Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam
lượt xem 6
download
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam
- QUẢN TRỊ TRI THỨC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM Lê Đình Bình* 1 Tóm tắt: Quản trị tri thức đang là một xu hướng rất phổ biến ở các nước phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội như kinh tế, chính trị, giáo dục, quốc phòng…. Về lĩnh vực giáo dục đại học, Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập lớn, chất lượng giáo dục đại học đang ở mức thấp hơn so với yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu để ứng dụng các mô hình quản trị mới đáp ứng nhu cầu đổi mới hệ thống giáo dục đại học đang ngày càng trở nên cấp thiết. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích tổng quan về quản trị tri thức trong trường đại học và đưa ra một số khuyến nghị cho các trường đại học trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra những dấu ấn quan trọng trong lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội. Dưới sự tác động của khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất xã hội đã có những bước phát triển mạnh, tạo ra một xu hướng mới mà ở đó tri thức, đặc biệt là tri thức khoa học và công nghệ ngày càng đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới: từ kinh tế công nghiệp truyền thống sang kinh tế tri thức, đây * Nghiên cứu sinh, Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội - Thạc sĩ, Ban Tổ chức Cán bộ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 172 được xem là một xu hướng phát triển chủ đạo của thế giới trong thế kỷ XXI. Các tổ chức, doanh nghiệp (DN) chịu sức ép phải không ngừng đổi mới, sáng tạo trong sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Các nhà quản trị phải suy nghĩ cách thức quản lý mới bởi quản lý bằng mệnh lệnh và sự kiểm soát chặt chẽ người lao động trong quy trình sản xuất đã không phù hợp trong môi trường sáng tạo năng động. Khi tri thức trở nên quan trọng hơn vốn, lao động và tài nguyên trong việc cấu thành giá trị kinh tế, người ta nghĩ tới đối tượng trọng tâm mới của hoạt động quản trị, đó là quản trị tri thức. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam nghiên cứu về quản trị đại học như Phạm Thị Ly (2008); Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013),… Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu các nhân tố vĩ mô như cơ chế chính sách. Có rất ít các nghiên cứu tiếp cận theo hướng quản trị hoạt động, nghiên cứu chuyên sâu vào từng quá trình hoạt động trong trường đại học. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về quản trị đại học theo hướng tiếp cận nhìn nhận trường đại học như một doanh nghiệp. Thông qua góc nhìn về quản trị hoạt động, các phương pháp quản trị khoa học của doanh nghiệp như quản trị tri thức, quản trị chất lượng tổng thể, Balanced Scorecard, quản trị mục tiêu,... đã được nghiên cứu áp dụng thành công tại các trường đại học trên thế giới. Quản trị tri thức (sau đây gọi tắt là QTTT) đã và đang được nghiên cứu, áp dụng thành công tại rất nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới, đặc biệt là tại Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Các trường đại học trên đang áp dụng thành công QTTT vào các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức nhằm tối ưu hóa các nguồn lực bao gồm con người, tài chính và hệ thống cơ sở vật chất. Một số nghiên cứu cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa các hoạt động QTTT đến việc cải thiện hiệu quả của tổ chức, việc QTTT có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và năng lực lãnh đạo này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của tổ chức (Francisco Javier Lara, 2008). Như vậy,
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 173 thực hiện tốt việc QTTT trong tổ chức sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn cho tổ chức của mình. Tại các trường đại học tại Việt Nam, việc thực hiện QTTT còn rất hạn chế, rất ít trường đại học quan tâm đến việc thực hiện quản trị tri thức, điều đáng nói ở đây là các trường đại học chưa am hiểu một cách rõ ràng và chưa có nhận thức đầy đủ về tác động của hoạt động QTTT đến kết quả hoạt động của tổ chức, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động QTTT trong các trường đại học. Trong bối cảnh này, việc nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng cũng như thấy được những tác động tích cực của hoạt động QTTT đối với kết quả hoạt động của trường đại học là điều tối quan trọng. Về thực tiễn, trong môi trường cạnh tranh giáo dục toàn cầu, các trường đại học cần có động lực mạnh mẽ để trở thành các tổ chức học hỏi năng động, tích cực và phát triển hoạt động học hỏi ở cấp độ tổ chức để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Việt Nam đang đổi mới giáo dục đại học theo định hướng tự chủ và trách nhiệm giải trình để cải thiện chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội theo hướng phát huy tốt mọi nguồn lực, trong đó đặc biệt quan trọng là nguồn lực tri thức của nhà trường. Cụ thể, cần phát huy nguồn lực tri thức của từng cá nhân (cán bộ quản lý, giảng viên..) để áp dụng vào các hoạt động chuyên môn, từ đó nâng cao tính thực tiễn trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu; cũng như hoạt động quản lý của nhà trường theo định hướng quản trị trường đại học hiện đại thông qua quá trình học hỏi của tổ chức. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này sẽ có ý nghĩa thực tiễn khi dựa trên kết quả nghiên cứu lý thuyết để đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động QTTT của trường đại học hướng tới nâng cao kết quả hoạt động của nhà trường. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC 2.1. Khái niệm về quản trị tri thức Ý tưởng tri thức nên được quản lý bắt đầu phổ biến từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX sau các công trình nghiên cứu của Thomas Steward về vốn tri thức (1991, 1994), Ikujiro Nonaka về kiến tạo tri thức
