
Phỏng vấn tướng lĩnh Việt
Nam
Thượng tướng Nguyễn Minh Châu
Từ một tiểu đội trưởng hoạt động độc lập, Nguyễn Minh Châu trở thành một “ông lớn”
từng là “nỗi ám ảnh kinh hoàng” đối với kẻ thù ở chiến trường Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên suốt hai cuộc kháng chiến. Tướng Nguyễn Minh Châu là vị chỉ huy trận đánh
chiếm đồn Phú Hài ở lầu Ông Hoàng bằng chiến thuật kỳ tập mở ra cục diện mới trên
chiến trường Bình Thuận lẫn Quân khu 6, rồi chỉ huy trận phục kích Dăkpơ trên đường
19, bắt sống quan năm sắp được phong tướng Baroux. Tập kết ra Bắc, Nguyễn Minh
Châu có công phát triển phong trào thi đua Ba Nhất nổi tiếng trong quân đội. Về Nam,
ông làm tư lệnh Quân khu 6, tham mưu trưởng Miền, tư lệnh Đoàn 232. Trong Chiến
dịch Hồ Chí Minh, ông là tướng chỉ huy trực tiếp một trong năm cánh quân tiến vào giải
phóng Sài Gòn. Sau đó, ông lại có mặt ở Phnôm Pênh đẩy lùi tập đoàn diệt chủng Pol
Pot, làm nghĩa vụ quốc tế. Về nước, ông được cử làm tư lệnh Quân khu 7, phó tổng thanh
tra quân đội, trưởng đại diện Bộ Quốc phòng tại phía Nam. Ông được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Trong tâm khảm của những người lính thuộc quyền,
Năm Ngà là vị tướng tư lệnh chiến trường kiên cường, bản lĩnh, quyết đoán, kỷ luật, dạn
dày trận mạc và cũng hết sức độ lượng, chan chứa nghĩa tình.
Thời thơ ấu của thượng tướng Nguyễn Minh Châu là chuỗi ngày mồ côi gian nan bất
hạnh. Tuổi Tân Dậu, Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 8 năm 1921 tại xã Thái
Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Mới được mấy tháng tuổi thì mẹ mất. Vị tướng
tương lai không kịp nhận biết hình ảnh người mẹ vắn số. Lên sáu tuổi, bắt đầu cắp sách
đến trường làng, nhưng học được vài năm thì nạn đói hoành hành khắp nơi, Nguyễn
Minh Châu cùng hai người anh phải nghỉ học, phụ cha làm lụng kiếm cái ăn cái mặc qua
ngày. Trước cảnh túng bấn, côi cút của gia đình, cha ông quyết định đi bước nữa. Người
mẹ kế trông nom nhà cửa, ruộng vườn. Nhưng cơm vẫn không đủ ăn, có lúc phải ăn củ
nần cả tháng.
Khổ sở vật chất lẫn tinh thần, chàng thiếu niên đa cảm Nguyễn Minh Châu cứ miên man
tự hỏi: Vì sao cuộc sống cứ đói khổ thế này? Sống như vậy để làm gì? Nguyễn Minh
Châu cảm thấy ngột ngạt, không thể tiếp tục sống mãi như vậy được, nhất là khi nhìn
nhiều người dân quê cả đời sống nghèo khổ quanh quẩn ở làng, cho tới khi sắp nhắm mắt
xuôi tay mà chỉ biết từ nhà ra chợ. Nguyễn Minh Châu ngày càng buồn tuổi, chán
chường, thất vọng. Mười sáu tuổi, chàng thiếu niên họ Nguyễn đã liều lĩnh trốn nhà ra đi,
với hy vọng tìm một việc làm tốt hơn nghề nông, có thẻ thay đổi phần nào cuộc sống của
mình và gia đình!

Tuy nhiên, Nguyễn Minh Châu mới “giang hồ” gần nửa năm thì người nàh kiếm bắt về.
Vì không có chỗ dựa quen biết, không tiền bạc và nhất là chưa có giấy thuế thân nên
không thể đi xa được. Đành phải “quy cố hương” chờ cơ hội mới. Và đến năm mười tám
tuổi, chàng trai họ Nguyễn kiếm đủ tiền đóng thuế, lấy giấy thuế thân, chuẩn bị tiếp tục…
trốn nhà tha phương.
