bước tiến quân ta, tìm một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Theo tôi, hành động đầu hàng của Dương Văn Minh là việc phải làm, không thể khác được, khi quân ta đã tiến đến nơi. -Trong chiến dịch này, Quân đoàn 4 của Thượng tướng bắt sống bao nhiêu tướng lĩnh của đối phương? -Khi ở Sóng Thần, anh em bắt sống Chuẩn tướng Lê Minh Đảo-Sư trưởng 18, còn khi vào Sài Gòn thì bắt sống Trung tướng Lâm Văn Phát-Tư lệnh biệt khu thủ đô.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0