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 174 (1991, 1995). Sau gần hai thập kỷ, QTTT đã trở thành một lĩnh vực trưởng thành ở cả khía cạnh nghiên cứu và thực tế. Về nghiên cứu, cho đến nay đã có khoảng hơn 40 tạp chí khoa học quốc tế về quản trị tri thức; bên cạnh đó là rất nhiều các hội nghị khoa học quốc tế được tổ chức hàng năm và các sách, bài nghiên cứu được xuất bản. Hơn 60 trường đại học thuộc nhiều quốc gia, đặc biệt là Mỹ và Anh, đã mở thêm chuyên ngành QTTT bên cạnh các chuyên ngành quản trị kinh doanh truyền thống để đào tạo lớp người quản lý mới, thích ứng với môi trường mới. Trong thực tế quản lý DN, QTTT đã và đang được ứng dụng một cách nghiêm túc, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước châu Âu. Theo Davenport (1998) thì QTTT là quá trình thu nhận, phát triển, chia sẻ và sử dụng hữu hiệu tri thức của tổ chức. “QTTT là một mô hình quản lý đa ngành mới nổi”, ngụ ý tới tất cả các khía cạnh của tri thức trong tổ chức, bao gồm sáng tạo, mã hóa, chia sẻ và bí quyết làm cho những hoạt động này thúc đẩy quá trình học tập và cải tổ của tổ chức" (Gotcha Project (SIMS), www.asis.org. trích trong Dalkir, 2005). “QTTT là quá trình xác định, tổ chức, chuyển giao và sử dụng thông tin và những kiến thức chuyên môn trong tổ chức" (American Productivity & Quality Center, trích trong Dalkir, 2005). Tóm lại, có rất nhiều định nghĩa về QTTT theo nhiều góc độ khác nhau. Nhưng có thể hiểu ngắn gọn QTTT liên quan đến tri thức bên trong tổ chức và cách dùng tri thức này tạo ra lợi thế cạnh tranh cũng như phát triển bền vững cho doanh nghiệp bao gồm việc nắm bắt, sáng tạo, chia sẻ, thu thập và áp dụng tri thức mới. Quản trị tri thức mang lại lợi ích cho từng cá nhân trong tổ chức, cho từng tập thể nhóm và cho cả tổ chức. Bảng 1 liệt kê một số lý do tại sao quản trị tri thức lại quan trọng đối với từng loại đối tượng.
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 175 Bảng 1. Lợi ích của việc áp dụng quản trị tri thức vào công việc Đối tượng Vai trò + Giúp các cá nhân hoàn thành tốt công việc và tiết kiệm thời gian thông qua việc ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn. Đối với cá nhân + Tạo ý thức kết nối gắn bó cộng đồng trong tổ chức. + Giúp các cá nhân thường xuyên cập nhật bản tình hình trong tổ chức. + Tạo những thử thách và cơ hội để cá nhân đóng góp vào tổ chức. + Phát triển kỹ năng chuyên môn + Xúc tiến việc tư vấn chia sẻ giữa những nhân viên có kinh nghiệm lành nghề với người mới vào nghề. Đối với nhóm + Thúc đẩy hợp tác và kết nối hiệu quả hơn. + Phát triển những hệ thống kiến thức nghiệp vụ chung giữa các thành viên tổ chức. + Xây dựng tiếng nói chung cho tập thể. + Giúp hoạch định chiến lược. + Giải quyết các vấn đề nhanh chóng. + Triển khai những quy tắc thực hành tốt nhất. Đối với tổ chức + Cải thiện chất lượng của tri thức tiềm ẩn bên trong sản phẩm và dịch vụ. + Thúc đẩy trao đổi ý tưởng và tăng cơ hội cho đổi mới. + Giúp tổ chức tăng năng lực cạnh tranh. + Tạo dựng được kho lưu trữ tri thức của tổ chức. (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Một trong những thách thức lớn nhất trong hoạt động QTTT là việc tổ chức, doanh nghiệp phải quản lý công việc hiệu quả, không ngừng thúc đẩy hoạt động hợp tác, giúp đỡ những nhân viên tri thức kết nối và tìm ra những chuyên gia, giúp tổ chức học hỏi và đưa ra những quyết định dựa trên những dữ liệu, thông tin, tri thức đầy đủ, hợp pháp và được diễn giải tốt. Muốn thực hiện được tốt hoạt động quản trị tri thức, vấn đề then chốt phải xác định được cái gì là quan trọng đối với những lao động tri thức - cái gì thực sự có ý nghĩa đối với họ và thực tiễn công việc chuyên môn của họ, cũng như những gì tổ chức cần tiến hành để đạt được điều này. Điều quan trọng là phải đạt được sự cân bằng. Nếu mục tiêu
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 176 khởi đầu quá lớn, hoạt động quản trị tri thức có nguy cơ trở nên quá chung chung, quá trừu tượng, quá quan cách và quá xa vời để những cá nhân trong tổ chức, doanh nghiệp có thể lĩnh hội tinh thần của quản trị tri thức. Tuy nhiên, nếu mục tiêu khởi đầu quá nhỏ, hoạt động quản trị tri thức có thể không tạo ra sự tương tác giữa các cá nhân đủ để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Để khích lệ hoạt động quản trị tri thức trong doanh nghiệp, cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ hệ thống công nghệ thông tin, cũng như hoạt động quản lý, nhằm tạo ra những phản hồi và ưu đãi thích đáng cho các hoạt động quản trị tri thức. Cuối cùng, để đạt hiệu quả tối ưu, những người tham gia vào hoạt động này cần phải phát triển kỹ năng và có hiểu biết về quản lý tri thức. Những kỹ năng, hiểu biết này vô cùng phong phú và đa dạng, xuất phát từ bản chất đa ngành của quản trị tri thức. Quản trị tri thức được liên hệ với rất nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, nhưng có một kết nối rất hay bị bỏ quên, đó là mối liên hệ giữa những kỹ năng về quản trị tri thức và kỹ năng của những chuyên gia quản lý thông tin (chuyên gia quản lý thông tin lại là những người ghi lại, tổ chức, lưu trữ, khôi phục và phổ biến những thông tin đã được đăng tải hoặc thông tin kỹ thuật số). Hoạt động quản trị tri thức đã làm nảy sinh một số vai trò và trách nhiệm mới của tổ chức, và rất nhiều trong số này đạt được từ một tổ chức lành mạnh, không chỉ dựa trên hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, mà còn dựa trên sự hiểu biết về cả ngành khoa học về thông tin. 2.2. Chu trình quản trị tri thức Sau khi phân tích, tổng hợp những nghiên cứu và cách tiếp cận chủ đạo đề cập tới chu trình quản trị tri thức, Dalkir (2005) đúc kết lại thành 3 giai đoạn chính, bao gồm: Nắm bắt hoặc/và sáng tạo tri thức; Chia sẻ và phân phối tri thức; Thu nhập và áp dụng tri thức. Trong quá trình chuyển đổi từ nắm bắt/sáng tạo sang giai đoạn chia sẻ và phân phối, tri thức được đánh giá, phân tích. Tri thức sau đó được đặt vào trong ngữ cảnh để có thể hiểu được (thu nhận) và sử
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 177 dụng được (áp dụng). Giai đoạn này sau đó được quay vòng ngược lại giai đoạn đầu để cập nhật những nội dung tri thức mới. Chu trình quản trị tri thức được thể hiện ở trong Hình 1. Hình 1: Chu trình quản trị tri thức (Nguồn: Dalkir (2005)) Nắm bắt tri thức ngụ ý tới việc nhận ra và sau đó có thể mã hóa những tri thức nội bộ đang tồn tại nhưng chưa được chú ý tới của tổ chức hoặc/và những tri thức mới, know-how, những cách tân mà trước đó không tồn tại trong tổ chức. Khi tri thức được phát minh ra theo cách này, bước quan trọng tiếp theo là đưa ra cách đánh giá theo tiêu chí lựa chọn phù hợp với các mục tiêu của tổ chức. Tiếp theo là khâu đánh giá giá trị, là khâu đưa tri thức mới vào một bối cảnh cụ thể. Cần phải phân tích mối quan hệ giữa tri thức và những nội dung liên quan đến nó: tác giả hay người khởi xướng ý tưởng và các chuyên gia trong ngành, cũng như những người có kinh nghiệm trong việc sử dụng hiệu quả nội dung này. Cuối cùng, bối cảnh hóa được cho là diễn ra thành công khi một nội dung mới được vận dụng vào chu trình kinh doanh của tổ chức một cách chắc chắn, liền mạch. Chu trình tích hợp bao gồm hầu hết các bước được mô tả trong chu trình quản trị tri thức được nói đến trong phần này. Chu trình quản trị tri thức sau đó được lặp lại khi người sử dụng hiểu và quyết định sử dụng nội dung đó. Người dùng sẽ xác nhận giá
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 178 trị sử dụng và họ sẽ báo khi nội dung đó hết hạn sử dụng hay không còn giá trị nữa. Người dùng sẽ giúp đánh giá phạm vi nội dung hoặc làm thế nào để khái quát hóa tri thức cụ thể thành những bài học kinh nghiệm thực tiễn có thể tham khảo được. Họ cũng thường xuyên cập nhật bản thông tin mới, những thứ giúp họ có thể đóng góp vào những chu trình lặp lại tiếp theo. 2.3. Vai trò của quản trị tri thức Gold và ctg (2001) xây dựng một mô hình tổng thể về mối quan hệ giữa năng lực QTTT (bao gồm các quy trình QTTT như thu nhận, chuyển đổi, áp dụng tri thức) của tổ chức và kết quả hoạt động của tổ chức. Sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM, các tác giả này chứng minh rằng năng lực QTTT có quan hệ thuận chiều với kết quả hoạt động của tổ chức. Donate và Guadamillas (2011) dựa trên dữ liệu khảo sát tại 111 công ty ở Tây Ban Nha chứng minh vai trò điều tiết của các yếu tố văn hóa, lãnh đạo và chính sách nguồn nhân lực đối với mối quan hệ giữa hai quy trình khai thác tri thức (exploitation) và phát triển tri thức (exploration) và kết quả đổi mới sáng tạo. Andreeva và Kianto (2011) thực hiện khảo sát định lượng với mẫu nghiên cứu gồm 221 doanh nghiệp tại ba quốc gia khác nhau (Phần Lan, Nga và Trung Quốc), hai tác giả này chỉ ra rằng các quy trình QTTT là sáng tạo tri thức, lưu trữ tri thức, chia sẻ tri thức, và thu nhận tri thức đều có tác động tích cực tới đổi mới sáng tạo, và quy trình sáng tạo tri thức còn đóng vai trò trung gian (mediate) trong mối quan hệ giữa ba quy trình QTTT còn lại với đổi mới sáng tạo. Fugate & ctg (2009) dựa trên kết quả phân tích SEM từ hơn 300 cán bộ quản lý làm việc tại các công ty dịch vụ hậu cần, chứng minh rằng các quy trình kiến tạo (generation), phổ biến (dissemination), chia sẻ (sharing), phản hồi (responsiveness) tác động mạnh tới kết quả hoạt động của tổ chức. Các học giả khi nghiên cứu mối quan hệ giữa QTTT và kết quả hoạt động của tổ chức cũng thường áp dụng cách tiếp cận tình huống