Cuộc sống bần cùng vô gia cư đã đưa chàng trai Tây Ninh đến với cách mạng. Từ trinh
sát viên, tiểu đội trưởng hoạt động độc lập, Nguyễn Minh Châu đã trở thành Tướng tư
lệnh chiến trường oai lừng, chỉ huy nhiều trận đánh lịch sử. Năm 1958, ông được phong
Thượng tá-sư đoàn phó Sư đoàn 305. Tháng 5 năm 1965, sau hai mươi năm trở vè Nam
làm tư lệnh Quân khu 6, ông được thăng quân hàm Đại tá. Tháng 4 năm 1974, ông được
thăng Thiếu tướng khi đang làm tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền. Tháng 6 năm 1981,
lúc đang công tác ở chiến trường Campuchia, ông được thăng Trung tướng. Đến tháng 1
năm 1986, ông lên Thượng tướng, giữ chức tư lệnh Quân khu 7. Nguyễn Minh Châu còn
được bầu làm uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V và khoá VI, uỷ viên
Đảng uỷ Quân sự Trung ương, đại biểu Quốc hội khoá VII và khoá VIII. Ông được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Tại nhà riêng ở đường Nguyễn Tri Phương khu vực thành Công Binh cũ thuộc quận
Mười, nơi ông và người bạn đời sống bên nhau những năm tháng hiếm hoi cuối cùng,
ngồi ngả lưng trên chiếc salon gỗ Thượng tướng Nguyễn Minh Châu trầm ngâm hồi
tưởng:
-Nhà tôi ở Châu Thành gần chợ, lúc ấy bạn học cũ đang học trung học ở Sài Gòn thường
về chơi, nên cũng biết chút ít tình hình. Khoảng cuối năm 1939, tôi dành dụm tiền, trốn
xuống Sài Gòn, xin vào hãng Delagat vừa học vừa làm công thợ điện hai năm. Nhưng
mới gần một năm, tôi coi lại mình chẳng học được gì, ngoài việc chỉ biết quay cho máy
nổ. Tối ngày toàn bị sai vặt, xúc than, gánh nước đổ lò. Thấy không có hy vọng nên tôi
xin thôi việc, đi tìm việc làm khác.
Cuối năm 1940, Nhật đưa quân vào nước ta, tuyên truyền đánh đổ thực dân Pháp, giành
độc lập cho Việt Nam. Tôi tưởng thật, đăng ký vào học ba tháng quân trường, rồi xin
chuyển làm thợ mong học được cái nghề. Nhưng làm mới được một tháng, tôi nghe
ngóng tình hình, biết là bọn Nhật giả dối, nên tôi rủ một người bạn làm chung bỏ trốn.
Được bốn ngày thì quân Nhật tình cờ bắt gặp, đưa chúng tôi về xí nghiệp súng đạn ở
Xóm Chiếu làm lại. Khoảng bốn tháng sau tôi lại tìm cách trốn nữa. Tôi xuống Sáu Kho
ở Tân Thuận, Nhà Bè xin việc. Và từ đây tôi bắt đầu được giác ngộ hoạt động bí mật,
tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, rồi
sau đó vào quân đội.
-Thưa Thượng tướng, vì sao Nguyễn Minh Châu lại còn có biệt danh Năm Ngà?

-Nguyễn Minh Châu là tên khai sinh, còn Năm Chon hay Năm Ngà là những cái tên khác
trong kháng chiến. Tôi lấy tên Năm Ngà khi từ ngoài Bắc trở vào Nam đánh Mỹ. Năm là
thứ của tôi trong gia đình. Còn Ngà là tên vợ tôi, Huỳnh Thị Ngà.
-Lúc Thượng tướng ra Bắc thì bà nhà ở đâu?
-Bà cũng ra Bắc nhưng đi sau một mình với con cái. Tôi chuyển quân đi trước. Bà một
mình ôm con lặn lội theo sau. Trên đường bà bị bệnh rất nặng, may nhờ có nhiều anh em
quen biết cố chạy chữa đưa ra tới Bắc. Sau đó, tôi vào Nam chiến đấu, rồi sang
Campuchia đánh nhau với bọn diệt chủng Pol Pot, nên vợ chồng ít có thời gian gặp nhau.
-Thượng tướng và bà gặp nhau lần đầu tiên lúc nào?
-Vào năm 1948, lúc tôi đang chiến đấu ở Bình Thuận. Bà ấy người Hàm Tân, làm cán bộ
phụ nữ, mua lúa gạo, thực phẩm tiếp tế cho anh em bộ đội. Gặp nhau rồi có cảm tình với
nhau, sau đó tổ chức đám cưới. Cha bà ấy nguyên là địa chủ bị địch bắt ép làm việc
nhưng ông cụ không làm, bảo khai báo về cách mạng ông không khai, nên bị chúng xử
tử!
-Thượng tướng, một đời xông pha dưới làn tên mũi đạn, có mặt hầu khắp mọi chiến
trường, bây giờ nhìn lại, Thượng tượng có cảm thấy hối tiếc điều gì không?
