intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lý cạnh tranh trong kinh tế theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Nguathienthan Nguathienthan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

44
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh, pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh. Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Làm sáng tỏ nhu cầu và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lý cạnh tranh trong kinh tế theo pháp luật Việt Nam

Quản lý cạnh tranh trong kinh tế theo pháp<br /> luật Việt Nam<br /> <br /> Nguyễn Thanh Hiếu<br /> <br /> Khoa Luật<br /> Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50<br /> Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Viết Tý<br /> Năm bảo vệ: 2010<br /> <br /> Abstract. Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh, pháp<br /> luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh. Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung<br /> chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.Thực<br /> trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Làm<br /> sáng tỏ nhu cầu và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt<br /> động quản lý cạnh tranh trong điều kiện Việt Nam hiện nay<br /> <br /> Keywords. Quản lý cạnh tranh; Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam<br /> <br /> <br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1. Tính cấp thiết của đề tài<br /> Kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, nền kinh tế thị trường của Việt Nam đã có khung pháp<br /> lý để điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Luật Cạnh tranh là<br /> một văn bản pháp luật có tính chất là luật "mẹ" để Nhà nước ta quản lý cạnh tranh. Nói đến Luật<br /> Cạnh tranh là nói đến kinh tế, quản lý cạnh tranh ở đây tất yếu là quản lý cạnh tranh trong kinh tế.<br /> Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh không bao quát hết mọi hoạt động nhằm quản lý cạnh tranh của Nhà<br /> nước. Trong khi đó, nghiên cứu về quản lý cạnh tranh là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ nhưng vô<br /> cùng cần thiết ở Việt Nam. Nghiên cứu về quản lý cạnh tranh là cách nhìn từ một góc độ khác của<br /> pháp luật cạnh tranh nhằm xây dựng thành những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn để Nhà nước ta<br /> thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội, điều tiết thị trường đi theo đúng định hướng. Nghiên cứu<br /> về quản lý cạnh tranh trong kinh tế còn là sự tiếp cận và đánh giá bao quát đối với hệ thống pháp<br /> luật về chính sách cạnh tranh ở nước ta.<br /> 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu<br /> - Mục đích: Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hình thành và<br /> phương hướng xây dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trong kinh tế ở Việt<br /> Nam.<br /> - Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:<br /> + Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh, pháp luật điều chỉnh<br /> hoạt động quản lý cạnh tranh;<br /> + Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý<br /> cạnh tranh ở Việt Nam;<br /> + Làm sáng tỏ nhu cầu và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý cạnh<br /> tranh ở Việt Nam.<br /> 3. Tình hình nghiên cứu<br /> Trong thời gian qua, pháp luật về cạnh tranh Việt Nam luôn thu hút được sự quan tâm đông<br /> đảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu<br /> tổng thể nào đối với vấn đề lý luận, khái niệm, chức năng và vai trò của quản lý cạnh tranh trong<br /> kinh tế do đây là một vấn đề mới, phạm vi rộng, khá phức tạp. Bên cạnh đó là phương thức quản<br /> lý, quản lý như thế nào? Giải pháp hiệu quả cho quản lý cạnh vẫn là nội dung gây tranh cãi.<br /> 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu<br /> - Đối tượng nghiên cứu: các nội dung liên quan đến hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt<br /> Nam bao gồm: cách thức quản lý, cơ quan quản lý, cơ quan xử lý vi phạm, các loại hình phạt đối<br /> với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.<br /> - Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu một cách tổng quát các quá trình của quản lý cạnh<br /> tranh từ khâu điều tra đến ra quyết định, xử lý đối với vụ việc cạnh tranh.<br /> 5. Phƣơng pháp nghiên cứu<br /> - Phương pháp được sử dụng có tính chất bao trùm ở luận văn này là phương pháp duy vật<br /> biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, theo đó vấn đề điều chỉnh pháp luật phải<br /> được đặt trong bối cảnh lịch sử, cụ thể của quá trình hình thành và phát triển cơ chế kinh tế thị<br /> trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.<br /> - Phương pháp so sánh đối chiếu: giúp cho việc tìm hiểu quan điểm tiếp cận của pháp luật<br /> điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở phương diện quản lý cạnh tranh để tìm ra những ưu<br /> việt và hợp lý của từng chế độ sử dụng. Hơn nữa, với phương pháp này ta còn có thể so sánh<br /> được với pháp luật cạnh tranh của một số quốc gia để đánh giá những hợp lý, bất cập và đưa ra<br /> giải pháp ở Việt Nam.<br /> - Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập, tổng hợp và phân tích số<br /> liệu để làm rõ những nội dung liên quan.<br /> 6. Những đóng góp mới của luận văn<br /> Thứ nhất: luận văn đưa ra được những vấn đề lý luận hoàn toàn mới là khái niệm về hoạt<br /> động quản lý cạnh tranh, pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh.<br /> Thứ hai: Có phân tích và đánh giá, đề xuất đối với cách thức quản lý cạnh tranh - nội dung vô<br /> cùng quan trọng để nhận biết pháp luật về quản lý cạnh tranh, góp phần tạo nên hiệu quả cho hoạt<br /> động quản lý cạnh tranh.<br /> 7. Kết cấu của luận văn<br /> Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3<br /> chương:<br /> Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh và pháp luật điều chỉnh<br /> hoạt động quản lý cạnh tranh;<br /> Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện<br /> nay;<br /> Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động<br /> quản lý cạnh tranh trong điều kiện Việt Nam hiện nay.<br /> <br /> Chương 1<br /> MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH<br /> VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH<br /> 1.1. Khái quát về hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> 1.1.1. Khái niệm hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> Quản lý cạnh tranh tốt thì lợi ích của người tiêu dùng, của doanh nghiệp và nhà nước được<br /> đảm bảo. Chủ thể của quản lý cạnh tranh là Nhà nước theo phương thức truyền thống sẽ sử dụng<br /> pháp luật làm công cụ để thực hiện.