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 179 (contingency approach) để xem xét mối quan hệ này thay đổi thế nào khi có sự xuất hiện của các yếu tố khác như văn hóa, tổ chức, lãnh đạo, quản trị NNL (Donate và Guadamillas, 2011), mật độ tập trung tri thức trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp (Andreeva và Kianto, 2011) và vai trò của định hướng chiến lược (strategic orientation) đối với mối quan hệ giữa QTTT và đổi mới sáng tạo. Luận án của tác giả Phạm Anh Tuấn (2016) về “Tác động của quản trị tri thức đối với đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp”: tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm xác định việc chia sẻ tri thức trong tổ chức, tác động trực tiếp của các quy trình QTTT tới đổi mới sáng tạo. Thông qua việc tìm hiểu tác động trực tiếp của quản trị tri thức bao gồm các quy trình và chiến lược quản trị tri thức tới kết quả đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp Việt Nam để xác định các yếu tố thuộc về tổ chức giúp thúc đẩy QTTT trong các doanh nghiệp Việt Nam như cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức, chính sách quản trị nguồn nhân lực và công nghệ. 2.4. Quản trị tri thức trong trường đại học Nghiên cứu của Jing Tian và ctg (2009) về “QTTT và sáng tạo tri thức trong trường đại học: nghiên cứu dựa trên khảo sát trường đại học tại Nhật Bản”. Nghiên cứu này đã trả lời các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng phương pháp QTTT nhằm nâng cao việc sáng tạo tri thức trong trường đại học tại Nhật Bản. Nghiên cứu chỉ ra rằng QTTT trong trường đại học cũng như bất kỳ hoạt động có hệ thống liên quan đến hỗ trợ và nâng cao việc tạo ra kiến thức khoa học và thành tựu của mục tiêu nghiên cứu, bao gồm cả quá trình xã hội và các công cụ công nghệ máy tính có liên quan. Hai khảo sát và nghiên cứu trường hợp đã được thực hiện tại Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Nhật Bản (JAIST). Cuộc khảo sát đầu tiên tập trung vào QTTT trong trường đại học và đã điều tra các tình huống QTTT hiện tại, các yêu cầu đặc biệt và đa dạng từ các nhà nghiên cứu. Cuộc khảo sát thứ hai tập trung nghiên cứu các yếu tố hỗ trợ tiến trình sáng tạo tri thức trong trường đại học, từ đó tạo ra môi trường sáng tạo cho kiến thức khoa học.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 180 Các kết quả khảo sát cho thấy những trở ngại của việc ứng dụng QTTT trong trường đại học gồm một số các yếu tố: công nghệ hỗ trợ, yếu tố con người, văn hóa tại các phòng thí nghiệm, v.v... Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng môi trường sáng tạo tri thức trong trường đại học cần thiết phải xây dựng khung tư duy hệ thống QTTT trong các phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng các chiến lược cá nhân hóa, văn hóa chia sẻ tri thức từ đó hình thành giao tiếp khoa học, tư duy phản biện cũng như các nhóm làm việc. Bên cạnh đó, sử dụng các chiến lược công nghệ thúc đẩy quá trình luân chuyển, sáng tạo tri thức trong trường đại học. Tóm lại, nghiên cứu đã góp phần chỉ ra các bước thực tế giúp các trường đại học cải thiện năng lực QTTT, góp phần nâng cao kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu này thúc đẩy niềm tin rằng QTTT không những áp dụng trong các doanh nghiệp, mà còn trong các trường đại học. Các kết quả ở nghiên cứu này đã đưa ra một số yếu tố của QTTT cần thiết để áp dụng trong QTTT của trường đại học. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa làm rõ mối quan hệ, tác động của QTTT tới kết quả hoạt động của trường đại học, mà chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vai trò của QTTT đối với hoạt động đào tạo. Nghiên cứu của Marco Romano Manlio và ctg (2014) về “Sáng tạo và khai thác tri thức trong các trường đại học tại Italia: Vai trò của của chính sách bên trong tổ chức đối với các hoạt động sáng chế” đã xác định các yếu tố của QTTT có thể ảnh hưởng đến các hoạt động phát minh, sáng chế trong trường đại học. Ba giả thuyết được kiểm định thông qua phân tích hồi quy, xem xét các biến số khác nhau. Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng hoạt động phát minh, sáng chế trong trường đại học là do tác động của việc áp dụng các chính sách nội bộ liên quan đến quản trị tri thức. Việc áp dụng các chính sách nội bộ sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động sáng chế và hỗ trợ các nhà khoa học trong quá trình sáng tạo, chuyển giao tri thức. Điểm khác biệt so với đa số các nghiên cứu trước đây là tập trung vào các yếu tố thể chế ảnh hưởng đến hoạt động sáng chế trong trường
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 181 đại học, nghiên cứu này tìm hiểu các yếu tố học thuật có thể sáng tạo, định giá và khai thác hoạt động khoa học công nghệ, từ đó có hướng dẫn thực tế cho quản trị đại học. Nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một quốc gia là Italia, chưa thể phản ánh một số đặc thù của hệ thống giáo dục đại học tầm quốc gia. Nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng nó đến các khu vực địa lý khác nhau, trong đó các yếu tố thể chế và môi trường khác nhau, hoặc, duy trì vị trí địa lý, nghiên cứu tác động của các yếu tố QTTT đến hoạt động phát minh, sáng chế của trường đại học. Nghiên cứu của Renu Vashisth và ctg (2010) về “Rào cản và các điều kiện cần thiết cho hoạt động quản lý tri thức: Minh chứng từ các trường đại học tại Ấn Độ” đánh giá các rào cản và sự thuận lợi của dòng chảy tri thức và sáng tạo tri thức trong hệ thống đại học của Ấn Độ. Nghiên cứu này cho thấy các rào cản và điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng QTTT trong các khoa và trung tâm nghiên cứu tại các trường đại học Ấn Độ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các thành tố cá nhân và tổ chức xã hội quan trọng hơn là yếu tố công nghệ trong quản trị tri thức. Giảng viên và sự tương tác của họ tạo ra tri thức và thúc đẩy dòng chảy tri thức. Nghiên cứu dựa trên một dữ liệu tương đối nhỏ. Trong nghiên cứu này, chưa có sự phân biệt giữa các nhà khoa học thuần nghiên cứu và các nhà khoa học thực hiện song song việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong trường đại học tại Ấn Độ. Nghiên cứu của Junxia Wang và ctg (2006) về “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sáng tạo tri thức trong các tổ chức nghiên cứu tại Đức: bài học cho các nước đang phát triển” chỉ ra việc QTTT ẩn trong các nhóm nghiên cứu bằng cách sử dụng một mô hình lý thuyết về sáng tạo tri thức. Mục đích là xác định các yếu tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả sáng tạo tri thức, từ đó có các gợi ý cho các nước đang phát triển. Tác giả tiến hành 15 cuộc phỏng vấn trực tiếp đối với trưởng các nhóm nghiên cứu trong lĩnh vực vật lý thuộc các trường đại học tại Đức. Các câu hỏi phỏng vấn đề cập đến việc thực hành sáng tạo kiến thức và quản lý tri thức, từ đó đưa ra các đánh giá chủ quan. Các yếu tố tác động đến việc sáng tạo tri thức gồm: tài chính, chiến lược của tổ