-Tôi chả có hối tiếc điều gì cả, mà còn mừng nữa. Thứ nhất là mừng nước nhà đã được
thống nhất, độc lập, nhiệm vụ đời tôi đã hoàn thành. Thứ hai là mừng tôi vẫn còn sống
cho tới hôm nay. Tôi không phải là người duy tâm, nhưng cứ băn khoăn là chẳng hiểu
sao ở chiến trường gian khổ như vậy, đạn bom như vậy mà tôi không chết. Mặc dù tôi là
người bị rất nhiều bệnh, nhất là bệnh phổi, phải luôn hít thở sâu kết hợp với thuốc men
thường xuyên. Mà lúc đó thuốc men đâu có nhiều. Hơn nữa, tôi là người luôn có mặt ở
nơi nguy hiểm. Hễ nghe anh em báo nơi nào khó khăn, căng thẳng là tôi lên đường ngay.
Trong khi đó, biết bao đồng đội tôi đã mãi mãi ngã xuống…
-Hình ảnh nào thời trận mạc để lại trong lòng Thượng tướng ấn tượng sâu đậm nhất?
-Người lính. Không có ông tướng nào đem lại cho tôi sự khâm phục bằng hình ảnh người
lính. Họ hồn nhiên, trong sáng, quả cảm, không hề biết run sợ trước cái chết và chính nhờ
sự hy sinh to lớn của hàng vạn người lính mới sản sinh ra được những vị tướng.
-Còn điều mà Thượng tướng căm ghét nhất trong đời sống thường nhật là gì?
-Những kẻ ham chức quyền, ích kỷ, ăn cắp, tham nhũng.

-Thượng tướng còn nhớ gì về những ngày đầu tiên gia nhập quân đội?
-Cuối năm 1943, tôi được đồng chí Công, một người cộng sản hoạt động bí mật, tuyên
truyền giáo dục cách mạng. Tôi cùng với một người bạn tên Đức quê ở Bình Định, tham
gia dán truyền đơn, khẩu hiệu. Một thằng dán, một thằng canh. Rồi đồng chí Công giao
thêm nhiệm vụ quan sát kho tàng súng đạn của quân Nhật, ăn cắp mang về cất giấu. Hai
đứa tôi đem vũ khí về được nhiều lắm. Anh Đức là người hết sức dạn dĩ, dũng cảm.
Nhưng chẳng may, trong một lần ăn cắp súng, anh đã bị bắt vào tù, rồi bị tra tấn đến chết.
Điều ân hận là tôi không biễt rõ quê hương và gia đình người thanh niên miền Trung yêu
nước và quả cảm ấy!
Thế rồi đầu năm 1945 tôi bị mất liên lạc với đồng chí Công (sau này trở thành trung đoàn
trưởng, đã hy sinh). Tôi tiếp tục tổ chức một số anh em đi cướp súng của Nhật. Chúng tôi
tổ chức thành một đơn vị hẳn hoi. Đầu tiên có mấy người, anh em cử tôi làm tiểu đội
trưởng, sau đông hơn thì tôi làm trung đội trưởng, tham gia cướp chính quyền trong Cách
mạng tháng Tám. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, cấp trên cử tôi ra giữ mặt trận cầu
Thị Nghè, cầu Bông của Sài Gòn đánh nhau với quân Pháp.
-Thượng tướng có thể kể rõ hơn về các trận đánh ở mặt trận Thị Nghè trong những ngày
đầu kháng chiến. Đây có phải là trận đầu tiên trong đời binh nghiệp của Thượng tướng
không?
-Chúng tôi đánh nhau với quân Pháp năm trận tại Thị Nghè. Cuối cùng, chúng bao vây
ráo riết, theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến hành chánh miền Đông Nam Bộ, các đơn vị
khác rút hết, tôi đánh thêm 3 ngày cho dân kịp tản cư, rồi mới cho anh em nhảy xuống
sông rút lui an toàn. Từ mặt trận Thị Nghè, tôi mới hiểu thế nào đánh giặc. Và tôi cũng
rút ra một số kinh nghiệm bổ ích.
Thứ nhất là về nghệ thuật chỉ huy: phải biết rõ tình hình địch, hiểu rõ chỗ yếu chỗ mạmh
của mình, để tìm cách đánh phù hợp. Thứ hai là hợp đồng tác chiến: trước lực lượng đông
đảo và ý đồ lấn chiếm của địch, một mình không thể thắng nổi địch, mà phải hợp đồng
tác chiến với các đơn vị bạn. Thứ ba là phải bám trụ đánh địch. Lúc ấy, bộ đội ta đang
quyết chiến như thế nhưng nhiều đơn vị lại rút lui. Tôi không chịu rút vì nghĩ rằng chỉ có
nước rút tới… biên giới phía Bắc, nghĩa là chịu mất nước mà thôi.