<br /> Cạnh tranh diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống con người và cạnh tranh trong<br /> kinh tế là một loại cạnh tranh. Cạnh tranh trong kinh doanh được hiểu là hành vi của các doanh<br /> nghiệp kinh doanh cùng loại hàng hóa hoặc những hàng hóa có thể thay thế cho nhau nhằm tiêu<br /> thụ hàng hóa hoặc dịch vụ trên một thị trường. Đối với khái niệm kinh tế, đây là khái niệm rộng<br /> hơn kinh doanh. Lĩnh vực kinh tế của một quốc gia bao gồm các ngành dịch vụ như đa dạng như:<br /> hàng không, ngân hàng, bảo hiểm, phân phối xăng dầu, viễn thông…; các ngành sản xuất như xi<br /> măng, sắt thép, phân bón hóa học, sữa… Các ngành kinh tế có vai trò thiết thực đối với cuộc sống<br /> của con người nói riêng và sự phát triển của kinh tế đất nước nói chung. Các ngành kinh tế của<br /> nước ta hiện diện ở trong nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản<br /> nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự đa dạng của ngành nghề, các thành phần kinh tế<br /> và những đặc trưng của kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh trong kinh tế mà nền kinh tế thị<br /> trường hiện nay tồn tại rất nhiều những mặt trái (sự cạnh tranh không lành mạnh, sự độc quyền của<br /> một số doanh nghiệp đối với những ngành nghề khác nhau). Sự quản lý đối với hoạt động cạnh tranh<br /> góp phần làm nâng cao hiệu lực thực thi của Luật Cạnh tranh. Việt Nam đã có chế định pháp lý riêng<br /> để điều chỉnh các quan hệ, hành vi cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc<br /> quyền trong kinh tế. Luật Cạnh tranh 2004 cùng các văn bản hướng dẫn là là khuôn khổ pháp lý cho<br /> hoạt động quản lý cạnh tranh có phạm vi tác động liên quan đến cả nền kinh tế, điều chỉnh bao trùm<br /> lên các loại hình, các ngành kinh tế. Một số lĩnh vực khác cũng đã có Luật riêng trong đó có những<br /> nội dung điều chỉnh quản lý cạnh tranh trong từng hoạt động của ngành. Như vậy, môi trường pháp<br /> lý cho hoạt động quản lý cạnh tranh đã được thể chế hóa. Từ khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh<br /> tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì mới xuất hiện thuật ngữ<br /> cạnh tranh, cũng từ đó pháp luật nước ta mới bắt đầu tiếp cận với mặt trái của kinh tế thị trường<br /> để bảo vệ cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, kể từ khi có sự ra đời của pháp luật cạnh tranh tới<br /> nay, khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một định nghĩa nào cụ thể về hoạt động quản lý cạnh<br /> tranh mặc dù khi đề cập tới pháp luật cạnh tranh các nhà nghiên cứu đều xác định được nội dung<br /> của hoạt động này. Theo các chuyên viên của Cục Quản lý Cạnh tranh, hiện tại không có văn bản<br /> nào của các cơ quan nhà nước định nghĩa chính thức về hoạt động quản lý cạnh tranh. Trong<br /> phạm vi của đề tài nghiên cứu, yêu cầu đặt ra là cần xác định rõ bản chất của hoạt động quản lý<br /> cạnh tranh. Khái niệm về hoạt động quản lý cạnh tranh mà tôi đưa ra sau đây dựa trên nền tảng lý<br /> luận về hoạt động quản lý và các yếu tố đặc thù của cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế thị trường<br /> Việt Nam. Mục đích nhằm xây dựng cơ sở lý luận, định hướng cho nội dung cần nghiên cứu của<br /> tổng thể luận văn.<br /> Hoạt động quản lý cạnh tranh là hoạt động của cơ quan được nhà nước trao thẩm quyền<br /> nhằm thực thi pháp luật cạnh tranh, thống nhất từ khâu phát hiện, điều tra đến xử lý hành vi vi<br /> phạm pháp luật về cạnh tranh nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích<br /> cạnh tranh lành mạnh.<br /> Hoạt động quản lý cạnh tranh của Việt Nam luôn luôn đặt tiêu chí phải trên cơ sở tôn trọng<br /> quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển.<br /> - Tính chất của hoạt động quản lý cạnh tranh: là hoạt động gián tiếp, trong quá trình thực hiện<br /> chức năng này, Nhà nước chỉ xuất hiện với tư cách đại diện cho quyền lợi chung của xã hội và<br /> một người cạnh tranh bình đẳng như những người cạnh tranh khác trên thị thường.<br /> - Chủ thể của hoạt động quản lý cạnh tranh: là cơ quan quản lý cạnh tranh, Bộ trưởng Bộ<br /> Công thương, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, các điều tra viên, các cơ quan có thẩm<br /> quyền ở địa phương.<br /> - Khách thể của hoạt động quản lý cạnh tranh: cá nhân, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh;<br /> các hành vi gây thiệt hại tới môi trường cạnh tranh hoặc gây trở ngại cho cạnh tranh lành mạnh.<br /> 1.1.2.Thiết chế quản lý cạnh tranh<br /> Có thể nhận thấy rằng đối với cạnh tranh thì pháp luật đã có những thiết chế để thực hiện<br /> việc quản lý cạnh tranh. Thiết chế quản lý cạnh tranh đóng một vai trò quan trọng để phát huy<br /> hiệu quả của việc quản lý cạnh tranh là điều tiết cạnh tranh của nền kinh tế. Ở những quốc gia có<br /> chính sách cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh phát triển đều cho thấy mô hình các thiết chế được sử<br /> dụng phổ biến bao gồm các cơ quan cạnh tranh, tòa án - những cơ quan chủ đạo của hoạt động quản<br /> lý cạnh tranh. Tùy theo truyền thống lập hiến, lập pháp và tình hình cụ thể của mỗi quốc gia mà các<br /> thiết chế được thành lập, đặt tên gọi, phân định thẩm quyền khác nhau. Tuy nhiên, vẫn phải chứa<br /> đựng các yếu tố: hoạt động đảm bảo tính tin cậy cao; phải đảm bảo hoạt động và ra quyết định<br /> một cách độc lập; phải đảm bảo tính minh bạch trong thực thi nhiệm vụ.<br /> Đối với Việt Nam hiện nay, các thiết chế quản lý cạnh tranh rất đa dạng bởi không chỉ có các<br /> cơ quan có quyền lực nhà nước và nhân danh nhà nước mà còn có sự góp mặt của các thiết chế<br /> như: các hiệp hội doanh nghiệp (bao gồm các hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiệp hội ngành<br /> nghề); hiệp hội người tiêu dùng; các cơ quan về lưu trữ, nghiên cứu và phân tích thông tin thị<br /> trường; ngoài ra, còn có sự giám sát, cảnh báo, định hướng của dư luận, của các cơ quan báo chí,<br /> các viện nghiên cứu và các cơ quan đào tạo.<br /> Phần khái quát về nội dung thiết chế quản lý cạnh tranh ở đây chỉ nhấn mạnh về một số thiết<br /> chế mà có tầm ảnh hưởng lớn. Đặc biệt với sự ra đời của các cơ quan cạnh tranh, lần đầu tiên<br /> theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam xuất hiện hai thiết chế mới là Cục quản lý cạnh<br /> tranh và Hội đồng cạnh tranh.<br /> - Cục Quản lý cạnh tranh được xây dựng theo mô hình của Đức với đặc điểm nổi bật là cách<br /> làm việc linh hoạt, phản ứng nhanh và tức thời, có tính chất là cơ quan "lưỡng tính" bởi sự kết<br /> hợp của hai đặc tính hành chính và tư pháp và tính chất này có vai trò khiến cho hoạt động của cơ<br /> quan khá hiệu quả. Đây là nơi thụ lý hồ sơ và điều tra các vụ việc cạnh tranh; xử lý các hành vi<br /> cạnh tranh không lành mạnh; thực hiện chức năng nhiệm vụ thụ lý hồ sơ và điều tra giai đoạn đầu<br /> các vụ việc hạn chế cạnh tranh, giai đoạn sau thuộc thẩm quyền xử lý của Hội đồng cạnh tranh.