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 182 chức, cơ sở hạ tầng của tổ chức và văn hóa tổ chức. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa tổ chức có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quá trình sáng tạo tri thức. Nghiên cứu của tác giả Deborah Blackman và Monica Kennedy (2009) về “QTTT và quản trị đại học hiệu quả” đã mô tả mối quan hệ giữa quản trị và QTTT trong trường đại học tại Úc, chú ý đến các khái niệm về tri thức, cấu trúc, vai trò của hội đồng quản trị nhà trường có thể tác động đến thành công trong tương lai của trường đại học. Các khái niệm, phân loại tri thức được mở rộng và được sử dụng làm khung phân tích cho một trường hợp nghiên cứu định tính dựa trên các quan sát và dữ liệu phỏng vấn thu được từ các hội đồng quản trị nhà trường. Nghiên cứu chỉ ra rằng để đạt được hiệu quả quản trị và thành công chiến lược phụ thuộc vào các hoạt động vận dụng tri thức phù hợp với tổ chức. Một sự thay đổi quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả quản trị trong tổ chức sẽ liên quan đến việc đánh giá lại vai trò của QTTT trong trường đại học. Tuy nhiên, đây là một trường hợp nghiên cứu duy nhất và cần nghiên cứu thêm để xác nhận kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu của Aurilla Aurelie và ctg (2009) nghiên cứu về “Góc nhìn về thực hành QTTT tại Đại học Bangkok ”. Nghiên cứu đã chỉ ra cách mà Trường Đại học Bangkok, Thái Lan bắt đầu hành trình quản lý tri thức của mình bằng cách kiểm tra các quy trình quản lý tri thức có thể góp phần cải thiện môi trường giáo dục, bằng cách cung cấp các phong cách giảng dạy mới và tăng cường mối quan hệ giữa giảng viên, sinh viên và nhân viên. Nghiên cứu tiếp cận nghiên cứu lý do tại sao Đại học Bangkok áp dụng QTTT bao gồm các công cụ được phát triển cũng như trong kế hoạch hành động của quản trị tri thức. Nghiên cứu đã chỉ ra các lợi ích tổng thể trong việc áp dụng QTTT tại các trường đại học. Cộng đồng giáo dục đã cải thiện không chỉ thông qua giao tiếp và hợp tác giữa sinh viên và nhân viên, mà còn thông qua việc tạo ra một môi trường hỗ trợ hiệu quả quá trình học tập và chia sẻ kiến thức giữa các tổ chức.
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 183 Nghiên cứu của Jennifer Rowley (2000) với chủ đề “Giáo dục đại học đã sẵn sàng cho quản trị tri thức” coi các tổ chức giáo dục đại học với vai trò là tổ chức kinh doanh các sản phẩm là tri thức. Mục đích nghiên cứu là để đánh giá khả năng ứng dụng các khái niệm QTTT vào các tổ chức giáo dục đại học ở Vương quốc Anh. Nghiên cứu làm rõ các thách thức liên quan đến việc tạo ra một môi trường tri thức trong giáo dục đại học và để đạt được hiệu quả QTTT cần xem xét đến các yếu tố về văn hóa, giá trị, cấu trúc tổ chức và hệ thống khen thưởng, đãi ngộ. Nghiên cứu của Roger Fullwood và ctg (2013) về “Chia sẻ kiến thức trong các trường đại học tại Vương quốc Anh” đã giúp bổ sung cho các hạn chế trong nghiên cứu trước đây về chia sẻ tri thức trong các trường đại học, bằng cách mô tả thái độ và ý định đối với việc chia sẻ kiến thức của các trường đại học tại Vương quốc Anh và tổng hợp quan điểm về một số yếu tố tác động đến các hoạt động chia sẻ tri thức. Nghiên cứu thông qua việc khảo sát dựa trên bảng câu hỏi đã được sử dụng để thu thập dữ liệu về thái độ và ý định của các nhà khoa học trong trường đại học tại Vương Quốc Anh đối với việc chia sẻ kiến thức và các yếu tố liên quan, bao gồm các chế độ đãi ngộ và tổ chức học tập, niềm tin vào lãnh đạo, cơ cấu tổ chức, tự chủ, kỷ luật, và nền tảng công nghệ. Kết quả được thu nhận từ phản hồi của 230 nhà khoa học ở 11 trường đại học. Các nhà khoa học tham gia khảo sát có thái độ tích cực đối với việc chia sẻ kiến thức và đánh giá cao việc chia sẻ tri thức. Điều này có thể liên quan đến niềm tin của họ rằng chia sẻ tri thức sẽ giúp cải thiện và mở rộng mối quan hệ của họ với các đồng nghiệp, và cung cấp cơ hội để thăng tiến. Đồng thời, họ tương đối trung lập về các yếu tố lãnh đạo, cơ cấu tổ chức và công nghệ thông tin trong chia sẻ kiến thức. Tác giả M. Sadiq Sohail và Salina Daud (2009) nghiên cứu về “Chia sẻ tri thức trong các tổ chức giáo dục đại học: thành tựu từ các trường đại học tại Malaysia”. Nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra và đánh giá các yếu tố tác động và rào cản trong việc chia sẻ tri thức thành công trong đội ngũ giảng viên đại học. Dựa trên các khái niệm và cách thức chia sẻ tri thức trong tổ chức, nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến việc chia sẻ tri thức như văn hóa, môi trường làm việc, thái độ