-Sau khi tạm thời rút lui khỏi Sài Gòn, Thượng tướng đưa quân về đâu?
-Tôi chuyển quân về Xuân Lộc, vừa lúc quân Pháp tới, tôi lại tổ chức phòng thủ. Uỷ ban
kháng chiến hành chánh miền Đông ra lệnh lui về Phan Thiết, giao bộ đội tiếp viện cho
mặt trận Khánh Hoà. Xong nhiệm vụ, từ Phan Thiết tôi trở về Biên Hoà tập hợp anh em
ốm đau còn lại, trang bị súng đạn, chiến đấu trở lại. Lúc ấy được 40-50 người, anh em cử
tôi làm Trung đội trưởng, hoạt động độc lập. Tình hình hết sức phức tạp. Súng đạn thiếu

thốn. Không có sự chỉ đạo thống nhất. Đơn vị tôi bị quân Bình Xuyên tước súng hoài.
Cuối cùng, tôi gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tôi làm Đại đội trưởng Đại đội Hoàng Hoa
Thám làm chủ vùng Hàm Thuận. Nhưng rồi bị bế tắc về chiến thuật, vì lực lượng võ
trang quá yếu. Tôi nghĩ đến cách đánh lấy đồn mà ít tiêu hao về lực lượng và vật chất kỹ
thuật nhất. Sau khi nghiên kỹ lưỡng, tôi cho đánh đồn Phú Hài ở lầu ông Hoàng, Phan
Thiết. Đây là trận đánh rất có ý nghĩa về mặt chiến thuật, làm thay đổi cả tình hình quân
sự trong tỉnh lúc ấy.
-Thượng tướng có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa trận đánh này?
-Trận đánh Phú Hài thiên về tâm lý, nắm lấy sơ hở của địch, bất ngờ đánh phủ đầu để
địch trở tay không kịp. Đồn Phú Hài nằm trên núi, án ngữ cả một vùng. Dân đến kiếm cá
kiếm cua đều bị chúng giết. Tôi bàn với anh em bằng mọi cách phải tiêu diệt chúng. Lợi
dụng thế núi hiểm và sương mù dày đặc, lính gác không trông thấy, tôi cho ém quân chờ
sáng. Đồn Phú Hài có một quy luật là bọn chỉ huy sáng nào cũng đến đây kiểm tra. Tôi tổ
chức thêm ở ngoài đồn một vòng vây để yểm trợ. Đầu tiên, là uy hiếp lính gác để chúng
buông súng cho anh em giữ. Xâm nhập vào đồn, vận động tâm lý chiến, giả thư cấp chỉ
huy, đề nghị cho kiểm tra và giao đồn. Đồn Phú Hài là đồn bị quân ta lấy đầu tiên trong
kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận. Sau này anh em gọi đó là ”Chiến thuật kỳ tập”.
-Vậy còn trận phục kích Dăkpơ trên đường 19 bắt sống quan năm Baroux chỉ huy Binh
đoàn cơ động 100 của Pháp?
-À, đây là trận đánh được đánh giá oanh liệt vào loại nhất nhì trong lịch sử kháng chiến
chín năm chống Pháp. Sau khi kết thúc, Bác Hồ viết thư khen gợi và trao cho chúng tôi
Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
-Xin Thượng tướng cho biết vài nét cụ thể về Binh đoàn 100 của Pháp và diễn tiến trận
đánh từng gây chấn động này.
-Năm 1953, Đại tướng nổi tiếng nhất của Pháp lúc ấy là Henri Navarre được cử sang thay
Salan làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Navarre ra
đời. Riêng chiến trường Liên khu 5, chúng tiến hành Chiến dịch Atlante vượt đèo Cả
đánh chiếm vùng tự do Phú Yên. Ý đồ của Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp là tập trung một
lực lượng lớn tổ chức thành những binh đoàn cơ động mạnh, tiến công chiến lược, chiếm
đóng hầu hết các vùng tự do còn lại ở phía Nam.
Đường 19 là con đường huyết mạch của chiến trường Tây Nguyên, riêng đoạn Pleiku-An
Khê là nơi hiểm yếu, ta và địch còn tranh chấp quyết liệt. Còn tiểu khu An Khê gồm hàng
loạt cứ điểm ngoại vi và các vùng phụ cận, là bàn đạp tiến công xuống vùng tự do duyên
hải miền Trung và là bình phong án ngữ đầu cực đông của đường 19. Nhưng trong chiến
cuộc Đông Xuân 1952-1953 ta đã lần lượt làm chủ nhiều vùng phụ cận An Khê.