<br /> - Hội đồng cạnh tranh Việt Nam lại thành lập theo mô hình của Pháp, hoạt động tập thể. Hội<br /> đồng cạnh tranh thực hiện công việc phải lập hội đồng để lấy ý kiến thống nhất quyết định xử lý.<br /> Hội đồng cạnh tranh là thiết chế khá đặc biệt: là một tài phán có chức năng xét xử độc lập, có thể<br /> gọi là cơ quan "bán" tư pháp do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Các thành viên từ một số bộ<br /> ngành hoạt động theo nhiệm kỳ năm (05) năm do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm trên cơ sở đề<br /> nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương. Giúp việc cho Hội đồng cạnh tranh có Ban thư ký. Hội<br /> đồng cạnh tranh theo nhiệm vụ và thẩm quyền thực hiện xử lý các vụ việc liên quan đến hạn chế<br /> cạnh tranh sau khi Cục Quản lý cạnh tranh phát hiện và điều tra doanh có hành vi vi phạm; thành<br /> lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để giải quyết một vụ việc cạnh tranh; yêu cầu các tổ chức,<br /> cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cho việc thực hiện nhiệm vụ; quyết định áp dụng,<br /> thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hành chính sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ việc cạnh tranh;<br /> giải quyết khiếu nại tố cáo trong phạm vi thẩm quyền… Đặc trưng hoạt động là quyết định các<br /> vấn đề theo đa số thành viên. Hội đồng cạnh tranh tiến hành hoạt động thông qua Hội đồng xử lý<br /> vụ việc cạnh tranh được thành lập một lần để giải quyết vụ việc cụ thể và giải tán khi hoàn thành<br /> nhiệm vụ của mình (như Hội đồng xét xử trong hệ thống Tòa án). Hội đồng xử lý vụ việc cạnh<br /> tranh được xem là cơ quan có thẩm quyền "xét xử cấp sơ thẩm" vụ việc liên quan đến hành vi hạn<br /> chế cạnh tranh. Hội đồng toàn thể thành viên của Hội đồng cạnh tranh là cơ quan tố tụng cấp trên<br /> (như thẩm quyền "xét xử phúc thẩm") có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định của Hội<br /> đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.<br /> - Tòa án nhân dân: đóng vai trò là một thiết chế trong quản lý cạnh tranh. Tòa hành chính<br /> Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm<br /> khiếu kiện đối với quyết định của Hội đồng cạnh tranh; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao,<br /> Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh theo<br /> thủ tục phúc thẩm/giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hành<br /> chính. Tuy nhiên, thiết chế này xuất hiện mờ nhạt hơn nhiều so với hai thiết chế đặc biệt là Cục<br /> Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh.<br /> - Các hiệp hội: Trên thực tế tất cả hầu như hoạt động kém hiệu quả, chưa phát huy được vai<br /> trò dẫn dắt các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh, đúng pháp luật, chưa thực hiện tốt chức<br /> năng giám sát cạnh tranh. Để tăng cường vị thế của mình, các hiệp hội cần hợp tác chặt chẽ với<br /> cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và các<br /> hiệp hội ngành hàng về pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; tích cực<br /> phòng chống các vi phạm pháp luật nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và cơ chế<br /> kinh tế thị trường phát triển bền vững.<br /> Để quản lý cạnh tranh có hiệu quả cao cần có sự phối hợp hoạt động của các thiết chế có tổ<br /> chức và cả bản thân những người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp khi tham gia thị trường.<br /> Tuy nhiên, chỉ có những thiết chế quyền lực (cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh và<br /> tòa án) mới thực sự có khả năng can thiệp mạnh mẽ đối với hoạt động quản lý cạnh tranh. Do<br /> pháp luật quy định có sự liên hệ và phối kết hợp trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ<br /> nhưng phân chia thẩm quyền rất rõ rệt nên yêu cầu đặt ra cho các thiết chế là cần sự bảo đảm bổ<br /> trợ lẫn nhau về chức năng, tránh những xung đột về thẩm quyền.<br /> 1.1.3. Tính tất yếu của hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> Cạnh tranh là là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Chính sách cạnh tranh của một quốc<br /> gia nhằm đảm bảo tối đa hóa phúc lợi xã hội và thúc đẩy tăng trưởng xã hội. Trong bất cứ nền<br /> kinh tế nào nếu không có sự quản lý điều tiết hiệu quả sẽ dễ dàng phát sinh ra độc quyền. Thực<br /> tiễn ở nhiều nước đã chứng minh nếu được kiểm soát tốt, cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích cho<br /> kinh tế, cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Như vậy đối với cạnh tranh, cần có chính sách<br /> để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và có khung pháp lý để quản lý cạnh tranh đem lại lợi ích lâu<br /> dài.<br /> Đối với Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp thừa nhận và đặt mục tiêu là<br /> kinh tế thị trường phải đảm bảo sự quản lý của Nhà nước. Trong lĩnh vực kinh tế, các ngành kinh<br /> tế có tầm quan trọng bao nhiêu thì sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ bấy nhiêu, đặc biệt các hành vi<br /> cạnh tranh không lành mạnh ngày tăng lên về số lượng. Sự xuất hiện của pháp luật cạnh tranh để<br /> quản lý và duy trì cho xã hội, cho nền kinh tế môi trường lành mạnh để cạnh tranh phát huy được<br /> các mặt tích cực.<br /> Từ trước đến nay, trong môi trường kinh doanh của chúng ta đã diễn ra tình trạng phân biệt<br /> đối xử giữa các thành phần kinh tế từ đó xuất hiện những rào cản thương mại, quy chế hoặc chiến<br /> lược do các tập đoàn kinh tế quốc doanh dựng lên ngay trên thị trường nội địa làm giảm tính cạnh<br /> tranh bình đẳng trong các doanh nghiệp. Như vậy, quản lý cạnh tranh là yêu cầu cần thiết, tất yếu<br /> đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế<br /> giới (WTO) vào ngày 7/11/2007.<br /> 1.2. Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh Việt Nam<br /> 1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> Pháp luật cạnh tranh là công cụ để tạo lập, duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành<br /> mạnh. Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh là tổng thể các quy định, công cụ pháp<br /> luật cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động cạnh tranh diễn ra đúng quy luật, văn minh và công<br /> bằng … Khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh vừa là mục đích vừa là cách thức để<br /> thực hiện sự điều tiết của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Muốn khuyến khích cạnh tranh<br /> thì Nhà nước phải tạo ra khuôn khổ pháp lý. Sự kết hợp của nhà nước có hiệu quả cao khi kết<br /> hợp với pháp luật cạnh tranh, quản lý gián tiếp bằng pháp luật mà không phải sự can thiệp trực<br /> tiếp bằng các công cụ khác.