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 184 của nhân viên, động lực để chia sẻ và cơ hội để chia sẻ tri thức. Một mô hình được phát triển cho nghiên cứu và các giả thuyết được đưa ra. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát các giảng viên từ các trường đại học công lập và tư thục ở Malaysia. Kết quả nghiên cứu cung cấp những hiểu biết hữu ích cho quản trị của các tổ chức giáo dục đại học trong việc cung cấp các cách thức để tăng cường chia sẻ kiến thức giữa các giảng viên. Dựa trên nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu cho thấy một số kết quả tương phản. Đối với mẫu được rút ra từ đội ngũ giảng viên thuộc các trường đại học công lập, có một mối quan hệ đáng kể giữa chia sẻ kiến thức và các yếu tố độc lập được đề cập trước đó. Kết quả mẫu từ giảng viên nhân viên trong các trường đại học tư không cho thấy mối quan hệ như vậy. Ở Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thắng (2014) về "Lý thuyết sáng tạo tri thức của Nonaka và các ứng dụng trong các tổ chức công cộng ở Việt Nam" đã chỉ ra rằng: Việc chia sẻ kiến thức có tác động trực tiếp đến kết quả công việc của nhân viên trong các tổ chức công lập tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Thắng cho rằng việc hội nhập, đào tạo nhân viên mới sẽ giúp gia tăng chia sẻ kiến thức trong tổ chức, từ đó nâng cao năng suất làm việc của đội ngũ nhân viên. Những kết luận này là cơ sở với kỳ vọng rằng, việc tìm ra những tác động cụ thể của quản trị tri thức tới kết quả hoạt động của trường đai học sẽ giúp đề xuất những giải pháp để thúc đẩy quản trị tri thức và nâng cao chất lượng trường đại học. Nghiên cứu của nhóm tác giả Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Ngọc Thắng và Nguyễn Đăng Minh (2015) về “Ảnh hưởng của các khía cạnh tổ chức và công nghệ tới hành vi chia sẻ tri thức trong các trường đại học của Việt Nam” tập trung vào ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa tổ chức, phong cách lãnh đạo, hoạt động quản trị nguồn nhân lực, hỗ trợ công nghệ và nhu cầu công việc tới việc chia sẻ tri thức trong các trường đại học ở Việt Nam. Nghiên cứu này cho thấy mối liên hệ giữa văn hóa, khen thưởng và hành vi chia sẻ tri thức của các cá nhân trong trường đại học, đồng thời khẳng định vai trò của phong cách lãnh đạo
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 185 và các hỗ trợ công nghệ đối với hành vi chia sẻ tri thức của các cá nhân trong các trường đại học. Nghiên cứu của tác giả Trần Quang Huy (2016) về “Mối quan hệ giữa học hỏi của tổ chức và kết quả hoạt động trong các trường đại học công lập tại Việt Nam” đã cho thấy, trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam theo định hướng tự chủ, việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu là rất cần thiết. Nghiên cứu đã khẳng định học hỏi của tổ chức là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy kết quả hoạt động vượt trội. Nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Bích Ngọc (2016) về “Học tập tổ chức ở các tổ chức giáo dục: nghiên cứu trường hợp đại học công lập tại Việt Nam” chỉ ra tác động của sự tham gia của nhân viên đến quá trình học tập của trường đại học. 3. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG QUẢN TRỊ TRI THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức thì quản trị tri thức là vấn đề của các tổ chức và trở thành mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một tổ chức nào. Tuy nhiên ở nước ta, trong lĩnh vực giáo dục đại học, quản trị tri thức còn khá mới mẻ đối với các trường đại học, nơi thực hiện vai trò hàng đầu trong nghiên cứu, kiến tạo và truyền bá tri thức. Cùng với sự hỗ trợ mạnh mẽ của các công nghệ mới do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các trường đại học của Việt Nam hơn lúc nào hết đang đứng trước cơ hội vươn tới các hoạt động quản trị tri thức hiệu quả. Theo Kimiz Dalkir (2005), ứng dụng quản trị tri thức để mở rộng hoạt động của mình đang là xu thế ở nhiều nước trên thế giới, trong tất cả các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các trường đại học. Trong hệ thống giáo dục ở nước ta hiện nay, trường đại học có nhiều khả năng và thuận lợi trong ứng dụng quản trị tri thức: Một là, trường đại học có hệ thống tài liệu (trong thư viện) bao gồm những tài liệu chuyên sâu về các ngành khoa học và kỹ thuật, có hàm lượng tri thức cao. Trường đại học cũng là nơi triển khai nghiên cứu,
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 186 quản lý nguồn tri thức được tạo ra từ hoạt động đào tạo và nghiên cứu của nhà trường. Đó là các công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên, sinh viên, các luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu sinh. Theo Leda Bultrini & ctg (2016), nhiều kết quả khảo sát đã khẳng định rằng tri thức được sản sinh ra thông qua các hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học chiếm một phần lớn trong cơ sở tri thức của mỗi quốc gia. Có thể nói, trường đại học là một nơi sở hữu nguồn tài nguyên tri thức rất có giá trị. Do đó, quản trị và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên này đang là vấn đề trực tiếp đặt ra đối với các trường đại học. Hai là, trường đại học không chỉ là nơi cung cấp và phổ biến thông tin/ tri thức mà còn là nơi gặp gỡ, trao đổi và chia sẻ thông tin/ tri thức giữa các nhà nghiên cứu, các nhà chuyên môn, các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên. Ba