<br /> Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh được hình thành từ những khung<br /> pháp lý cơ bản điều chỉnh vấn đề cạnh tranh: Luật Cạnh tranh được Quốc hội Nước Cộng hòa xã<br /> hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 06/1/2004 - là đạo luật cơ bản điều chỉnh hành vi quản<br /> lý nhà nước đối với kinh doanh; Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ<br /> quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày<br /> 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị<br /> định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa<br /> cấp; Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc thành lập và quy<br /> định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số<br /> 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/20006 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ<br /> chức của Cục Quản lý cạnh tranh; Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 của Bộ<br /> Thương mại hướng dẫn một số quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của<br /> Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.<br /> Bên cạnh đó cũng ghi nhận sự đóng góp của một số văn bản luật có sự điều chỉnh đối với<br /> hoạt động quản lý cạnh tranh theo ngành nghề, trong đó hoạt động quản lý cạnh tranh được xác<br /> định thuộc về cơ quan chuyên ngành: Luật Viễn thông, Luật Điện lực, Luật Chứng khoán, Luật<br /> Ngân hàng… Xu hướng đưa các vấn đề cạnh tranh vào luật chuyên ngành như vậy đã và đang<br /> được thể hiện rõ nét bằng sự ra đời của nhiều luật điều tiết ngành trong đó có đề cập đến phạm vi<br /> quản lý cạnh tranh thuộc về cơ quan quản lý ngành. Với những phân tích trên đây, tác giả luận<br /> văn nêu lên một số đặc điểm của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh Việt Nam đó<br /> là: tính mềm dẻo; có sự vận dụng các án lệ (của tòa án, quyết định của cơ quan cạnh tranh) bổ<br /> sung cho luật thành văn bởi các quy định trong các văn bản luật cạnh tranh thường rất chung<br /> chung; tính xuyên suốt và tính toàn cầu.<br /> 1.2.2.Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> - Cách thức quản lý cạnh tranh<br /> Cách thức (hay còn gọi là phương thức) quản lý cạnh tranh được đánh giá có mức độ quan<br /> trọng hơn rất nhiều so với mức độ quản lý cạnh tranh. Cách thức quản lý là một vấn đề đặc biệt<br /> có ý nghĩa vì quyết định sự hiệu quả quản lý bên cạnh những vấn đề cần nghiên cứu như cơ quan<br /> quản lý cạnh tranh, xử lý vi phạm về cạnh tranh. Không có một biện pháp nào có thể thay thế cho<br /> phương thức mà pháp luật can thiệp vào hoạt động quản lý cạnh tranh thông qua các điều luật,<br /> các văn bản… Cách thức quản lý cạnh tranh tập trung vào việc quy định cách kiểm soát và xử lý<br /> đối với các nhóm hành vi: các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; những hành vi bị coi là hạn<br /> chế cạnh tranh; các hành vi lạm dụng vị thế độc quyền; quy định về hợp nhất, sáp nhập doanh<br /> nghiệp nhằm chống độc quyền. Các cách thức quản lý cạnh tranh có hiệu quả hay không phụ<br /> thuộc vào tính hợp lý của biện pháp, chế độ sử dụng và năng lực của cơ quan quản lý. Đối với<br /> quản lý cạnh tranh, các cách thức quản lý được nghiên cứu và đưa ra để áp dụng thực chất là còn<br /> thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng, chưa được các chủ thể trong quan hệ pháp luật<br /> cạnh tranh chấp hành thực hiện nghiêm túc, dẫn tới hiệu quả quản lý cạnh tranh chưa cao để đáp<br /> ứng yêu cầu của thời cuộc.<br /> - Cơ quan quản lý cạnh tranh<br /> Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia - cơ quan quản lý chung.<br /> Khẳng định này được quy định trong Luật Cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh - cơ quan quản lý<br /> nhà nước về cạnh tranh, tạo lập môi trường cạnh tranh đồng bộ và thống nhất trên phạm vi toàn<br /> quốc. Luật Cạnh tranh quy định cơ quan quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định về thành lập<br /> và quy định tổ chức, bộ máy của Cục Quản lý cạnh tranh. Trong các lĩnh vực chuyên ngành, quản<br /> lý cạnh tranh do các cơ quan chuyên ngành thực hiện và có sự phối hợp hoạt động với cơ quan<br /> quản lý cạnh tranh chung.<br /> Cục Quản lý cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ hoạt động trên tất cả các giai đoạn đối với một<br /> vụ việc cạnh tranh không lành mạnh (điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan; xét<br /> xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại). Pháp luật cạnh tranh của quốc gia có được<br /> thực thi và hiệu quả phụ thuộc vào hoạt động của chính cơ quan này. Năm 2006, Bộ Thương mại<br /> đã có Tờ trình Chính phủ thành lập cơ quan tương ứng là Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở gộp<br /> 03 cơ quan bao gồm: cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan điều tra để áp dụng các biện pháp<br /> chống bán phá giá, cơ quan điều tra để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp và tự vệ.<br /> 1.3. Những yếu tố chi phối pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh<br /> - Nhóm các yếu tố nội tại:<br /> + Những yếu tố tiền đề: Những yếu tố tiền đề có ý nghĩa quan trọng để xác định rõ chủ thể<br /> của thị trường, vạch rõ ranh giới giữa nhà nước và thị trường, hình thành được hệ thống thị<br /> trường và đồng bộ. Từ đó xác định được phạm vi điều chỉnh và các nội dung của pháp luật quản<br /> lý cạnh tranh.<br /> + Bối cảnh đặc thù: chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định<br /> hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật cùng với các công cụ khác<br /> nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu<br /> cực của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường luôn tồn tại sự cạnh tranh và yêu cầu điều tiết<br /> cạnh tranh. Tuy nhiên, bối cảnh đặc thù của kinh tế nước ta là rất khác biệt mà không tương đồng<br /> với một quốc gia nào.<br /> - Nhóm các yếu tố bên ngoài:<br /> + Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng lớn đến pháp luật điều chỉnh<br /> hoạt động quản lý cạnh tranh;<br /> + Kinh nghiệm về xây dựng và thực thi pháp luật quản lý cạnh tranh của các nước có nền<br /> kinh tế thị trường từ rất sớm và hệ thống chính sách pháp luật về cạnh tranh phát triển. Chúng ta<br /> đã có những học hỏi và tiếp thu kỹ thuật xây dựng luật cùng với mô hình cơ quan cạnh tranh từ<br /> những nước đó và chọn lọc cho phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của Việt Nam.<br /> <br /> Chương 2<br /> THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG<br /> QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br /> 2.1. Quy định pháp luật điều chỉnh cách thức quản lý cạnh tranh<br /> 2.1.1. Chế độ cung cấp thông tin<br /> - Quy định pháp luật:<br /> + Cung cấp thông tin từ các bên liên quan về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế<br /> đang được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý theo Điều 32 Luật Cạnh tranh.<br /> + Trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng,<br /> kế toán, kiểm toán và các tổ chức cá nhân khác cho cơ quan cạnh tranh<br /> + Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp<br /> thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ của mình.<br /> + Hội đồng cạnh tranh có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin,<br /> tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng.<br /> + Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo Điều 11 Luật Cạnh tranh thông<br /> qua việc doanh nghiệp phải cung cấp thông tin về thị phần của mình trên thị trường liên quan theo<br /> tháng, quý, năm là nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp.<br /> + Cục Quản lý cạnh tranh đã xây dựng một chuyên mục về cung cấp thông tin trực tuyến trên<br /> website riêng của mình.<br /> + Bên bị điều tra, bên khiếu nại có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực, chính xác, kịp thời<br /> những chứng cứ cần thiết liên quan đến kiến nghị, yêu cầu của mình để cơ quan cạnh tranh thực<br /> hiện chức năng nhiệm vụ trong giải quyết vụ việc cạnh tranh.<br /> + Chế độ cung cấp thông tin còn thể hiện ở quy định cấm các doanh nghiệp cung cấp thông<br /> tin không chính xác về các yếu tố liên quan đến hoạt động hay sản phẩm của mình.<br /> - Đánh giá quy định:<br /> Việc cung cấp thông tin từ phía các doanh nghiệp, người tiêu dùng qua nhiều kênh thông tin<br /> đáp ứng được đúng những đòi hỏi quan trọng của quản lý hoạt động cạnh tranh; phản ánh được<br /> tính khách quan của sự việc; là cầu nối nhanh nhất giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp, người<br /> tiêu dùng. Cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra chính là cách để doanh nghiệp tự chủ động<br /> bảo vệ mình trong trường hợp bị thiệt hại. Tuy nhiên, phía cơ quan có thẩm quyền cần có khả<br /> năng tốt trong tiếp thu và đặc biệt là khâu phân tích thông tin bởi thông tin thường cũng mang<br /> tính đa chiều.<br /> 2.1.2. Chế độ đăng ký<br /> - Quy định của pháp luật:<br /> + Pháp luật Việt Nam đã xây dựng riêng Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 để<br /> quy định các nội dung xoay quanh hoạt động bán hàng đa cấp. Qua đó chú trọng vào quản lý hoạt<br /> động bán hàng đa cấp thông qua đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp - hình thức hoạt động kinh<br /> doanh rất phức tạp đòi hỏi yêu cầu quản lý của nhà nước. Khoản 2 Điều 3 Nghị định<br /> 110/2005/NĐ-CP quy định: "doanh nghiệp chỉ được tổ chức bán hàng đa cấp sau khi được cấp<br /> giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp".<br /> + Một số thỏa thuận có nội dung liên quan đến hạn chế cạnh tranh (như hợp đồng chuyển<br /> giao công nghệ) cần được đăng ký hoặc cho phép của cơ quan quản lý nhà nước trước khi thực<br /> hiện.<br /> + Trong Luật Viễn thông: có sự quản lý chặt chẽ tù phía Bộ Thông tin và Truyền thông cũng<br /> như các cơ quan có thẩm quyền khác. Luật còn quy định khi những lĩnh vực khác doanh nghiệp<br /> sẽ có quyền tự xác định và cạnh tranh về giá cước nhưng khi ban hành giá đối với cước di động,<br /> internet thì phải đăng ký trước với Bộ chủ quản.<br /> - Đánh giá quy định:<br /> Chế độ đăng ký phát huy được mặt mạnh đó là thuận lợi cho sự quản lý của nhà nước về quá<br /> trình hoạt động của doanh nghiệp, qua đó có những điều chỉnh kịp thời về quản lý. Với cơ chế<br /> này, giúp cho nhà làm luật muốn sàng lọc được những doanh nghiệp hiệu quả từ khâu đầu vào.<br /> Từ Nhưng có thể thấy rằng không phải lúc nào chế độ đăng ký cũng là phù hợp bởi vì nếu không<br /> sử dụng hợp lý nó sẽ mang tính hình thức, và hiệu quả sàng lọc các doanh nghiệp hiệu quả vẫn<br /> chỉ là mong ước. Nếu các điều kiện pháp luật đưa ra không phù hợp sẽ tạo nên sự bất khả thi<br /> trong nhiệm vụ thực hiện. Nhà nước khi quản lý thông qua pháp luật cần cân nhắc phương thức<br /> sử dụng phù hợp tùy vào từng nội dung của loại hình kinh doanh mà quy định cần phải áp dụng<br /> chế độ đăng ký hay chỉ đơn giản hơn là chế độ thông báo. Áp dụng chế độ đăng ký không thích<br /> hợp sẽ gây ra những thủ tục rườm rà mà vẫn không đảm bảo được hiệu quả quản lý.<br /> 2.1.3. Chế độ báo cáo<br /> - Quy định pháp luật:<br /> + Trách nhiệm báo cáo định kỳ của doanh nghiệp bán hàng đa cấp: "Định kỳ 6 tháng doanh<br /> nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm báo cáo với Sở Thương mại - Du lịch nơi doanh nghiệp<br /> đăng ký kinh doanh về số lượng người tham gia, doanh thu và số thuế đã nộp của doanh nghiệp"<br /> - Điều 20 Nghị định số 110/2005/NĐ-CP quy định báo cáo định kỳ của doanh nghiệp bán hàng:<br /> + Báo cáo khi có yếu tố liên quan đến hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh phát<br /> sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp:<br /> - Đánh giá quy định: Để quản lý cạnh tranh trong vấn đề ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm, cơ<br /> quan có thẩm quyền chủ yếu dựa vào hoạt động báo cáo định kỳ của doanh nghiệp cùng với các hoạt<br /> động khác như thanh tra, kiểm tra. Thực tế là không phải tất cả các doanh nghiệp đều chấp hành tốt<br /> những luật lệ của nhà nước đặt ra bởi vậy mới phát sinh những vi phạm. Hơn nữa, pháp luật cạnh<br /> tranh chưa quy định chế độ báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp trên thị trường (trừ quy định đối với<br /> bán hàng đa cấp như ở trên) đối với cơ quan quản lý cạnh tranh. Chế độ báo cáo cũng như các chế độ<br /> khác trong nội dung hoạt động quản lý cạnh tranh đều có ý nghĩa, vị trí, vai trò quan trọng không thể<br /> thiếu. Nhưng trong pháp luật về cạnh tranh xuất hiện chỉ ở rải rác các quy định của những văn bản<br /> khác nhau nên giảm đi tính giá trị và uy nghiêm của phương thức này.<br /> 2.1.4. Chế độ thông báo<br /> - Quy định pháp luật:<br /> + Được tiếp cận chủ yếu ở các hình thức tập trung kinh tế trong nội dung về kiểm soát hạn<br /> chế cạnh tranh của Luật Cạnh tranh qua thủ tục: các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần<br /> kết hợp từ 30% đến 50% phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập<br /> trung kinh tế.<br /> + Doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo trước khi sáp nhập hoặc mua lại cổ phần trong các vụ<br /> tập trung kinh tế.<br /> + Ngoài ra, sử dụng chế độ thông báo còn phản ánh tính khách quan trong hoạt động quản lý<br /> cạnh tranh từ phía cơ quan có thẩm quyền:<br /> Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo công khai quyết định cho hưởng miễn<br /> trừ theo quy định của Chính phủ.<br /> Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo cho bên khiếu nại về việc thụ lý hồ sơ<br /> trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ.<br /> Điều tra viên phải thông báo tới các bên liên quan trong việc gia hạn thời hạn điều tra theo<br /> quy định.<br /> Thông báo bằng niêm yết công khai và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng văn<br /> bản tố tụng cạnh tranh.<br /> Thông báo kết quả việc cấp văn bản tố tụng cạnh tranh, thông báo kết quả việc tống đạt hoặc<br /> thông báo văn bản tố tụng cạnh tranh.<br /> - Đánh giá quy định:<br /> Chế độ thông báo ở đây hình thức công khai đối với các vấn đề liên quan tới vụ việc cạnh tranh:<br /> thông báo từ cơ quan quản lý, thông báo từ doanh nghiệp. Qua đó, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể<br /> kiểm soát được các vấn đề hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp. Ưu điểm: nhanh chóng trong truyền<br /> tải tin tức, là cơ sở để cơ quan quản lý nắm được tình hình hoạt động của doanh nghiệp và các nội<br /> dung của vụ việc cạnh tranh. Ngoài ra còn là lựa chọn hợp lý như một loại giấy phép cho doanh<br /> nghiệp kinh doanh nhằm thay thế của chế độ thông báo cho chế độ đăng ký trong những trường hợp<br /> cần thiết. Tuy nhiên, thực tế pháp luật của chúng ta vẫn chưa nhấn mạnh vai trò của chế độ thông báo.<br /> Cùng với chế độ báo cáo, chế độ thông báo cần được cụ thể hơn trong luật.<br /> 2.1.5. Chế độ giám sát chéo<br /> - Quy định pháp luật:<br /> + Giám sát đối với tập trung kinh tế được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau.<br /> + Cơ chế giám sát lẫn nhau của hai cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh là Cục Quản lý<br /> cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.<br /> - Đánh giá quy định:<br /> Chế độ giám sát chéo nếu được phát huy sẽ mang lại hiệu quả lớn bởi sự tác động qua lại<br /> giữa các chủ thể. Tuy nhiên ở chúng ta, chế độ giám sát chéo chưa thực sự đạt được kết quả, chưa<br /> được sử dụng hết lợi thế của cơ chế giám sát này và đặc biệt chưa cụ thể trong luật.<br /> 2.2. Quy định pháp luật về cơ quan quản lý cạnh tranh.<br /> 2.2.1. Cơ quan quản lý chung<br /> Cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam là Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ<br /> Công thương được quy định tại Điều 49, Điều 53 trong Luật Cạnh tranh.<br /> - Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam - Cục Quản lý cạnh tranh:<br /> quản lý nhà nước về cạnh tranh; quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng<br /> các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;<br /> phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện trong<br /> thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ và thực<br /> hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Công thương giao cho.<br /> - Vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh: quyết định trong việc bảo đảm thực thi Luật Cạnh<br /> tranh và 04 Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp đối, tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng.<br /> - Tính chất của cơ quan quản lý cạnh tranh: vừa là cơ quan điều tra, xử lý, đồng thời là cơ<br /> quan hành chính.<br /> Thực trạng khó khăn của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay: thiếu tính độc lập do phụ thuộc<br /> vào cơ quan chủ quản là Bộ Công thương; thiếu nguồn nhân lực; thiếu kinh phí hoạt động; các<br /> đơn vị trực thuộc Cục còn có những đan xen, chồng chéo. Hơn nữa là chỉ tiến hành điều tra một<br /> vụ việc cạnh tranh một cách bị động. Mô hình hai cơ quan cạnh tranh chưa hẳn đã phù hợp với<br /> thực tiễn.<br /> 2.2.2. Cơ quan xử lý vi phạm<br /> Bao gồm: cơ quan quản lý cạnh tranh và Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh; các cơ quan<br /> chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt với vi phạm cạnh tranh trong phạm vi nội bộ quản lý ngành<br /> như điện lực, viễn thông, ngân hàng…; Bộ trưởng Bộ Thương mại; Tòa án (Tòa hành chính Tòa<br /> án nhân dân cấp tỉnh); Hội đồng cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.<br /> - Một số vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh xử lý:<br /> + Vụ việc Công ty Cổ phần Liên kết trí thức in tờ rơi có nội dung sai lệch về sản phẩm bán<br /> hàng đa cấp.<br /> + Vụ việc Công ty Trung Thông khiếu nại Công ty Gas Petrolimex Đà Nẵng:<br /> + Vụ việc Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật và quản lý môi trường khiếu nại Công ty TNHH<br /> Toàn Cầu.<br /> + Vụ việc liên quan đến tranh chấp phí cung ứng của Hợp đồng dịch vụ tra nạp nhiên liệu<br /> máy bay Jet A1 giữa Công ty Xăng dầu Hàng không (Vinapco) và hãng Hàng không cổ phần<br /> Jestar Pacific (JPA) xảy ra vào tháng 4/2008.<br /> + Vụ việc xử phạt 19 doanh nghiệp bảo hiểm.<br /> 2.2.3. Nguyên tắc hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh<br /> - Nguyên tắc độc lập: Độc lập là yếu tố đảm bảo cho sự khách quan và công bằng. Đây có<br /> thể coi là nguyên tắc cao nhất, có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho cơ quan này có sự công bằng<br /> trong xử lý các vụ việc cạnh tranh, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan có thẩm<br /> quyền. Nguyên tắc độc lập được biểu hiện ở cách xử lý và ra quyết định trong vụ việc cạnh tranh<br /> đối với doanh nghiệp và với cả những cơ quan có lợi ích gắn bó mật thiết với doanh nghiệp. Tính<br /> độc lập còn được biểu hiện thông qua việc bổ nhiệm nhân sự của cơ quan quản lý cạnh tranh. Tuy<br /> nhiên, với mô hình của Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương hiện nay phát sinh vấn<br /> đề là sẽ khó đảm bảo tính độc lập cho cơ quan này cả về mặt tổ chức, thực hiện nhiệm vụ và tài<br /> chính. Cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương có nghĩa là chưa độc lập thành<br /> một cơ quan riêng, vì thế chịu sự chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Công thương. Cục Quản lý cạnh<br /> tranh cũng khó độc lập hoàn toàn đối với Hội đồng cạnh tranh. Để đảm bảo tính độc lập thực tế<br /> khi Cục Quản lý cạnh tranh là một cơ quan rất đặc biệt cho nên cần được xây dựng nguyên tắc<br /> hoạt động độc lập trên cơ sở giao cho những thẩm quyền đặc biệt để tương thích với chức năng<br /> của Cục.<br /> - Nguyên tắc minh bạch: Yếu tố minh bạch trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước<br /> là một yêu cầu tất yếu và nhân dân có quyền giám sát các cơ quan quản lý nhà nước trong phạm<br /> vi nhất định. Minh bạch trong hoạt động thực thi nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh lại là<br /> một đòi hỏi quan trọng xuất phát từ chính vai trò trong việc duy trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành<br /> mạnh. Biểu hiện của nguyên tắc là sự công khai đối với các hoạt động. Ý nghĩa của nguyên tắc là<br /> góp phần xây dựng nên cả hệ thống pháp luật quản lý cạnh tranh minh bạch, khách quan.<br /> - Nguyên tắc công bằng: Môi trường cạnh tranh đã và đang tồn tại sự cạnh tranh khốc liệt, gay<br /> gắt. Bởi vậy, sự công bằng trong hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh đóng vai trò quan trọng<br /> trong việc hình thành và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử và công<br /> bằng trong mọi lĩnh vực kinh tế, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp. Thể hiện trong việc xử lý<br /> các vụ khiếu kiện giữa chính các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công thương với các doanh nghiệp<br /> khác kinh doanh trên thị trường. Hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh nhằm mục đích đảm bảo<br /> cho sự công bằng - một điều kiện quan trọng và quyết định cho thành công bền vững của nền kinh tế.<br /> Với sứ mệnh của mình thì Luật Cạnh tranh hoàn toàn có thể đem lại sự công bằng cho cả người tiêu<br /> dùng và doanh nghiệp hoạt động trên thị trường dù môi trường cạnh tranh có gay gắt đến đâu. Khi<br /> sử dụng thẩm quyền áp dụng Luật Cạnh tranh của mình, Cục Quản lý cạnh tranh cần đáp ứng được<br /> đòi hỏi là duy trì sự công bằng cho các bên liên quan trong pháp luật cạnh tranh, đảm bảo sự công<br /> bằng trong xã hội.<br /> 2.3. Xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh<br /> 2.3.1. Các loại hình phạt và mức độ xử lý vi phạm<br /> Hành vi vi phạm quy định pháp luật Cạnh tranh là hành vi có tính chất nguy hiểm cho kinh tế<br /> - xã hội bởi nó cản trở việc xây dựng một thị trường cạnh tranh lành mạnh, nguy hiểm hơn là<br /> khiến cho nhà nước khó kiểm soát được giá cả, chất lượng của sản phẩm. Pháp luật cạnh tranh<br /> quy định cụ thể các hình phạt như sau:<br /> Thứ nhất, Quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành<br /> mạnh và các hành vi khác vi phạm khác.<br /> Thứ hai, Quy định xử phạt đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh:<br /> - Đánh giá về các hình thức xử phạt:<br /> Nhà nước đã mạnh tay trừng phạt bằng các biện pháp mạnh mang tính quyền lực qua các<br /> biện pháp xử phạt để kiểm soát quyền lực thị trường. Các biện pháp khắc phục hậu quả được áp<br /> dụng sau khi có hành vi vi phạm xảy ra nhằm khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra<br /> để khôi phục lại tình trạng cạnh tranh đã bị tác động. Luật Cạnh tranh cũng theo truyền thống lập<br /> pháp ở Việt Nam thì phần các tội phạm dẫn chiếu vào các quy định trong Bộ luật Hình sự. Các<br /> mức hình phạt đối với vi phạm pháp luật cạnh tranh đều nhằm bảo đảm cho cạnh tranh diễn ra. Tuy<br /> vậy, việc xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh còn nhiều bất cập cần được giải quyết thỏa đáng.<br /> 2.3.2. Cơ chế thực thi việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh<br /> - Về các cơ quan thực thi: Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý cạnh tranh của nhà<br /> nước cần sự phối hợp của nhiều cơ quan cùng với các cơ quan cạnh tranh ở các giai đoạn khác<br /> nhau.<br /> - Về cưỡng chế thực thi:Thực tế pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh còn<br /> thiếu cơ chế. Bên cạnh đó là các cơ quan thực thi hoạt động kém hiệu quả. Như vậy, để pháp luật<br /> thực sự đi vào cuộc sống cũng rất là khó khăn vì gặp trở ngại từ nhiều yếu tố liên quan.Về cơ bản<br /> cơ chế thực thi xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hiện nay là chưa đáp<br /> ứng được về hiệu quả như yêu cầu đặt ra có nguyên nhân của tình trạng này là sự phối hợp giữa<br /> các cơ quan có thẩm quyền chưa chặt chẽ, hơn nữa các cơ quan lại gặp những trở ngại riêng trong<br /> thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.<br /> <br /> Chƣơng 3<br /> MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU<br /> CHỈNH HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH<br /> TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY<br /> 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở<br /> Việt Nam<br /> 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trên cơ sở thực<br /> trạng quy định pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.<br /> - Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trên cơ sở thực trạng quy<br /> định pháp luật quản lý cạnh tranh:<br /> Pháp luật quản lý cạnh tranh Việt Nam hiện nay đã được xây dựng khá hoàn chỉnh về hệ<br /> thống các văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung các văn bản đã bao quát đầy đủ để điều chỉnh hai<br /> nhóm hành vi là hạn chế cạnh tranh (bao gồm: những hành vi bị cấm, bị hạn chế hoặc chịu sự giám<br /> sát của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện M&A - sáp nhập và mua lại) và cạnh tranh<br /> không lành mạnh. Với tư cách là lĩnh vực còn mới và phức tạp bởi sự chi phối của nhiều yếu tố<br /> chủ quan và khách quan nên quy định của pháp luật quản lý cạnh tranh không tránh khỏi những<br /> bất cập.<br /> Pháp luật quản lý cạnh tranh còn thiếu phạm vi điều chỉnh đối với quản lý cạnh tranh có yếu<br /> tố "ngoài nước". Luật Cạnh tranh Việt Nam còn thiếu nhiều quy định để điều chỉnh các hành vi<br /> cạnh tranh không lành mạnh. Thực tế hiện nay tồn tại hàng trăm hành vi cạnh tranh không lành<br /> mạnh trong khi đó số lượng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được Luật Cạnh tranh quy định<br /> tại Điều 39 là quá ít (9 hành vi). Ngoài ra, tại khoản 10 Điều 45 còn gây khó xử cho cơ quan thực thi<br /> khi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác mới chỉ bị cấm khi nó được Chính phủ quy định là<br /> không lành mạnh. Với sự không rõ ràng như vậy cho nên nhiều doanh nghiệp vẫn thực hiện hoạt<br /> động mà chúng ta có thể đánh giá là phản cạnh tranh nhưng chưa bị xử lý (trái với đạo đức kinh<br /> doanh) vì pháp luật chưa quy định. Vì vậy, cần sửa đổi một số nội dung của Luật cho phù hợp để<br /> quản lý kiểm soát cạnh tranh trong kinh tế.<br /> - Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trên cơ sở thực trạng thực<br /> thi pháp luật quản lý cạnh tranh.<br /> Thị trường Việt Nam còn tồn tại quá nhiều rào cản cho cạnh tranh và cho thực thi pháp luật<br /> quản lý cạnh tranh như tư tưởng quản lý kinh tế tập trung trước đây vẫn còn tồn tại, độc quyền<br /> hành chính, rào cản về thương mại và đầu tư nước ngoài còn lớn, vẫn còn phân biệt đối xử giữa<br /> doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác, các hành vi cạnh tranh lành mạnh đã diễn ra ngày<br /> một nhiều nhưng xử lý chưa nghiêm khắc. Trong bối cảnh Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị<br /> trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới và khu<br /> vực, việc thực thi pháp luật quản lý cạnh tranh nhằm để duy trì môi trường cạnh tranh, dần xóa bỏ<br /> các rào cản, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp,<br /> người tiêu dùng và nền kinh tế.