là, trường đại học có nguồn nhân lực chất lượng cao với các nhà khoa học trình độ cao là đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Người làm việc tại trường đại học là những người được đào tạo, có trình độ chuyên môn và kỹ năng tốt, có điều kiện tiếp xúc với tri thức mới và công nghệ mới. Quản trị tri thức trong trường đại học lấy yếu tố nhà khoa học (giảng viên, nghiên cứu viên) làm trung tâm, do vậy đây là cơ sở thuận lợi để trường đại học tiếp cận các công cụ của quản trị tri thức và ứng dụng quản trị tri thức. Bốn là, trường đại học thường được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, bao gồm cả các thiết bị phần cứng và các phần mềm ứng dụng phục vụ cho công tác nghiên cứu và đào tạo. Đây là thuận lợi rất quan trọng vì sự vận hành của các chu trình quản trị tri thức chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ bởi các công cụ của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là các phần mềm ứng dụng trong sáng tạo, quản lý và phổ biến tri thức. 4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ QUẢN TRỊ TRI THỨC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA VIỆT NAM Trong nền kinh tế tri thức và xu thế tự chủ đại học, giá trị của trường đại học không còn nằm ở tài sản hữu hình mà ẩn chứa trong tài sản tri
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 187 thức. Các trường đại học cần ứng dụng quản trị tri thức để tăng tính hiệu quả hoạt động, tạo lợi thế trong bối cảnh cạnh tranh giữa các đại học. Ở Việt Nam, khái niệm quản trị dựa vào tri thức còn tương đối mới mẻ và chưa được trường đại học và xã hội nhận thức đầy đủ. Vì vậy, để có thể áp dụng quản trị tri thức cho các trường đại học, các nhà lãnh đạo/ quản lý của các trường đại học cần phải nhận thức và xác định: (1) Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng và tiên quyết trong quá trình sáng tạo tri thức. (2) Các tri thức mới thường được phát sinh trong quá trình làm việc. (3) Triết lý, tầm nhìn và sự ủng hộ của lãnh đạo đóng vai trò quyết định đối với việc tạo ra tri thức mới trong các trường đại học. Những nhận thức này sau đó cần được lãnh đạo nhà trường chuyển hóa thành các hành động cụ thể sau: - Hình thành và bổ sung chiến lược phát triển trường đại học dựa trên tri thức, từ đó xây dựng văn hóa trường đại học định hướng quản trị dựa vào tri thức nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, hành chính phục vụ tham gia vào môi trường sáng tạo và chia sẻ tri thức. - Xây dựng hệ thống và quy trình chia sẻ thông tin, tri thức trong các trường đại học, tăng cường các kỹ năng chia sẻ thông tin, tri thức cho cán bộ, chuyên viên, giảng viên và sinh viên/học viên. Tạo điều kiện cho sinh viên/học viên có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, đồng thời hợp tác, hỗ trợ người học trong việc chia sẻ kiến thức nhằm thúc đẩy quá trình hình thành quản trị tri thức. - Trong thời gian tới, vận dụng các lợi thế công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại, đẩy mạnh phát triển các thư viện đại học để thư viện đại học không chỉ là Trung tâm Thông tin - Thư viện mà còn trở thành Trung tâm Quản trị tri thức số, không chỉ phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường đại học, mà còn có thể mở rộng hoạt động của mình ra xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của các tổ chức và doanh nghiệp.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 188 - Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên cho giảng viên, đặc biệt là đào tạo nội bộ, người có kinh nghiệm đào tạo, hướng dẫn cho người mới; chú trọng việc đào tạo các kỹ năng cho giảng viên trong bối cảnh đổi mới hoạt động giảng dạy. - Tăng cường nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật, công nghệ và đổi mới hoạt động giảng dạy, phục vụ người học. Khuyến khích và tăng tính tự chủ trong các hoạt động sáng tạo tri thức bên trong các trường đại học. - Đẩy mạnh đào tạo và nghiên cứu liên ngành để tăng cường chia sẻ và sáng tạo tri thức. - Thành lập các doanh nghiệp khoa học công nghệ để tăng cường thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học. Có thể thành lập các công ty khởi nghiệp do chính nhà khoa học đồng sở hữu với cơ quan nghiên cứu theo mô hình công ty spin-off (university spin-off company hoặc technology spin-off company). TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Đặng Thị Việt Đức & Nguyễn Thu Hương (2016), Quản trị tri thức trong doanh nghiệp, NXB Thông tin và truyền thông. 2. Trần Quang Huy và Phạm Thị Bích Ngọc (2016), “Mối quan hệ giữa học hỏi của tổ chức và kết quả hoạt động của trường đại học công lập tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học thương mại, Trường Đại học Thương mại, Số tháng 7/2016, tr. 65-69. 3. Phạm Thị Ly (2008), “Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả - Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo Giáo dục Quốc tế và so sánh Lần thứ 53 tại Carolina, Hoa Kỳ. 4. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013), “Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập. 5. Ngô Kim Thanh (2013), “Quản trị tri thức”, Chương 21, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Tập II, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 641-681. 6. Nguyễn Ngọc Thắng (2011), "Quản trị dựa vào tri thức: kinh nghiệm từ Nhật Bản", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và kinh doanh, tr.172-178.