<br /> Thực thi pháp luật quản lý cạnh tranh tại Việt Nam, ở khía cạnh xử lý các vụ việc vi phạm đã<br /> phần nào thể hiện được quyết tâm của Việt Nam trong thực thi các nội dung của pháp luật quản<br /> lý cạnh tranh, tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, pháp luật về quản lý cạnh tranh vẫn<br /> chưa quản lý cũng như chưa kiểm soát được hết các hành vi phản cạnh tranh đang diễn ra.<br /> 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trên cơ sở phù hợp<br /> điều kiện nền kinh tế thị trường đặc biệt của Việt Nam<br /> Nguyên tắc cho việc xây dựng đối với pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh là:<br /> quán triệt sâu sắc và thể chế hóa đầy đủ các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng trong<br /> việc phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ<br /> nghĩa. Nhà nước phải có những chính sách phù hợp để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh theo<br /> đúng quy luật của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi thực hiện được hai mục tiêu<br /> là chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế cạnh tranh thì sẽ bảo vệ được môi trường<br /> kinh doanh, có sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ được các lợi ích công<br /> cộng, quyền và lợi ích chính đáng của nhà kinh doanh và người tiêu dùng.<br /> 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trên cơ sở thống<br /> nhất với các luật khác có liên quan<br /> Luật Cạnh tranh có thể được hiểu luật xuyên suốt giữa luật công và luật tư, là một trong<br /> những công cụ mà Nhà nước dùng để điều tiết đối với nền kinh tế. Pháp luật điều chỉnh hoạt<br /> động quản lý cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở của Luật Cạnh tranh. Sự xuất hiện của Luật<br /> Cạnh tranh, các Pháp lệnh liên quan, các văn bản hướng dẫn có vai trò là cung cấp những công cụ<br /> pháp lý cần thiết giúp doanh nghiệp có thể tự bảo vệ mình trước hoạt động trái pháp luật của đối<br /> thủ cạnh tranh. Cần đảm bảo tính thống nhất với các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung.<br /> Theo quan điểm cá nhân, tôi sẽ phân tích và đưa ra giải pháp hoàn thiện của pháp luật quản lý<br /> cạnh tranh ở nội dung này bao gồm hai vấn đề sau:<br /> - Đối với ngành luật khác có liên quan: Có những lập luận đối với phân định mối quan hệ<br /> giữa Luật Cạnh tranh với các ngành luật. Đối với vấn đề được điều chỉnh bởi Luật Cạnh tranh thì<br /> Luật Thương mại được coi là luật chung (trong khi đó Bộ luật Dân sự được coi là luật chung của<br /> Luật Thương mại). Nhưng dù phân định thế nào thì pháp luật quản lý cạnh tranh vẫn luôn có mối<br /> liên hệ với một số luật chuyên ngành khác vì cùng điều chỉnh một số nội dung.<br /> - Với các luật điều tiết ngành như: Viễn thông, Điện lực, Kinh doanh bảo hiểm... Ở đây có sự<br /> xung đột dễ làm thủ tiêu Luật Cạnh tranh. Bởi vậy, phải hoàn thiện pháp luật quản lý cạnh tranh<br /> trên cơ sở thống nhất với các ngành luật, các luật điều tiết ngành với các giải pháp: tăng cường<br /> tham vấn của cơ quan quản lý cạnh tranh; các cơ quan có thẩm quyền thẩm định thẩm ra các dự<br /> án luật điều chỉnh rà soát kỹ; áp dụng pháp luật quản lý cạnh tranh phải có sự phối hợp với các<br /> luật chuyên ngành; Cục Quản lý cạnh tranh nên có một nghiên cứu tổng thể, tham khảo và tiếp<br /> thu có chọn lọc của các nước trên thế giới,<br /> 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt<br /> Nam<br /> 3.2.1. Về cách thức quản lý cạnh tranh<br /> - Xây dựng cơ chế phối hợp tốt giữa Cục Quản lý cạnh tranh với các cơ quan liên quan.<br /> - Bổ sung và hoàn thiện cách thức quản lý: chế độ thống kê, nghĩa vụ chế độ thông báo, báo<br /> cáo định kỳ; tăng cường giám sát chéo ở nhiều hoạt động, áp dụng cho nhiều nhóm hành vi, chủ<br /> động giám sát ở cơ quan có thẩm quyền; nghiên cứu thực tế và quy mô để xác định tính hiệu quả và<br /> hợp lý của từng loại chế độ để vận dụng vào quản lý phù hợp; trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh<br /> những công cụ điều tra mạnh.<br /> 3.2.2. Về cơ quản quản lý cạnh tranh<br /> - Cơ quan cạnh tranh cần đảm bảo tính độc lập. Kiến nghị hướng hoàn thiện về vị trí của cơ<br /> quan quản lý cạnh tranh nên được quy định là cơ quan ngang Bộ trực thuộc Chính phủ.<br /> - Cơ quan quản lý cạnh tranh không nên có chức năng về phòng vệ thương mại mà chuyển<br /> cho cơ quan khác để đảm bảo quản lý cạnh tranh hiệu quả.<br /> - Mở rộng quy mô của cơ quan quản lý cạnh tranh trên các nội dung khác nhau.<br /> - Giới hạn thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh ở phạm vi chỉ xử lý các vụ việc cạnh tranh<br /> không lành mạnh mà gây hậu quả chủ yếu đến các doanh nghiệp khác (liên quan đến người tiêu dùng<br /> thì giao cho cơ quan chuyên về bảo vệ người tiêu dùng).<br /> - Nâng cao tính năng động, linh hoạt trong xử lý công việc.<br /> - Xây dựng và làm rõ cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký<br /> kinh doanh, cơ quan quản lý chuyên ngành.<br /> 3.2.3. Về xử lý vi phạm<br /> - Bổ sung và hoàn thiện các quy phạm về thủ tục và trình tự hướng dẫn xử lý vi phạm.<br /> - Đẩy nhanh tiến độ đối với việc điều tra, xử lý vi phạm.<br /> - Hoàn thiện pháp luật hình sự để xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh:<br /> - Cơ quan quản lý cạnh tranh cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng phù hợp<br /> hơn.<br /> - Phân định rõ ràng các nhóm hành vi thuộc đối tượng xử lý của cơ quan điều tiết chuyên<br /> ngành với nhóm hành vi do cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý.<br /> 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý<br /> cạnh tranh ở Việt Nam<br /> 3.3.1. Xây dựng các tổ chức hỗ trợ quản lý cạnh tranh<br /> Xúc tiến xây dựng các tổ chức hỗ trợ quản lý cạnh tranh là yêu cầu cần thiết nhằm: góp<br /> phần tạo hiệu quả hoạt động quản lý cạnh tranh, nâng cao vai trò và năng lực của các thiết chế<br /> quản lý cạnh tranh, xây dựng một tổ chức là cầu nối giữa chính sách của nhà nước với người<br /> dân trong khi chính sách pháp luật cạnh tranh có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến toàn<br /> bộ đời sống kinh tế đất nước. Vai trò của các tổ chức hỗ trợ quản lý cạnh tranh là góp phần<br /> chuyên môn hóa việc triển khai chính sách, pháp luật về cạnh tranh của nhà nước và có điều<br /> kiện để thực hiện công việc với tính chất vừa rộng, vừa sâu. Hoạt động của các tổ chức này còn<br /> giúp cho các cơ quan nhà nước thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về diễn biến của thị trường<br /> cạnh tranh để góp phần nâng cao hiệu suất làm việc của các cơ quan có thẩm quyền.<br /> 3.3.2. Giao lưu cạnh tranh quốc tế<br /> Thời đại toàn cầu hóa với xu thế nhập kinh tế quốc tế hiện nay khi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2