- Quản trị tri thức và khả năng áp dụng trong các trường đại học tại Việt Nam 189 7. Nguyễn Văn Thắng (2014), Lý thuyết sáng tạo tri thức của Nonaka và các ứng dụng trong các tổ chức công cộng ở Việt Nam. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tiếng Anh 8. Andreeva, Aino Kianto (2011), “Knowledge processes, knowledge‐inten- sity and innovation: a moderated mediation analysis”, Journal of Knowl- edge Management, Vol. 15 Issue: 6, pp.1016-1034. 9. Anh Tuan PHAM, Ngoc Thang NGUYEN, Dang Minh NGUYEN (2015), “Influence of Organisational and Technological aspects on the Knowl- edge Sharing Behavior in the Vietnam’s University Context”, Asian Social Science, Vol. 11, No. 10, pp 139-152. 10. Argote, L. and Ella Miron-Spektor (2011), Organizational learning: From ex- perience to knowledge, Organization Science 22.5, pp.1123-1137. 11. Aurilla Aurelie Bechina Arntzen, Lugkana Worasinchai and Vincent M. Ribie`re, (2009), “An insight into knowledge management practices at Bang- kok University”, Journal of Knowledge Management, Vol. 13 Iss 2 pp. 127-14. 12. Dalkir, K. (2005), Knowledge Management in Theory and Practice. McGill Uni- versity, Montrea. 13. Davenport, T. & Prusak, L. (1998), Working knowledge: How organizations manage what they know? Harvard Business School Press. 14. Deborah Blackman and Monica Kennedy (2009), ”Knowledge manage- ment and effective university governance”, Journal of Knowledge Man- agement, Vol. 13 Iss 6 pp. 547 - 563. 15. Gold, Arvind Malhotra and Albert H Segars (2001), Journal of Manage- ment Information Systems; Summer, No 18, pp. 185. 16. Leda Bultrini, Sally McCallum, Wilda Newman and Julien Sem- péré. Knowledge man- agement in Libraries and Organizations // IFLA Publications. - 2016. - Volume, p.173. 17. Jennifer Rowley (2000), “Is higher education ready for knowledge manage- ment, The International Journal of Educational Management, 14/7, pp.325 - 333. 18. Jing Tian, Yoshiteru Nakamori and Andrzej P. Wierzbicki, (2009),”Knowl- edge management and knowledge creation in academia: a study based on surveys in a Japanese research university”, Journal of Knowledge Man- agement, Vol. 13 Iss 2, pp. 76-92. 19. Nonaka, I., Takeuchi, H. (1995), The knowledge-creating company: howJapa- nese companies create the dynamics of innovation, Oxford University Press, New York.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 190 20. Pham Thi Bich Ngoc & Tran Quang Huy (2016), "Organizational Learn- ing in higher education institutions: a casestudy of a public university in Viet Nam", Journal of Economics and Development, National Economics University, Vol. 18, No.2, August 2016, pp. 88-104. 21. Roger Fullwood, Jennifer Rowley and Rachel Delbridge, (2013),”Knowl- edge sharing amongst academics in UK universities”, Journal of Knowledge Management, Vol. 17 Iss 1 pp. 123 - 136. Webiste https://lic.vnu.edu.vn. http://vnu.edu.vn/home/.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài 3: NHẬN THỨC LUẬN KHOA HỌC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA CON NGƯỜI (3 TIẾT)
4 p | 569 | 124
-
Quản trị công tác xã hội, chính sách và hoạch định
138 p | 654 | 107
-
Xử lý tình huống chính trị xã hội ở cấp cơ sở
19 p | 1111 | 97
-
Đào tạo - bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế đổi mới và hội nhập - PGS.TS. Lưu Xuân Mới
10 p | 263 | 45
-
Bài giảng Quản trị công tác xã hội: Bài 9 - GV. Kim Hoa
33 p | 140 | 25
-
Phát triển tri thức, công nghệ và tài sản trí tuệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập quốc tế
10 p | 79 | 9
-
ChatGPT - động lực đổi mới giáo dục: Vai trò của giáo viên trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo
7 p | 20 | 7
-
Kinh nghiệm trọng dụng nhân tài để hình thành nền kinh tế tri thức của một số quốc gia châu á và những gợi ý cho Việt Nam
8 p | 82 | 6
-
Phụ nữ Việt Nam đang vươn tới những giá trị hiện đại
12 p | 52 | 6
-
Các quan điểm và yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay
8 p | 82 | 4
-
Vai trò tiền tố của mô hình MOA và các yếu tố tác động đến việc tiếp nhận truyền thông xã hội
9 p | 50 | 3
-
Rèn luyện cho học sinh khả năng phê phán trong quá trình chiếm lĩnh tri thức toán học
11 p | 39 | 3
-
Nhận diện chính quyền tự trị địa phương của xã hội phương Đông - Tiếp cận lý thuyết và thực tiễn từ trường hợp Nhật Bản
9 p | 67 | 3
-
Quản trị trường học: Cơ sở lí luận, thực trạng đào tạo ở Việt Nam và thế giới
4 p | 68 | 3
-
Tri thức địa phương của người mảng ở Việt Nam
9 p | 62 | 3
-
Thích ứng với thay đổi của cán bộ quản lí trường đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp ở Đại học Quốc gia Hà Nội)
13 p | 67 | 2
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên khoa Kinh tế, trường Đại học Đồng Nai – kết quả nghiên cứu thực nghiệm
13 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn